Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Luận văn: Phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2010 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.17 KB, 26 trang )

Luận văn: Phân
tích tình hình xuất
khẩu gạo của Việt
Nam giai đoạn
2008-2010


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................4
2.Mục tiêu nghiên cứu:........................................................................................................6
2.1.Mục tiêu chung:.........................................................................................6
3.1 Phương pháp thu thập số liệu:...................................................................6
3.2 Phương pháp phân tích số liệu:.................................................................6
4. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................................6


LỜI CẢM TẠ

Trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề, em gặp khơng ít khó khăn nhưng
dưới sự tận tâm hướng dẫn của các cơ đã giúp em hồn thành chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo của các cô Bùi Lê Thái
Hạnh và cơ Nguyễn Thị Kim Phượng.Các cơ đã tận tình chỉ bảo, giúp em nhận ra
những sai sót và học hỏi thêm được nhiều điều trong quá trình thực hiện chuyên đề.
Tuy nhiên, vì kiến thức bản thân cũng như kinh nghiệm thực hiện chun đề
cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những sai sót. Mong các cơ bỏ qua và góp ý chân
thành để em nhận ra khuyết điểm và khắc phục.
Kính chúc các cơ ln dồi dào sức khỏe, thành công trong công việc cũng
như cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn.

Ngày 14 tháng 03 năm 2011


Sinh viên thực hiện
Bùi Định Nghĩa

LỜI CAM ĐOAN



Tơi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.

Ngày 14 tháng 03 năm 2011
Sinh viên thực hiện

Bùi Định Nghĩa

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài


Trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xuất khẩu là một
ngành nghề được đánh giá cao trong việc mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ cho
quốc gia, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển đất nước. Đã từ lâu cây lúa luôn
giũ một vị trí trung tâm trong ngành nơng nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. Hình
ảnh đất Việt thường được mơ tả như là một chiếc địn gánh khổng lồ với hai đầu là
hai vựa thóc lớn đó là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là
hai đồng bằng châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc
loại cao nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, điều kiện thời tiết khí hậu và địa lý thích
hợp cộng thêm đất đai màu mỡ đã tạo một môi trường lý tưởng cho sản xuất lúa gạo,
từ đó đã giúp gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam.Hiện

nay, ngoài việc đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nước ta ngày càng đẩy
mạnh việc xuất khẩu gạo, vì thế mà nước ta liên tục nằm trong tốp các nước dẫn đầu
về xuất khẩu mặt hàng này.Năm 2010 Việt Nam bán ra thị trường quốc tế khoảng
6,9 triệu tấn gạo đứng vị trí thứ 2 chỉ sau Thái Lan (nước xuất khẩu khoảng 9,03
triệu tấn), tiếp tục giữ vững vị trí là một trong hai nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế
giới.Nhưng liệu việc xuất khẩu gạo nhiều như vậy có thực sự là tốt hay khơng ?
Thực tế cho thấy, mặc dù an ninh lương thực trong nước vẫn được đảm bảo, nhưng
vẫn còn tồn tại một số bất cập trong việc quản lí và điều hành xuất khẩu, xuất hiện
dấu hiệu đầu cơ làm cho giá gạo trong nước tăng lên, người tiêu dùng trong nước
tiếp tục chịu thiệt. Mặc khác, nước ta vẫn chủ yếu chú trọng đến năng suất mà ít
quan tâm đến các giống gạo ngon có giá trị xuất khẩu cao (những giống gạo thường
cho năng suất thấp).Ngoài ra, việc phát triển nghề trồng lúa và có những biện pháp
hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu mà đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo, để nước ta giữ vững vị trí xuất khẩu trên thương trường quốc tế là vấn đề ln
được nhà nước xem trọng. Để nhìn lại thực trạng xuất khẩu gạo của nước ta trong
thời gian qua, em quyết định thực hiện đề tài “Phân tích tình hình xuất khẩu gạo
của Việt Nam giai đoạn 2008 -2010 ” và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cũng như sản lượng gạo xuất khẩu để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trong
thời gian tới.


2.Mục tiêu nghiên cứu:
2.1.Mục tiêu chung:
Phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2010 và đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
− Tìm hiểu thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
− Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc cung ứng nguồn gạo cho
xuất khẩu.
− Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng gạo xuất

khẩu.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Từ nguồn số liệu thứ cấp: báo, tạp chí nghiên cứu khoa học và internet.
3.2 Phương pháp phân tích số liệu:
− Mục tiêu 1: sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng xuất
khẩu gạo của Việt Nam trong những năm 2008-2010.
− Mục tiêu 2: sử dụng phương pháp phân tích để phân tích những thuận lợi và
khó khăn trong việc cung ứng nguồn gạo cho xuất khẩu.
− Mục tiêu 3: từ mô tả và phân tích trên sử dụng phương pháp tự luận để đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng gạo xuất khẩu trong
thời gian tới.

