Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Bài tiểu luận: Quá trình lưu thông của vàng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.68 KB, 32 trang )

Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân
biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lượng riêng lớn;
vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm thước đo giá trị - nó đã được chọn
từ xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải.
Đã có rất nhiều vật phẩm được sử dụng làm tiền, bao gồm cả những thứ tưởng như không
thể như vỏ ốc, lá cây thuốc lá. Những thuộc tính cần phải có để một dạng vật chất trở
thành dạng cơ bản của tiền là
• Dễ phân biệt
• Bền vững
• Ổn định vể lượng sẵn có
• Giá trị nội tại không bị biến động.
Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là dạng vật chất duy nhất trên
thế giới đáp ứng được. Lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến trong
nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính được. Phần lớn vàng
được tàng cất trong kho, quỹ, két ở dạng “chức năng” của nó là vật lưu trữ giá trị. Nhu
cầu vàng cho mục đích khác chỉ là trang sức, răng giả và đồ điện tử mà thôi. Việc sử
dụng vàng làm đồ trang sức và các vật trang trí khác có thể coi là cùng chức năng lưu trữ
giá trị bởi thuộc tính thẩm mĩ của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so
với lượng vàng được tàng trữ dưới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu vàng trong lĩnh
vực nha khoa đang giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật liệu trông giống răng thật.
Ngoài vàng ra, bất kỳ vật phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay
đổi.
Quá trình đi đến chọn vàng làm tiền, trong các xã hội, khác nhau theo thời gian và địa
điểm. Tuy vậy các nhà sử học tin rằng, giá trị cao của vàng nhờ đẹp, tinh khiết, không bị
ăn mòn, luôn ổn định, và dễ nhận ra đã đưa nó trở thành vật bảo toàn giá trị và thước đo
giá trị của các dạng hàng hóa, vật chất khác. Ở thành Babylon cổ đại, giạ lúa mì (36 lít)
đã được sử dụng làm đơn vị tính toán với khối lượng vàng tương ứng được sử dụng làm
vật mang giá trị. Những hệ thống tiền tệ cổ xưa dựa trên lương thực sử dụng vàng để biểu
hiện giá trị. Nghiệp vụ ngân hàng (banking) bắt đầu xuất hiện khi vàng ký gửi tại ngân
hàng có thể được chuyển từ một tài khoản sang tài khoản khác trực tiếp hoặc cho vay lấy
lãi suất.


Khối lượng riêng lớn của vàng (19,3 g/cm³) có nghĩa là những thủ đoạn pha vàng với các
kim loại khác để có thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện “Eureka” nổi
tiếng của nhà bác học Ác-si-mét). Có một số kim loại nặng hơn vàng. Trong số các kim
loại tương đối phổ biến thì chỉ có osmium (22,6 g/cm³), iridium (22,4 g/cm³), bạch kim
(21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn vàng. Thế nhưng chúng đều đắt hơn
vàng còn volfram thì giá gần bằng vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và
không hiệu quả.
Khi được sử dụng thay mặt vàng trong hệ thống tiền tệ, chức năng của tiền giấy là nhằm
giảm nguy hiểm có thể xảy ra khi vận chuyển vàng, giảm khả năng làm xấu những đồng
xu vàng và tránh việc rút dần phương tiện thanh toán ra khỏi lưu thông như đầu cơ hay
hao mòn. Sự xuất hiện tiền giấy ban đầu chỉ thuần túy bởi sự thiếu tin cậy khi vận chuyển
vàng, đặc biệt là những rủi ro trên những hành trình dài; bên cạnh đó còn bởi các nước
muốn sự giao thương phải đặt dưới sự kiểm soát của họ. Tiền tệ được đảm bảo bằng kim
loại quý đôi khi được gọi là tiền biểu hiện. Và giấy bạc được phát hành theo cách này gọi
là chứng chỉ tiền tệ, một cách gọi để phân biệt nó với các dạng khác của tiền giấy.
Trên thực tế, trong phần lớn lịch sử xã hội loài người, bạc mới là phương tiện lưu thông
chủ yếu và là kim loại quan trọng đóng vai trò tiền tệ. Vàng được sử dụng là vật mang giá
trị cao nhất, và là phương tiện thanh toán chỉ khi cần phải gọn nhẹ như việc thanh toán
cho quân đội. Trong một số thời điểm, vàng thay thế bạc trong vai trò đơn vị cơ sở cho
thương mại quốc tế, đó là thời kỳ hoàng kim của đạo Hồi (năm 662 đến 1258), thời kỳ
đỉnh cao của các thành quốc buôn bán Italia trong thời Phục hưng, và đáng kể nhất là
trong thế kỷ 19. Vàng duy trì vai trò là kim loại của kế toán lưu trữ tiền tệ cho đến khi hệ
thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ năm 1971. Cho đến nay, nó vẫn là đối tượng dự trữ
quan trọng ở các ngân hàng trung ương và chính phủ, là phương tiện duy trì khả năng
thanh khoản và thực hiện chức năng bảo toàn giá trị.
Tổng lượng vàng mà con người đã khai thác cho đến nay thật ít một cách kinh ngạc –
khoảng 125 ngàn tấn. Nếu toàn bộ số vàng đó được xếp ở một chỗ thì chỉ một nhà thi đấu
bóng rổ đủ chứa toàn bộ (cao 9 m, rộng 18 m, dài 36 m).
Giá vàng hiện nay khoảng US$640 một ounce tức là khoảng 20.000 đôla Mỹ một kg, giá
trị toàn bộ dự trữ vàng của thế giới là chừng 2,5 nghìn tỷ đôla Mỹ. Con số này còn ít hơn

lượng tiền mặt lưu thông tại Mỹ. Do đó, nếu người ta muốn quay lại bản vị vàng thì hoặc
là vàng phải lên giá rất nhiều (vài chục đến vài trăm lần) hoặc chỉ đảm bảo một phần nhỏ
giá trị tổng số tiền mặt lưu hành.
Vàng với vai trò dự trữ ngày nay
Trong thập niện 1990, nước Nga bán hết phần lớn lượng dự trữ vàng từ thời Liên Xô,
trong khi đó, một số quốc gia khác tích trữ vàng để chuẩn bị cho Liên minh tiền tệ và
Kinh tế Châu Âu. Chỉ còn đồng Franc của Thụy Sĩ là đồng tiền chuyển đổi ra vàng. Tuy
nhiên, dự trữ vàng với lượng đáng kể tại nhiều nước là một công cụ bảo vệ đồng tiền của
họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này hình thành lượng dự trữ khổng lồ
tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có xu hướng được bù lại bởi giá vàng mạnh lên.
Vàng vẫn là tài sản tài chính cơ bản của gần như tất cả các ngân hàng trung ương bên
cạnh ngoại tệ và trái phiếu chính phủ. Nó cũng được tích trữ tại các ngân hàng trung
ương như là một biện pháp đề phòng Ước tính, 25% toàn bộ lượng vàng có trên mặt
đất được cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung ương.
Tiền xu vàng và vàng thỏi được mua bán rộng rãi tại các thị trường có tính thanh khoản
cao, và do đó vẫn là hình thức cất giữ tài sản cá nhân. Cho dù một số tổ chức, cá nhân
phát hành tiền ví dụ tiền kỹ thuật số quy ra vàng, thì chúng vẫn phải được bảo đảm bằng
dự trữ vàng của họ.
Năm 1999, để bảo vệ vai trò cất trữ giá trị của vàng, Ngân hàng trung ương Châu Âu đã
ký “thỏa thuận Washington”, tuyên bổ rằng họ không cho phép vay nợ vàng để đầu cơ và
họ cũng không tham gia vào thị trường vàng với vai trò là người bán, trừ khi các giao
dịch đó đã ký kết trước thời điểm ký thỏa thuận trên.
Những năm cuối của Thời kỳ khủng hoảng giá hàng hóa (1980-2000) cũng đã ảnh hưởng
đến vàng, giá vàng đã tăng vượt mức giá được giao dịch trong vòng 20 năm. Thực tế này
dẫn đến hậu quả là các tổ chức quản lý tiền tệ lại sử dụng vàng để giữ vững giá trị đồng
tiền của họ, dẫu vậy, không có nghĩa là quay trở lại bản vị vàng. Trên thực tế ngày nay thì
ngược lại, vàng càng đắt đỏ thì bản vị vàng càng khó thực hiện
Giá vàng tăng ảnh hưởng tới lãi suất tiền gửi?
Những biến động của thị trường vàng cuối năm đã ảnh hưởng tới giá trị
đồng tiền, gây ra tâm lý bất an cho những người gởi tiền tại ngân hàng.