4. Phạm vi nghiên cứu:
4.1 Phạm vi không gian:
Chuyên đề được nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
4.2 pham vi thời gian:
Chuyên đề nghiên cứu tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
4.3 Phạm vi nội dung:


Phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2008-2010, từ đó đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và sản lương gạo xuất khẩu.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2008-2010
1.1 Vấn đề an ninh lương thực trong nước.
Lịch sử Việt Nam ghi nhận nạn đói kinh hoàng năm 1945, đã cướp đi sinh
mạng của hơn 2 triệu người Việt Nam.Mặc dù nạn đói xảy ra do nhiều nguyên nhân

khách quan lẫn chủ quan nhưng nó đã dóng lên một hồi chng cảnh báo về vấn đề
an ninh lương thực quốc gia.Nước ta với dân số hơn 86 triệu dân, và cứ tăng trung
bình hơn 1 triệu người qua mỗi năm, cùng với quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị


thu hẹp dần thì vấn đề đảm bảo an ninh lương thực trong nước luôn được Đảng và
Nhà nước ta đặt lên hàng đầu. Trong giai đoạn 2008-2010 an ninh lương thực quốc
gia được đảm bảo khá tốt:Năm 2008, hậu quả nặng nề của cơn bão lớn vùng trọng
điểm lúa ở Mi-an-ma và động đất ở Trung Quốc đã làm giảm lượng cung, tăng cầu
lương thực và ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường giá cả lương thực châu á và thế
giới cả năm 2008. Thực tế đó cho thấy, khủng hoảng lương thực thế giới còn diễn
biến phức tạp, khó lường nên vấn đề xuất khẩu gạo của nước ta cũng cần tính tốn
thận trọng. Nếu tiếp tục xuất khẩu 4 triệu tấn gạo (8 triệu tấn lúa) cả năm 2008 như
Bộ Cơng Thương đã đề nghị thì lượng lúa còn lại để tiêu dùng cho mọi yêu cầu
trong nước (lương thực cho người, chăn nuôi, để giống, dự trữ...) cịn khoảng 28
triệu tấn, bình qn 321,8kg/người/năm và 26,8 kg/người/tháng (tương đương 15 kg
gạo).Với mức này thì an ninh lương thực trong nước vẫn được bảo đảm.Bước sang
năm 2009 sản lượng lúa gạo thu hoạch tiếp tục lập kỷ lục, với sản lượng 38,9 triệu
tấn lúa, lượng gạo xuất khẩu cả năm đạt 5,8 triệu tấn. Nhờ vậy, mặc dù xuất khẩu
gạo tăng tốc nhanh về sản lượng, nhưng vẫn đảm bảo đủ lượng gạo tiêu dùng trong
nước. Năm 2010 sản lượng lúa đạt xấp xỉ 40 triệu tấn, lượng gạo xuất khẩu đạt gần
6,9 triệu tấn.Trong năm 2010, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã chỉ đạo 30
doanh nghiệp thành viên mua 1 triệu tấn gạo dự trữ để bình ổn giá lúa vụ đơng xn
tại Đồng bằng sơng Cửu Long.Trong khi đó Thủ tướng Chính phủ vừa chỉ đạo Bộ
Tài chính mua 50.000 tấn gạo để bổ sung lương thực dự trữ quốc gia năm 2010.
1.2 Thực trạng xuất khẩu gạo của nước ta trong những năm gần đây.
Xuất khẩu gạo của nước ta trong vài năm trở lại đây đã có những bước phát triển
đáng kể về kim ngạch cũng như thị trường xuất khẩu.Theo hiệp hội lương thực Việt
Nam, kể từ khi bắt đầu xuất khẩu từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu
khoảng 70 triệu tấn gạo ra trường quốc tế, mang về kim ngạch khoảng 20 tỷ đơ la,

đóng góp khơng nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước.Tình hình cụ thể như sau:
1.2.1.Về sản lượng.
Bảng 1 – SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
Năm

Khối lượng xuất khẩu
(1000 tấn)

Chênh lệch


2006

4.600

+/-

%
-

2007

4.558

-42

-0,91

2008


4.830

272

5,97

2009

6.052

1.222

25,30

2010

6.890

838

13.85

.
Nguồn AGROINFO, 2010
Từ bảng thống kê sản lượng xuất khẩu gạo trên cho thấy sản lượng xuất khẩu gạo
của nước ta liên tục tăng qua các năm trong giai đoạn 2008 – 2010.Năm 2008 xuất
được 4.830 nghìn tấn gạo tăng lên 6.052 nghìn tấn vào năm 2009, đánh dấu bước
nhảy vọt của xuất khẩu gạo Việt Nam, tăng 25,30% so với năm 2008 tương ứng
1.222 nghìn tấn.Bước sang năm 2010 nước ta xuất ra thị trường quốc tế 6.890 nghìn