Mặc khác, tình trạng “đô la hóa” thị trường tiền tệ cũng khiến cho những
người giữ tiền VN lo ngại.
Giá vàng lên cơn sốt có ảnh hưởng tới lãi suất tiền gửi hay không? Ngày 13/12, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy có cuộc trao đổi với báo chí xung
quanh vấn đề này.
Giá vàng thời điểm gần đây liên tục biến động theo hướng tăng giá. Ông có thể đánh giá
tác động của sự biến động này đối với thị trường trong nước?
Sự biến động của loại hàng hóa đặc biệt này nhất định có tác động tới thị trường. Ví dụ,
thị trường bất động sản, tác động tới xu hướng của người dân trong việc nắm giữ tài sản
dự trữ của mình, do đó sẽ ảnh hưởng tới luồng tiền vốn huy động bằng VND, USD hay
vàng.
Tuy nhiên, theo tôi tác động của giá vàng hiện không lớn như những năm trước khi vàng
còn được coi là giá trị của đồng tiền. Cho nên đa số người dân bình thường không bị ảnh
hưởng bởi giá vàng; giá cả các mặt hàng tiêu dùng bình thường cũng không bị ảnh
hưởng.
Vậy giá vàng biến động có ảnh hướng tới việc tăng lãi suất tiền gửi hiện nay?
Theo tôi là không. Bởi ngay ở mức cao hiện nay, giá vàng trong nước vẫn thấp hơn thị
trường quốc tế. Không phải VND đang mất giá mà các ngân hàng phải nâng lãi suất,
thậm chí VNĐ còn hơi cao giá. Vấn đề huy động vốn vào các tổ chức tín dụng nếu gặp
khó khăn và không đáp ứng được nhu cầu lại là chuyện khác và phải tính đến lãi suất hợp
lý hơn để huy động được vốn.
Vì sao Nhà nước vẫn khống chế chặt chẽ biên độ giao dịch của tỉ giá hối đoái giữa VNĐ
với ngoại tệ đã tạo sự chênh lệch giữa tỉ giá chính thức với tỉ giá thực tế?
Đứng về mặt quản lý Nhà nước, vẫn luôn có sự chênh lệch giữa tỉ giá chính thức với tỉ
giá thực tế. Vấn đề là ít nhất tìm ra được khoảng rộng đủ linh hoạt để người mua, người
bán tìm đến nhau dễ dàng. Chúng ta đang đứng trước thực tế, nếu nới lỏng hơn nữa
những kiểm soát về tỉ giá chính thức thì còn phải quan tâm đến những biến động khác
trong khi nền kinh tế chưa thực sự ổn định vững chắc, nhất là lạm phát.
Do đó, vừa qua Ngân hàng Nhà nước mới chỉ dám nới biên độ giao dịch trong phạm vi
0,25% so với tỉ giá giao dịch ngày hôm trước. Ở các nước, họ không khống chế, biến

động có thể tới 1%-2% nhưng không gây nên xáo động trong tâm tư người dân. Nhưng
nếu VN tùy tiện nới lỏng, chỉ mới biến động 50 đồng (so với 15.000-16.000 đồng chưa là
gì cả) nhưng sẽ lập tức có biến động.
Vì vậy, hiện giờ biến động hằâng ngày ở thị trường chính thức chỉ có 5-7 đồng, còn ở bên
ngoài thị trường tự do lại khác. Chính vì thế, người dân tìm đến những dịch vụ đổi tiền
không chính thức để có thể được lợi hơn.
Làm sao phá được ranh giới giữa hai thị trường mới là mục tiêu của sự kiểm soát. Trên
cơ sở đó mới phát triển được dịch vụ thu đổi ngoại tệ.
Việc sử dụng ngoại tệ một cách phổ biến là có lợi hay hại?
Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của
mình, thậm chí có khi còn lấn lướt. Có nghĩa là anh không đủ hiệu lực trong thực thi
chính sách tiền tệ. Vì thế, phải tìm cách kiểm soát và loại trừ dần. Tuy nhiên, phải có
chính sách, biện pháp một cách khôn ngoan, không thể dùng sự nhiệt tình được.
Lãi suất phù hợp sẽ hạn chế chuyển dịch từ VNĐ sang
ngoại tệ
Theo ông Lê Đức Thúy: Các tổ chức quốc tế đánh giá, tình trạng
“đô la hóa” tại VN ở mức trung bình so với các nước đang phát
triển.Thứ hai, việc giảm “đô la hóa” ở VN biến chuyển khá
nhanh, ngoại tệ được thu hút vào ngân hàng chính là một biểu
hiện của việc giảm “đô la hóa” trong nền kinh tế.
Năm 1995 chỉ có khoảng 1,5 tỉ USD tiền gửi từ khu vực dân cư,
hiện nay con số này khoảng 8 tỉ USD. Chính phủ đã giao cho
Ngân hàng Nhà nước VN xây dựng đề án chống “đô la hóa”.
Chống “đô la hóa” sẽ phải là những biện pháp mang tính kinh
tế: Tỉ giá hối đoái tương đối ổn định- người dân sẽ ít lo sự mất
giá của đồng tiền; lãi suất phải hợp lý để tránh sự chuyển dịch
từ đồng tiền này sang tiền kia.
TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG NĂM 2010 ĐẾN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Posted on 24/01/2011 by Civillawinfor