tấn, tăng 838 nghìn tấn, tương ứng 13,85% so năm 2009.
Xuất khẩu lúa gạo nước ta ngày càng tăng trước hết là do sự phát triển của khoa
học-công nghệ đã cải thiện cơng tác giống, chăm sóc lúa, phịng ngừa sâu
bệnh...giúp tăng năng suất lúa, nâng cao nguồn cung lúa gạo trong nước.Việc giữ
vững và gia tăng sản lượng lúa của cả nước là tiền đề tốt cho việc đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia cũng như đẩy mạnh xuất khẩu gạo trên các thị trường trong khu
vực và thế giới.
Bên cạnh đó, do q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng ở
nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới làm cho diện tích đất canh tác bị thu
hẹp.Điển hình như Ấn Độ, Philipines từng là những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế
giới cũng trở thành nước nhập khẩu gạo.Nguồn cung trên thế giới bị thu hẹp đã tạo
cơ hội cho ngành xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển.
1.2.2.Về kim ngạch và giá cả
Trong nhiều năm qua, giá trị hạt gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới được
nâng cao.Giá gạo được cải thiện và có xu hướng tăng qua các năm, dẫn đến kim
ngạch xuất khẩu gạo cũng có xu hướng tăng theo.


Hình 1 – Biểu đồ thể hiện sản lượng và giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam từ
2006 đến 6th/2010
Nguồn AGROINFO, 2010
Sản lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu bình qn có xu hướng tăng giảm trái ngược
nhau.Khối lượng tăng thì giá giảm, khi giá tăng thì khối lượng xuất khẩu lại
giảm.Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu gạo lại phụ thuộc vào hai yếu tố trên, dẫn
đến kim ngạch xuất khẩu trong từng năm không thể tăng cao do luôn chịu sự ảnh
hưởng từ sự sụt giảm của một trong hai yếu tố đó.Chỉ có riêng năm 2008, vừa đạt
được mức tăng về khối lượng và giá xuất khẩu nên trong năm này kim ngạch xuất
khẩu tăng mạnh.
Bảng 2 – KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2006 ĐẾN 6th/2010



Nguồn AGROINFO, 2010
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1.490 triệu USD năm 2007 lên 2.910 triệu
USD, tăng 95,3% tương ứng 1.420 triệu USD đem về nguồn ngoại tệ khơng nhỏ cho
ngành xuất khẩu gạo nói riêng, xuất khẩu cả nước nói chung.Đạt được sự tăng
trưởng cao như vậy là do khối lượng xuất khẩu trong năm tăng, cùng với mức tăng
giá xuất khẩu.Năm 2007 giá xuất khẩu bình quân chỉ đạt 295 USD/tấn, thì đến năm
2008 giá xuất khẩu là 614 USD/tấn, tăng hơn 2 lần so với mức giá xuất khẩu năm
trước.
Nếu năm 2007 có khối lượng xuất khẩu giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng, thì
ngược lại năm 2009 là năm đạt kỉ lục về xuất khẩu gạo so với những năm trước,
nhưng kim ngạch lại giảm 15,36% so với cùng kì năm 2008.Nguyên nhân chủ yếu là
do giá xuất khẩu bình quân sau khi tăng đột biến năm 2008 đã hạ nhiệt, giảm xuống
còn 400 USD/tấn, với mức giảm 214 USD/tấn so với năm 2008.
Ngoài ra sự giảm giá còn do sự can thiệp của chính phủ Thái Lan – nước xuất khẩu
gạo lớn nhất thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong các kho dự trữ với ước tính
khoảng 7 triệu tấn.
Kim ngạch 6 tháng đầu năm 2010 đạt 1.730 triệu USD, giảm 1,0% so với 6 tháng
đầu năm 2009.Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do giá sàn gạo liên tục tăng trong


thời gian qua theo sự điều tiết của chính phủ để đảm bảo nơng dân có lãi, trong khi
đó chất lượng gạo nước ta còn thấp nên khi giá tăng cao, các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn trong ký hợp đồng với đối tác làm giảm khối lượng gạo xuất khẩu.
1.2.3.Về thị trường xuất khẩu
a.Năm 2008
Năm 2008 được xem là năm xuất khẩu gạo gặt hái được thành công nhất trong giai
đoạn này.Nếu năm 2007, gạo nước ta xuất khẩu hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ
thì năm 2008 con số này đã tăng lên 128 quốc gia và vùng lãnh thổ.



Nguồn AGROINFO, 2010
Philipines vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của nước ta.Năm 2008, nước này
nhập khẩu 1.800 nghìn tấn, với kim ngạch 1.400 triệu USD, chiếm gần 40% lượng
gạo xuất khẩu của nước ta.
Trong tốp 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất năm 2008 thì có có 3 thị
trường đứng đầu bảng là thị trường truyền thống, chiếm 63,8% về giá trị và 54,8%
về lượng.Bảy thị trường còn lại là các thị trường mới, chiếm 18,4% về giá trị và
23,3% vê lượng,trong đó thị trường châu phi chiếm 11,7% về giá trị và 14,5% về
lượng, có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất.
b.Năm 2009
Năm 2009 gạo Việt Nam xuất sang 20 thị trường chính, nhưng chủ yếu vẫn là xuất
sang Philipines, Malaysia, Cuba, Singapore.


Xuất khẩu gạo sang thị trường Philipines vẫn giữ vị trí đầu bảng với khối lượng hơn
1,7 triệu tấn, trị giá hơn 917 triệu USD, đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu
vực châu Á, chiếm tới 35% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm
2009.Tiếp theo là Malaysia, Cuba, Singapore, Đài Loan, Iraq.
Năm 2009 gạo vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang châu Phi, đạt
kim ngạch 587 triệu USD, chiếm 44% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp đôi so
với 22% của năm 2008.
c.6 tháng đầu năm 2010


Các thị trường xuất khẩu gạo của nước ta 6 tháng đầu năm 2010 nhìn chung khơng
thay đổi nhiều so với năm 2009.Nhưng có sự thay đổi về vị trí giữa các thị trường.
Philipines vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của nước ta với khối lượng 1.278
nghìn tấn, trị giá gần 820 triệu USD, giảm 18,26% về khối lượng và giảm 3,42% về

kim ngạch so với cùng kì năm trước.Tiếp đến là Singapore với khối lượng 339.046
tấn, kim ngạch đạt gần 139 triệu USD, Đài Loan với khối lượng 288.874 tấn đạt kim
ngạch hơn 111 triệu USD.Mặt khác, khối lượng và kim ngach xuất khẩu sang 2
nước Malaysia và Cuba lại sụt giảm so với cùng kỳ năm trước.Malaysia giảm
47,77% về giá trị, Cuba giảm 42,22%.
Nhìn chung 6 tháng đầu năm 2010, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo ở hầu
hết các thị trường đều giảm.Chỉ có Singapore, Đài Loan, Hồng Cơng là tăng mạnh.
1.3 Những bất cập còn tồn tại.


1.3.1 Cơng tác quản lí và điều hành xuất khẩu gạo
Thời gian vừa qua, hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu lúa gạo của
Việt Nam đã có các bước tiến lớn, trở thành một trong những ngành kinh tế có tầm
ảnh hưởng sâu rộng trong nước cũng như trên trường quốc tế. Về cơ bản, an ninh
lương thực được giữ vững, thu nhập của người nông dân từ lúa gạo ngày càng được
cải thiện, vị thế xuất khẩu được khẳng định trên thị trường thế giới.
Công tác điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua mặc dù đạt được những kết
quả đáng ghi nhận nhưng những yếu kém, hạn chế trong công tác tổ chức điều phối,
nhất là phương thức thu mua, dự trữ, quản lý thị trường lương thực trong nước của
Nhà nước, cụ thể là các tổng công ty lương thực nhà nước đã bộc lộ những tồn tại và
thách thức sau:
Thứ nhất, chưa xác định rõ trách nhiệm của thương nhân xuất khẩu gạo với
các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của đất nước, với người nơng dân sản xuất lúa gạo,
với việc bình ổn giá thu mua lúa cho người nông dân và giá bán gạo cho người tiêu
dùng trong nước.
Thứ hai, với cơ chế điều hành xuất khẩu gạo hiện nay tất cả các doanh nghiệp
đều có quyền kinh doanh xuất khẩu gạo.Doanh nghiệp xuất khẩu thừa số lượng
nhưng chất lượng không đồng đều:Theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện nay cả
nước có khoảng 205 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, nhưng trong đó chỉ có
11 doanh nghiệp chủ lực chiếm đến 68% thị phần, trong khi đó có đến 82 doanh

nghiệp xuất khẩu gạo có qui mơ sản lượng dưới 1.000 tấn/năm, 41 doanh nghiệp
xuất khẩu khoảng 200 tấn/năm; số doanh nghiệp cịn lại xuất khẩu được rất ít. Trong
số các doanh nghiệp là thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam có khơng ít
doanh nghiệp chưa đảm bảo đủ thực lực về vốn, cơ sở xay xát, kho bãi, lại nằm xa
vùng nguyên liệu, nhưng lại được xuất khẩu trực tiếp với số lượng lớn.
Trong khi đó có nhiều doanh nghiệp ngồi thành viên của Hiệp hội Lương
thực Việt Nam có vốn lớn, có đủ điều kiện về cơ sở xay xát, kho bãi, gần vùng
nguyên liệu, nhưng lại không được xuất khẩu trực tiếp. Số lượng doanh nghiệp xuất
khẩu gạo nhiều và năng lực hoạt động khơng đồng đều như vậy dẫn đến tình trạng
vừa độc quyền vừa tản mạn, cạnh tranh không lành mạnh.