TS. ĐỖ THỊ THỦY – VietinBank
1. Năm của những mức giá kỷ lục trên thị trường vàng
Trong những năm gần đây, giá vàng có xu hướng tăng
nhanh. Năm 2010 thị trường vàng (TTV) biến động bất
thường với những mức giá kỷ lục liên tiếp được thiết lập.
Tháng 11/2010 người dân đã chứng kiến giá vàng trong nước đạt mức giá 38 triệu
đồng/lượng. Từ cuối năm 2009 đến ngày 21/12/2010 giá vàng quốc tế tăng 26%, giá vàng
trong nước tăng 46%. Sự biến động của TTV đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế đặc
biệt trong bối cảnh khủng hoảng. Bài toán vàng, lạm phát lại một lần nữa thách thức các
nhà điều hành chính sách tiền tệ.
Vậy những nguyên nhân nào khiến giá vàng trong nước tăng đột biến?
Thứ nhất: Giá vàng Việt Nam chịu tác động của giá vàng thế giới
Giá vàng thế giới đã có những bước ngảy vọt chưa từng có, lần đầu tiên trong vòng 10
năm qua, đạt cao nhất vào năm 2010, tăng gấp 5 lần. Vào trung tuần tháng 10/2010, giá
vàng thế giới đã lập kỷ lục 1.379,1$/oune, tăng 22% so với đầu năm. Vàng đã trở thành
tài sản đặc biệt, không chỉ các Ngân hàng trung ương (NHTW) mà các quỹ đầu tư nhỏ lẻ
rất quan tâm. Giá vàng thế giới tăng do 3 nguyên nhân chính:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nhà đầu tư tìm đến vàng như một chỗ trú ẩn an
toàn: Nhân tố chính kích động giá vàng là lạm phát hoành hành các nền kinh tế. Trong
hai năm qua, cùng với các chiến dịch kích thích tăng trưởng kinh tế, các NHTW của Mỹ,
châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác đã tìm cách tăng chi tiêu đồng thời
in thêm tiền mặt. Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào nền kinh tế toàn cầu, khiến lạm phát
gia tăng.
Mặt khác, các yếu tố quốc tế đầy rủi ro sau khủng hoảng khiến vàng trở thành tài sản
được ưa chuộng để tích trữ. Chiến dịch nới lỏng chính sách tiền tệ đã không thể thúc đẩy
nền kinh tế và giảm thất nghiệp ở các nước như mong muốn. Thay vào đó, luồng "tiền
nóng" chảy sang các nền kinh tế đang nổi, nơi chúng được đổ vào các mặt hàng giữ giá
như vàng.
Tại Mỹ, sự mất lòng tin vào đồng USD khiến giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm mạnh và
lãi suất tăng vọt. Cứ 18 ngày, Mỹ lại phát hành các loại giấy tờ ghi nợ tương đương giá

trị sản lượng vàng khai thác 1 năm và mỗi năm nước Mỹ vay nợ tương tương 1/3 tổng số
lượng vàng hiện có trên thế giới. Tại Châu Âu, nợ xấu tại một số quốc gia có biểu hiện
ngày một trầm trọng hơn, thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến kênh đầu tư vàng…
Cung yếu: Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không
thể đáp ứng đủ mức cầu. Dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua
đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, đơn giản vì không có
nguồn quặng mới đủ để tăng sản lượng khai thác và thay thế lượng vàng đi vào tiêu dùng.
Trong năm qua, sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn
20%.
Cầu bùng nổ: Bên cạnh các yếu tố cơ bản khiến giá vàng luôn theo xu thế đi lên như: nhu
cầu vàng trang sức và vàng công nghiệp ngày càng tăng; tâm lý ưa chuộng vàng của một
số quốc gia (điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ), thì động thái găm giữ vàng của các nhà
đầu tư, các chính phủ đã khiến nhu cầu vàng năm 2010 tăng vọt. Theo Hội đồng vàng
toàn cầu, tổng giá trị đầu tư vào vàng trong quý 3/2010 tăng lên mức kỷ lục 9,6 tỷ USD,
tăng 60% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, các nhà đầu tư và một số NHTW, chủ
yếu ở Trung Đông và châu Á, cũng chuyển sang dự trữ vàng. Trong năm 2009-2010, các
NHTW của Ấn Độ, Sri Lanka và Cộng hòa Mauritius mua 212 tấn, Bangladesh mua 10
tấn. Iran đã tuyên bố chuyển 45 tỷ USD dự trữ sang đồng Euro và vàng. Một số quốc gia
Trung Đông khác cũng chuyển 200.000 thùng dầu thô/ngày sang vàng, tương đương 140
tấn vàng/năm (nếu tính theo tỷ giá vàng/dầu thô hiện nay).
Mặc dù giá vàng lên rất cao nhưng theo tính toán của các nhà đầu tư, thị trường này vẫn
còn nhiều tiềm năng. Kết quả phân tích biểu đồ chu kỳ giá vàng cho thấy, tại thời điểm
ngay sau khi giá mặt hàng này chạm đỉnh, tỷ trọng cổ phiếu vàng chiếm 26% tổng giá trị
cổ phiếu đầu tư toàn cầu. So với năm 2009, tỷ trọng này chỉ chiếm 0,8% – một con số
không đáng kể. Do đó, các Quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ SPDR vẫn tiếp tục mua vàng với
khối lượng lớn để canh giá cao bán ra kiếm lời. Hoạt động đầu tư vàng riêng lẻ của tư
nhân cũng phát triển rất mạnh ở nhiều nước…
Thứ hai: Tâm lý giữ vàng
Vàng là một công cụ đầu tư, cất trữ truyền thống của người Việt Nam. Việc quy đổi tài
sản theo giá trị của vàng đã trở thành thói quen lâu đời và đã được người Việt Nam lựa