Có những doanh nghiệp khơng có kho tàng, khơng có cơ sở chế biến, không
kinh doanh chuyên sâu về ngành lương thực, chỉ tham gia xuất khẩu khi thị trường
thuận lợi. Nhiều doanh nghiệp không dự trữ đủ lượng gạo cần thiết cho xuất khẩu,
khi ký được hợp đồng xuất khẩu mới tổ chức thu mua. Kinh doanh xuất khẩu gạo
mới thực hiện phần ngọn của quá trình sản xuất, chế biến, lưu thơng, xuất khẩu gạo.
Từ đó dẫn tới tình trạng tới mùa thu hoạch nơng dân phải chờ doanh nghiệp ký được
hợp đồng xuất khẩu, thương lái mới đến mua. Khi thị trường xuất khẩu thuận lợi
nông dân bán được lúa với giá cao. Khi thị trường xuất khẩu khó khăn nơng dân lại
rơi vào tình cảnh được mùa rớt giá.
Thứ ba, Do có điều kiện tiếp cận với các mối quan hệ cấp Chính phủ, tiếp
xúc với các đối tác nước ngoài nên các doanh nghiệp lớn có được các lợi thế hơn đối
với các hợp đồng tập trung, cũng như ký được nhiều hợp đồng thương mại. Khi có
được độc quyền xuất khẩu thì có quyền xác định giá mua lúa trong nơng dân. Ngồi
ra, các doanh nghiệp xuất khẩu lớn này còn được hưởng một lợi thế nữa từ chủ
trương giữ ổn định thị trường, bảo đảm chỉ số giá tiêu dùng của Chính phủ, doanh
nghiệp sẽ không lo mua lúa với giá cao, mặc dù có thời điểm giá xuất khẩu gạo có
cao.Đối với các doanh nghiệp có qui mơ nhỏ, năng lực yếu nhưng số lượng quá
nhiều, trong thực tế đã xảy ra tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá

bán gạo (thường là đối với các hợp đồng thương mại) và tất nhiên là sẽ mua lúa
trong nông dân với giá thấp hơn.
Thứ tư, việc khống chế lượng gạo xuất khẩu theo chỉ tiêu hướng dẫn hàng
quý cũng gây ra những bức xúc trong xã hội khi thị trường xuất khẩu được giá cao
do bị khống chế số lượng xuất khẩu nên người nông dân không bán được lúa với giá
cao. Trong khi Nhà nước chưa tổ chức được lượng gạo dự trữ lưu thơng cần thiết để
can thiệp bình ổn giá bán gạo cho người tiêu dùng trong nước khi có biến động về
thị trường giá cả thì trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo
không được quy định rõ ràng cụ thể.
Thứ năm, thị trường gạo vốn biến động, bất ổn, các tín hiệu cần được theo
sát thường xuyên. Nhưng thời gian qua, do thiếu nguồn thông tin dự báo sớm, và sự


phối hợp trong cơng tác thơng tin cịn bất cập nên việc điều hành xuất khẩu và giao
dịch ký kết hợp đồng chưa được như mong muốn.
Thứ sáu, Chính phủ cũng như Hiệp hội Lương thực Việt Nam còn can thiệp
quá sâu vào công việc kinh doanh, xuất khẩu gạo, làm cho thị trường lúa gạo bị méo
mó. Sự can thiệp của Chính phủ có thể bắt nguồn từ lý do an ninh lương thực, cân
nhắc việc kiềm chế lạm phát, không để cho giá lúa gạo tăng quá cao. Sự can thiệp
của Hiệp hội Lương thực Việt Nam có thể từ lý do các công ty kinh doanh không đủ
năng lực, kinh doanh thường bán giá thấp, gây thiệt hại cho đất nước, ảnh hưởng tới
hiệu quả xuất khẩu chung.
Cuối cùng các rủi ro lẽ ra phải được phân tán ở các doanh nghiệp thì lại đổ dồn lên
cấp vĩ mô, và bắt người nông dân phải gánh lấy trách nhiệm “an ninh lương thực”,
nhưng quyền lợi thì khơng được hưởng tương xứng.
1.3.2 Dấu hiệu đầu cơ
Trong bất cứ ngành nghề nào cũng vậy, một khi thị trường diễn biến theo xu
hướng cung khơng đủ cầu thì tất nhiên sẽ xảy ra tình trạng đầu cơ tích trữ nhằm đẩy
giá lên cao.Thực tế là vậy, nhưng cũng khơng ít trường hợp tình trạng đầu cơ tích
trữ lại xảy ra xuất phát từ yếu tố chủ quan – sự thiếu thông tin của người dân cùng

với sự lơ là của các cơ quan chức năng.Một ví dụ điển hình là năm 2008, thơng qua
những hình ảnh từ báo đài, tạp chí, internet người dân ta chứng kiến cảnh người dân
Hoa Kì đổ xơ nhau xếp hàng mua gạo về dự trữ vì sợ thiếu gạo ăn, dẫn đến tâm
trạng hoang mang, cùng lúc đó xuất phát từ việc ngày 25/4, gạo nếp từ miền tây về
TPHCM đột nhiên giảm từ 230 tấn một ngày xuống còn 200 tấn.Dân bán gạo rỉ tai
nhau tin đồn miền tây hết gạo càng làm cho tâm lý của người dân hoang mang
thêm.Tin đồn này đánh vào tâm lý sợ hết gạo ăn trong dịp lễ và ngại giá gạo tiếp tục
tăng cao của người dân, từ đó mới có chuyện gạo bị làm giá.Lợi dụng cơ hội đó, các
tiểu thương đầu nậu, cố ý ghìm gạo lại khơng bán ra thị trường, cịn các vựa gạo tại
các chợ đầu mối đã nhân cơ hội ngàn vàng, đóng cửa khơng bán tiếp cho cửa hàng
nhỏ để chờ khi hàng quá hút lập tức bung ra bán với giá cao gấp 2, thậm chí là 3 lần
giá bình thường.