chọn là phương tiện đo lường, trao đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Trước những đợt
biến động giá vàng trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã đổ xô đi mua
vàng. Có thể thấy vàng đã len lỏi vào định giá hàng hoá, dự trữ và dẫn đến “vàng hoá”.
Trên thực tế, Việt Nam cũng nằm trong những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới
(Năm 2006, nhập 91 tấn vàng, năm 2007 nhập 51 tấn vàng, năm 2008 nhập 90,5 tấn
vàng).
Mặt khác, cùng với khủng hoảng kinh tế, lạm phát, năm 2010 việc đầu tư vào các chứng
khoán và bất động sản đều hạn chế, thậm chí thua lỗ đã khiến các nhà đầu tư Việt Nam
tập trung vào vàng. Theo tính toán sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của
Việt Nam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuối
năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời
điểm và sang năm 2010 lượng vàng trong dân cũng tăng cao. Do đó, việc nhìn nhận vai
trò của vàng đối với hệ thống tài chính là hết sức quan trọng.
Thứ ba: Cung vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ
Trong khi cầu vàng trong nước tăng đột biến thì cung lại rất hạn chế. Khoảng 95% lượng
vàng tiêu thụ tại Việt Nam được nhập khẩu, tuy nhiên hoạt động nhập khẩu vàng được
quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn
ngạch từ NHNN. Tháng 5/2008, để làm dịu áp lực lạm phát và bình ổn nền kinh tế,
NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Điều này hạn chế lượng ngoại hối dùng để nhập
vàng, nhưng lại tạo ra ít nhất là ý niệm khan hiếm vàng. Khi chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà
đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm đồng USD và đẩy giá
USD lên cao.
Thứ tư: tỷ giá hối đoái tăng cao
Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó
lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương
ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để
nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy
giữa vàng, USD.
2. Tác động của giá vàng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các Ngân

hàng thương mại (NHTM)
Theo báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng
vàng nhập khẩu trừ đi số đã xuất khẩu) khoảng 1.000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD.
Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang
được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức
ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các
NHTM nói riêng.
Mặt khác, giá vàng tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn
định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có
thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau:
- Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá
vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng.
Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở TTV và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn
của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân
hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
- Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu
hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối
lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua
USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm
soát.
- Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ
giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện
tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở
thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác
tăng theo, gây nguy cơ lạm phát.
- Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu
ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh
chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại.
- Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên
GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ.

Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo
tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này
chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi
khối lượng vàng và TTV đang bành trướng hiện nay.
Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở
thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh
toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Vì vậy, việc quản lý TTV,
vấn đề vàng hóa và đô la hóa cần phải được nghiên cứu toàn diện hơn để có chiến lược và
chính sách hợp lý.
3. Chính sách của Chính phủ tác động đến việc bình ổn thị trường và hoạt động
kinh doanh của các NHTM
Trước tình hình tăng phi mã của giá vàng trên thế giới và trong nước, trong những năm
qua Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách nhằm bình ổn tình hình thị trường. Cụ thể:
Trước tiên, để hạn chế lượng ngoại hối nhập vàng, giảm bớt thâm hụt thương mại, tháng
5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Tuy nhiên việc ngừng cấp phép chỉ là
giải pháp tình thế. Trên thực tế, giải pháp này đã có những tác động ngược đến tỷ giá và
lạm phát ở mức độ nhất định và cần phải có sự điều chỉnh phù hợp. Từ đó đến nay,
NHNN đã một số lần phải nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vàng, cho phép doanh nghiệp
nhập khẩu khi giá vàng trong nước tăng quá nóng.
Thứ hai là đóng cửa các sàn vàng trong nước và bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài
khoản ở nước ngoài của các NHTM:
Trên cơ sở đánh giá hoạt động kinh doanh sàn vàng cho thấy: hoạt động này không tạo ra
giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nguồn vốn cho sản xuất kinh
doanh và tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế – xã hội, NHNN đã yêu cầu bãi
bỏ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Đồng thời, NHNN
cũng huỷ bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các
NHTM vì mức rủi ro của hoạt động này rất cao khi giá vàng thế giới có những biến động
mạnh, lên xuống thất thường với biên độ lớn.
Sau các biện phát siết chặt nguồn cung “vàng thật” và cấm kinh doanh “vàng ảo”,
NHNN thực hiện hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của NHTM trong