Thực tế đó chỉ ra rằng, nếu như người dân ta khơng rơi vào tình trạng thiếu
thơng tin, cịn các cơ quan chức năng khơng lơ là thì ngay từ khi có những
thơng tin về cuộc khủng hoảng lúa gạo thế giới, các cơ quan chức năng có thể
dự báo được diễn biến và có những thơng tin, cơng bố kịp thời và mạnh mẽ đến
người dân về tình hình lương thực trong nước, bình tĩnh khơng đổ xơ đi mua
gạo tích trữ trong thời gian ngắn thì chắc chắn khơng ai có đủ sức gom gạo
ghìm giá tạo nên cơn sốt ảo hiện tại.

CHƯƠNG 2: NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC CUNG
ỨNG NGUỒN GẠO XUẤT KHẨU
2.1.Những thuận lợi
Đất nước ta hình thành và phát triển trên cái nơi của nền văn minh lúa nước,
ngồi yếu tố kinh nghiệm được ông cha ta truyền lại qua các thế hệ, thì nước ta cũng
hội tụ nhiều điều kiện rất thuận lợi để phát triển ngành lúa nước:
- Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo, độ phì
nhiêu của đất chi phối sâu sắc đến khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm. Nước

ta có nhiều đồng bằng phù sa màu mỡ thích hợp để canh tác nơng nghiệp, đặc biệt là
canh tác lúa nước.Trong đó quan trọng nhất là Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng
Bằng Sông Cửu Long .Mặc dù hai vùng châu thổ này chỉ chiếm khoảng 15% tổng
diện tích nhưng đã tạo ra trên 2/3 sản lượng gạo của cả nước: Toàn vùng Đồng Bằng


Sơng Hồng với tổng diện tích 15.000 km² chiếm 4,5% diện tích của cả nước, trong
đó tổng diện tích trồng lúa hơn 1 triệu ha; Đồng Bằng Sông Cửu Long với tổng diện
tích gần 40000 km², tổng diện tích trồng lúa đạt gần 4 triệu ha, cùng với điều kiện
khí hậu cận xích đạo nên rất thuận lợi phát triển ngành nơng nghiệp (mưa nhiều,
nắng nóng ), đặc biệt là phát triển trồng lúa nước.Là vùng có sản lượng lúa hàng
năm chiếm đến 55% sản lượng lúa của cả nước và cung ứng trên 95% sản lượng gạo
xuất khẩu - là nơi đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia.Với diện tích và sản
lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước.Bình quân lương thực đầu người
gấp 3 lần so với lương thực trung bình cả nước.Nhờ vậy Đồng Bằng Sông Cửu Long
được xem là vựa lúa của cả nước.
- Tài ngun khí hậu đóng vai trị quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn
năng lượng và các yếu tố khác như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu nước ta có điều kiện
lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên.
- Một lợi thế nổi bật của nghề trồng lúa ở Việt Nam là nguồn tài nguyên nước rất
dồi dào nhờ có hệ thống sơng ngịi chằng chịt.
- Hơn nửa dân số nước ta xuất thân từ nhà nơng dẫn đến nguồn lực dồi dào
khơng chỉ có ưu thế về số lượng mà còn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu
nghề trồng lúa.Lịch sử sản xuất lúa của nước ta đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thưở
cộng đồng nguyên thủy người Việt cho đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới
nay, đã để lại cho các thế hệ sau nhiều kinh nghiệm, tri thức q báu.Kho tàng kinh
nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi
thế thông thường của các tài sản thiên nhiên như tài sản đất, tài sản nước, t sản khí
hậu.
- Chính sách cơ cấu lại giống lúa được quan tâm hơn và bước đầu đã đem lại

hiệu quả, nâng cao năng suất lúa.
- Tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực quốc gia
xem như đã đảm bảo được an ninh lương thực trong nước, nên có thể đẩy mạnh xuất
khẩu.
- Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia
vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo và đã có ít nhiều kinh nghiệm.