nước:
Tháng 10/2010 NHNN ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chế
các hoạt động huy động và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD): chỉ cho phép
các TCTD huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng
vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất
và kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng
thành VND và các hình thức bằng tiền khác.
Với mục tiêu làm giảm sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hóa,
NHNN hy vọng Thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượng vàng đang nắm giữ, làm
giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới sẽ khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh
khoản và lãi suất đối với TCTD huy động và cho vay bằng vàng. Qua đó tăng cường
quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Hiệu
quả của Thông tư cần phải có thời gian để đánh giá, tuy nhiên sau những biện pháp can
thiệp nói trên, giá vàng trong nước không còn có những biến động bất thường như thời
gian trước nữa.
4. Một số đề xuất
Trên cơ sở xem xét vấn đề vàng trong mối quan hệ biện chứng với tỷ giá và lạm phát; coi
vàng là phương tiện cất trữ, lưu thông tiền tệ chứ không chỉ là hàng hóa thông thường, từ
đó có giải pháp tiếp cận và xử lý vấn đề trên cơ sở dài hơi, tôn trọng quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, tập quán giữ vàng của người dân, kể cả việc xem xét thực tiễn khó
khăn trong việc ngăn chặn vàng nhập lậu từ biên giới, dưới góc độ nghiên cứu, người viết
có một số đề xuất sau:
Thứ nhất, căn nguyên cơ bản của cơn sốt vàng là lạm phát, do đó muốn giải quyết vấn đề
của vàng thì phải có biện pháp giảm lạm phát để tăng niềm tin vào đồng nội tệ, bớt đổ xô
vào gom giữ vàng, ngoại tệ.
Thứ hai, không nên thực hiện các biện pháp có tính chất hành chính, cắt giảm đột ngột,
ngăn cấm mua bán vàng… Bởi như vậy sẽ càng làm vàng ra khỏi kênh chính thức. Thay
vào đó, cần có bước trung gian để chu chuyển vàng (hút vàng vào ngân hàng).
Thứ ba, cần có cơ chế để chu chuyển vàng thành VND, cần có giải pháp để huy động số
vàng hiện có trong dân để không lãng phí nguồn tài chính quan trọng. NHNN nên cho

phép các NHTM tái chiết khấu vàng để lấy VND. Khi đó, nhà nước sẽ thu hút được vàng
trong dân, đưa lượng vàng lớn trong dân vào lưu thông, giúp chu chuyển nguồn vốn bằng
vàng.
Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách quản lý TTV theo hướng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh, trên tinh thần tôn trọng quy luật thị trường.
Sau khi hoàn thiện các cơ chế, biện pháp phòng ngừa rủi ro thì nên tiếp tục cho phép kinh
doanh vàng trên tài khoản nước ngoài để khơi thông dòng vốn kinh doanh trong và ngoài
nước và cân bằng được rủi ro của việc huy động vàng trong nước.
Thứ năm, cần thành lập mô hình quản lý TTV tập trung do Nhà nước quản lý. Khi đó,
Nhà nước có thể quản lý TTV hiệu quả, tránh những tác động tiêu cực, còn người dân và
nhà đầu tư có thêm những kênh lựa chọn để đầu tư hay trao đổi loại hàng hóa đặc biệt
này, tạo lập một thị trường giao dịch vàng tập trung giống thị trường chứng khoán hiện
nay, tăng cường tính minh bạch, thông suốt của TTV; giảm tình trạng lũng đoạn và thao
túng, góp phần tạo trật tự khách quan cho TTV; giảm nhu cầu nhập vàng và hạn chế xuất
nhập lậu vàng./.
Thông tin quan trọng tác động đến thị trường vàng và ngoại tệ 2 tháng đầu năm
2011
Đáng chú ý nhất, khả năng hoạt động kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do bị cấm
tác động không nhỏ đến giá vàng trong tuần qua và trong thời gian sắp tới.
•Facebook
•Twitter
•Linkhay
•Email
•Print
•Bình luận (0(
Các tin liên quan
• Mốc quan trọng nhất trên thị trường vàng và ngoại tệ 2 tháng đầu năm 2011
• Xóa kinh doanh vàng miếng tự do: Băn khoăn tính khả thi
Kiều hối vượt 8 tỷ USD: Báo Tuổi Trẻ đưa tin lượng kiều hối chuyển về VN trong năm
2010 đã vượt xa con số dự báo 6 tỉ USD khi đạt trên 8 tỉ USD. Một kỷ lục mới đã được