2.2 Những khó khăn
Bên cạnh những thn lợi thì nước ta cũng gặp khơng ít khó khăn :
- Giữa các vùng sinh thái khác nhau trong nước lại có sự chênh lệch đáng kể về
năng suất lúa. Ở các vùng đồng bằng một số hộ nông dân trồng lúa đã đạt được năng
suất rất cao, trong khi đó năng suất lúa ở các vùng trung du miền núi và các vùng đất
cát duyên hải thường lại rất thấp. Các vùng sản xuất nơng nghiệp nằm ngồi các
châu thổ sơng lớn đều khơng có gạo dư thừa, ngoại trừ một vài năm gần đây ở một
số địa phương vùng cao nông dân được mùa do gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, nên
lượng gạo sản xuất đã vượt hơn mức tiêu dùng của địa phương. Sản xuất lúa gạo ở
các vùng duyên hải và trung du miền núi chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực
tại chỗ, hay nói một cách khác là sản xuất thuần tuý mang tính tự cung tự cấp, và
vẫn cịn tình trạng một số hộ nông dân không đủ lương thực cho tiêu dùng gia đình
từ một đến hai tháng trong năm.
- Luợng gạo tham gia vào các kênh lưu thông chủ yếu phụ thuộc vào hai nguồn
cung cấp chính đó là Đồng bằng sơng Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Bất kỳ
một rủi ro thiên tai nào xảy ra ở hai vựa thóc lớn này đều gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến an ninh lương thực quốc gia.
- Ngành chế biến xay xát lúa gạo hiện đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
từ một hệ thống chủ yếu dựa vào các cơ sở chế biến xay xát quy mô nhỏ phục vụ
nhu cầu tiêu dùng nội địa và chỉ có một số ít các nhà máy xay xát gạo qui mô lớn
phục vụ cho thị trường xuất khẩu, tiến tới một mơ hình chế biến công nghiệp hiện
đại hơn với nhiều nhà máy chế biến quy mơ lớn. Trình độ cơng nghệ áp dụng trong

chế biến lúa gạo của Việt Nam hiện vẫn còn lạc hậu, chất lượng gạo chế biến còn
thấp, tỉ lệ hao hụt lớn và tỉ lệ gạo vỡ còn cao. Một trong những ngun nhân chính
làm chậm q trình hiện đại hố cơng nghệ của ngành chế biến lúa gạo đó là thiếu
vốn đầu tư.
- Đối với các cơ sở chế biến gạo qui mô lớn, hệ thống cung cấp tín dụng chính
thức hiện tại do thiên về ưu tiên phục vụ cho các doanh nghiệp quốc doanh nên đã
phần nào đã kìm hãm khả năng cạnh tranh có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân.
Hơn nữa, phần lớn các hợp đồng chính phủ lại giao cho các công ty quốc doanh thực


hiện, nên khả năng mở rộng các hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân bị
hạn chế.
- Chi phí cao trong hệ thống cung cấp tín dụng chính thức đã khơng khuyến
khích được người nơng dân và các nhà chế biến lúa gạo gia tăng mức đầu tư, và
buộc nơng dân phải tìm đến hệ thống tín dụng phi chính thức và khiến các nhà xay
xát phải trì hỗn hoặc cắt giảm đầu tư.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
SẢN LƯƠNG GẠO XUẤT KHẨU
3.1 Mục tiêu cần đạt trong công tác quản lý và xuất khẩu gạo
− Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước khi nghĩ đến vấn đề
xuất khẩu, tăng thêm khối lượng lương thực dự trữ, thỏa mãn nhu cầu
lương thực trong bất kì tình huống nào.
− Đảm bảo nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp.
− Tiếp tục giữ vững vị trí là một trong hai nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế
giới.
3.2 Các chính sách liên quan đến sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới vào năm 1986, chính phủ Việt Nam đã xây
dựng nhiều chính sách theo hướng kinh tế thị trường. Các chính sách tác động đến
sản xuất lúa gạo và thúc đẩy nông dân gia tăng sản xuất là các chính sách về sử dụng

đất, đầu tư, thương mại và thị trường.
Chính sách đất đai


Trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, Việt
Nam đã bước đầu trao quyền sử dụng đất cho nông dân. Luật Đất đai năm 1988
được xem như một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với nông dân. Nông dân
được quyền sử dụng đất từ 10 đến 15 năm; nông hộ được tự chọn loại cây trồng và
quyết định số lượng sản phẩm bán ra thị trường. Luật Đất đai được sửa đổi năm
1993 cho phép nông dân tự do lựa chọn loại sử dụng đất với thời gian sử dụng được
tăng lên 20 năm đối với các loại cây hàng năm và 50 năm đối với cây lâu năm; cho
phép "trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp" quyền sử dụng đất. Phản ứng
tích cực của nơng dân đượd thể hiện qua sự gia tăng sản lượng lúa gạo liên tục trong
suốt thập niên vừa qua.
Chính sách đầu tư và tín dụng
Những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải tạo hệ thống
thuỷ lợi. Đầu tư trong ngành nông nghiệp tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng hỗ trợ
sản xuất và phát triển nông thôn. Trong thập niên 90, đầu tư vào thuỷ lợi chiếm
khoảng 70% tổng đầu tư của ngành nơng nghiệp.
Về tín dụng nông thôn, hiện nay hệ thống hỗ trợ tài chính nơng thơn chính
thức có Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Mục tiêu của hệ
thống hỗ trợ tài chính nơng thơn chính thức là (i) đảm bảo đầu vào cho sản xuất
nông nghiệp; (ii) tăng cường công nghệ sau thu hoạch và xuất khẩu nông sản; (iii)
hỗ trợ đa dạng hố nơng nghiệp; (iv) cải tạo hạ tầng cơ sở nông thôn; (v) giảm
nghèo và giảm thiên tai. Chính sách tín dụng bảo đảm cho nông dân vay vốn trực
tiếp và hỗ trợ nông dân nghèo vùng sâu, vùng xa và vùng cao. Tỷ lệ cho vay đối với
các hộ gia đình trồng lúa tăng từ 5 triệu đồng tới 10 triệu đồng mà không cần ký
quỹ.
Chính sách về vật tư nơng nghiệp
Trước đổi mới, vật tư nông nghiệp được phân phối thông qua hợp tác xã.