thiết lập. Theo giám đốc công ty kiều hối ngân hàng Đông Á, lượng kiều hối chuyển theo
đường không chính thức hiện nay không đáng kể bởi chính sách nhận kiều hối VN rất
thông thoáng, như: không phải đóng thuế, được nhận bằng ngoại tệ hay tiền đồng tùy
khách hàng chọn…
Một nguyên nhân khác góp phần làm tăng kiều hối là lãi suất huy động USD của các
ngân hàng trong nước hiện ở mức 5%/năm, cao hơn lãi suất USD ở nước ngoài. Kiều hối
về nước tăng góp phần giảm căng thẳng nguồn cung USD trong nước.
Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập khẩu vàng đến cuối tháng 2/2011: Nhiều công
ty và ngân hàng cho biết chiều 07/01 đã nhận được quyết định cho phép nhập khẩu vàng
từ Ngân hàng Nhà nước với thời hạn đến cuối tháng 02/2011. Ngày 12/01, các công ty
vàng cho biết số vàng được cấp phép nhập lần này sẽ được gia công bán ra thị trường.
Các ngân hàng chạy đua nâng lãi suất huy động USD: Đến ngày 17/01, theo ghi nhận
của báo Thanh Niên và Báo Đất Việt, Ngân hàng Nam Việt (Navibank) nâng lãi suất
USD lên tới 6,24%/năm áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng; các kỳ hạn 6 - 9 tháng lên cao nhất
6,14% tùy vào số lượng tiền gửi. Trước đó, Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (VietBank)
chính thức dẫn đầu thị trường với việc đưa lãi suất lên mức 6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng.
Hàng loạt kỳ hạn gửi tiền USD khác tại VietBank cũng được ngân hàng này nâng lãi suất
lên mức 5,4-5,9%/năm.
Mức lãi suất huy động USD phổ biến của các ngân hàng có vốn điều lệ khoảng 3.000 tỉ
đồng như NH TMCP Phương Tây, Đại Á, Việt Á từ 5% - 5,5%/năm. Đây là mức lãi
suất huy động USD ở một số ngân hàng quy mô nhỏ và vừa, còn những ngân hàng
thương mại lớn như NH TMCP lớn như Á Châu (ACB), Xuất nhập khẩu (Eximbank)
mức lãi suất huy động USD ngấp nghé ở gần mức 5%/năm. Ngày 23/01, lãi suất huy
động USD tại SCB lên tới 6,3%/năm.
Sau đó cuộc đua nâng lãi suất USD giảm nhiệt, một số ngân hàng (NH) đã âm thầm giảm
lãi suất huy động USD xuống mức 5%/năm. NH Vietbank hạ lãi suất huy động USD
xuống còn 5,5%/năm, giảm 0,7%/năm so với mức đỉnh trong tháng 1.
Cập nhật lãi suất huy động USD tại một số ngân hàng: Theo khảo sát của CafeF, ở thời
điểm ngày 28/02/2011, lãi suất tiền gửi bằng đồng USD tại một số ngân hàng thương mại
như sau:

Ngân hàng Vietcombank: Lãi suất tiền gửi đồng USD phổ biến từ mức 5% (thời hạn 1
tháng) lên mức 5,5% (thời hạn 12 tháng).
Ngân hàng Sacombank: Lãi suất tiền gửi đồng USD từ mức 4,920% (thời hạn 5 và 6
tháng) lên đến 5,320% (thời hạn 2 tháng).
Ngân hàng BIDV: Lãi suất tiền gửi đồng USD từ mức 4,5% (kỳ hạn 3 đến 6 tháng) và
4,7% áp dụng với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên (áp dụng với địa bàn Hà Nội).
Ngân hàng Techcombank: đối với chương trình tiết kiệm thường, lãi suất huy động USD
từ mức 3,95% (thời hạn 1 tháng) lên mức 4,8% (thời hạn 12 tháng).
Ngân hàng VIB: lãi suất dao động từ 3,1% (thời hạn 2 tháng) lên 3,65% (thời hạn 12
tháng).
Ngân hàng VPBank: lãi suất dao động từ 3,92% (thời hạn 1 tháng, số tiền gửi dưới 5
nghìn USD) lên mức cao nhất là 5% (áp dụng cho thời hạn 36 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ, từ
100 nghìn USD trở lên).
Hoạt động vay cầm cố vàng sôi động: Theo Báo Đất Việt, ngày 20/01/2011, tại thành
phố Hồ Chí Minh, hoạt động vay cầm cố vàng trở nên sôi động. Khảo sát tại nhiều tiệm
vàng khu vực Tân Phú, Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp (TP HCM), không hiếm trường
hợp đến cầm cố vàng để có một khoản vốn nho nhỏ cuối năm, lãi suất từ 3% đến
4,5%/tháng.
Ông Nguyễn Trung Anh, Phó Tổng Giám đốc Công ty vàng Vina, cho rằng, với giá vàng
như hiện tại, nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng coi “cầm vàng” là doanh số thu nhập
chính. “Không phải doanh nghiệp kinh doanh vàng nào cũng cạnh tranh được trong chế
tác nữ trang, bán vàng miếng. Vì thế, nhiều doanh nghiệp hiện nay “sống” nhờ cầm cố
vàng”, ông Trung Anh cho biết.
Ngân hàng Nhà nước công bố thay đổi tỷ giá bình quân liên ngân hàng: Ngày
11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố thay đổi tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ mức 18.932 đồng/USD lên 20.693 đồng/USD (mức tăng 9,3%). Đồng thời thu
hẹp biên độ giao dịch từ +_3% xuống +_1% áp dụng từ ngày 11/2/2011. Tỷ giá trần áp
dụng tại các NHTM kể từ ngày 11/02/2011 là 20.900 đồng/USD, tăng 1.400 đồng/USD
so với ngày 10/02/2011.
Việc tăng tỷ giá đã tác động mạnh đến thị trường vàng sau đó, giá vàng tăng 130 nghìn