Trong thời kỳ đổi mới, vai trò của hệ thống hợp tác xã suy giảm, vai trò của kinh tế
tư nhân trong phân phối vật tư nông nghiệp trở nên quan trọng. Mặc dù chính phủ
vẫn kiểm sốt đầu vào bằng hạn ngạch và vẫn duy trì quyền nhập khẩu độc quyền


của doanh nghiệp nhà nước (SOEs), thuế nhập khẩu phân bón phân bón hầu như
khơng đáng kể. Chính phủ cũng khuyến khích nơng dân cải thiện giống lúa bằng
cách bãi bỏ thuế nhập khẩu giống nhằm đạt mục tiêu 70% giống lúa mới.
Chính sách thương mại quốc tế.
Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch xuất khẩu từ năm 1996 và kể từ ngày 1 tháng 5
năm 2001, cho phép tất cả các thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh lương thực
được tham gia xuất khẩu gạo.

3.3 Một số giải pháp
Cần phải tiếp tục cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh để đảm bảo an
ninh lương thực và xố đói giảm nghèo cũng như để gia tăng kim ngạch xuất khẩu
cho ngành hàng lúa gạo. Có hai lĩnh vực quan trọng mà ở đó một mơi trường kinh
doanh thuận lợi sẽ giúp cho ngành lúa gạo phát triển được. Một là, phải nâng cao
hiệu suất của ngành hàng lúa gạo; và hai là, Việt Nam phải tạo được khả năng để trở
thành nhà xuất khẩu cho các thị trường gạo đặc sản và gạo chất lượng cao. Để thực
hiện được hai mục tiêu trên Việt Nam phải tạo dựng được một môi trường sản xuất
kinh doanh thuận lợi cho cả hai khu vực: kinh tế quốc doanh và kinh tế tư nhân. Các
nỗ lực nhằm cải thiện năng suất phải tập trung vào tăng năng suất lúa và giảm chênh
lệch về năng suất giữa các vùng. phải xử lý một loạt các vấn đề liên quan đến khâu
giống, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và vật tư nông nghiệp, cũng như các dịch
vụ khuyến nông. Mặc dù khả năng tăng thêm năng suất lúa ở các vùng đồng bằng
châu thổ (vốn đã có được mức năng suất trung bình khá cao) là khơng nhiều, song
cơ hội để cải thiện năng suất lúa ở các vùng xâu, vùng xa và các vùng đất cao vẫn
còn.
Khu vực kinh tế tư nhân phải được khuyến khích tham gia phát triển các thị

trường gạo đặc sản có giá trị kinh tế cao, đem lại lợi ích cho một số ít các hộ nơng
dân có khả năng cung cấp các giống lúa gạo chất lương cao. Đồng thời cũng cần
phải khuyến khích gia tăng sản lượng và năng suất của các loại gạo đại trà khác.


5. Kết luận và kiến nghị.
5.1 Kết luận
Trong những năm qua, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục
tăng, điều đó cho thấy khả năng huy động sản lượng gạo cho xuất khẩu của nước ta
ngày càng được nâng cao.Hơn nữa chất lượng gạo xuất khẩu gạo hiện nay cũng
đang được nước ta quan tâm nhiều hơn cả từ lựa chọn giống mới và đầu tư thiết bị
chế biến.
Bên cạnh đó, việc khẳng định và phát huy ngày càng cao hơn nữa vị thế là
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới dựa trên những thế mạnh và tiềm năng sẵn có
cùng các chủ trương, chính sách kịp thời là một hướng đi đặc biệt cần thiết.
Cũng vì vậy mà đề tài xuất khẩu gạo vẫn luôn là vấn đề quan trọng cho việc
mở rộng thêm thị phần và sản xuất những loại gạo chất lượng cao, đáp ứng đa dạng
các nhu cầu trong nước và thế giới, góp phần khơng nhỏ cho cơng cuộc Cơng nghiệp
hóa – Hiện đại hóa đất nước.
5.2 Kiến nghị
− Nâng cao sản lượng cũng như chất lượng gạo xuất khẩu ra trường quốc tế.
− Tăng cường thâm canh tăng năng suất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở
những nơi có điều kiện.Trong đó thâm canh tăng năng suất là hướng chủ
yếu lâu dài, kết hợp nâng cao chất lượng gạo hàng hóa.
− Đa dạng hóa trong sản xuất, đa dạng hóa về chủng loại gạo (gạo thông
thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hóa về phẩm cấp các giống lúa
(cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng
cấp 1, cấp 2)
− Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong
khu vực nhà nước lẫn tư nhân.

6. Tài liệu tham khảo
7. Phụ lục chi phí
8. Phụ lục lịch hoạt động


×