đồng/lượng lên 35,98 triệu đồng/lượng (chiều bán) sau khi lên vượt 36 triệu đồng/lượng
trong ngày giao dịch. Sau đó đạt đỉnh 38,5 triệu đồng/lượng vào ngày 19/2/2011.
Mở sàn giao dịch vàng bị phạt đến 500 triệu đồng: Theo dự thảo nghị định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, Việc mua bán
ngoại tệ không đúng tỉ giá quy định, thu phí giao dịch không đúng quy định có thể bị phạt
đến 75 triệu đồng, gấp 25 lần mức phạt hiện nay (là 3 triệu đồng).
Mở sàn giao dịch vàng bị phạt với mức nặng nhất, đến 500 triệu đồng. Việc mua bán
ngoại tệ không đúng tỉ giá quy định, thu phí giao dịch không đúng quy định có thể bị phạt
đến 75 triệu đồng, gấp 25 lần mức phạt hiện nay (là 3 triệu đồng).
Cũng theo dự thảo trên, điểm giao dịch ngoại tệ không niêm yết công khai tỉ giá bị phạt
đến 6 triệu đồng (hiện là 500.000 đồng). Hành vi niêm yết giá, báo giá, định giá, ký kết
hợp đồng, giao dịch bằng ngoại tệ bị phạt đến 45 triệu đồng (hiện là 12 triệu đồng). Việc
chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài và vào Việt Nam không đúng quy định cũng bị phạt
đến 75 triệu đồng (hiện là 12 triệu đồng). (theo Báo Pháp luật)
Cấm kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do: Ngày 24/02, Ngân hàng Nhà nước
công bố 7 biện pháp ổn định thị trường tiền tệ năm 2011.
Mục tiêu thứ 5 đưa ra dự thảo về quản lý thị trường vàng:
- Theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng Quốc tế, cung cầu trong nước để
điều hành hoạt động xuất nhập khẩu vàng một cách hợp lý, ngăn chặn có hiệu quả hoạt
động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường.
- Trong quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh vàng
theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên
giới.
Giá vàng, dầu giảm có phải tín hiệu đáng mừng?
Với đại đa số mọi người dân đều vui mừng khi giá dầu hạ, kéo giá vàng giảm
theo. Điều này sẽ góp phần kéo giá cả hàng hóa giảm, làm lạm phát giảm, áp
lực lên cuộc sống của người dân cũng giảm đi. Tuy nhiên việc giá dầu hạ trong
lúc nền kinh tế phát triển ổn định thì đây thật sự là một tin mừng vì người dân sẽ
đẩy mạnh tiêu dùng hơn nhưng với tình hình kinh tế toàn cầu còn nhiều khó

khăn thì vấn đề này còn phải xem xét lại. Bởi vì việc giá hàng hóa đi xuống
chứng tỏ kinh tế thế giới cũng đi xuống, là dấu hiệu tiêu cực của nhu cầu tiêu
dùng đồng nghĩa với các chính sách điều hành ngày càng thắt chặt. Khi giá hàng
hóa giảm cũng làm các nhà sản xuất thiếu động lực để sản xuất và phát triển
sản phẩm. Ngoài ra việc giá dầu giảm mạnh liên tục sẽ không loại trừ việc OPEC
sắp tới sẽ giảm lượng cung ra thị trường để ngăn chặn việc giá dầu tiếp tục đi
xuống. Bởi vì một khi giá dầu đã thiết lập mặt bằng giá mới việc giá xuống quá
nhiều sẽ làm ảnh hưởng lợi nhuận của các quốc gia này.
Đồng USD tăng giá mạnh lần này không phản ánh tình hình kinh tế Mỹ mạnh lên
mà là do các đồng tiền khác yếu đi. Điều này thể hiện qua việc hàng loạt số liệu
kinh tế của các nền kinh tế mạnh như EU, Úc, Nhật, Canada không khả quan.
Trong bài phát biểu trong cuộc họp báo gần đây, Chủ tịch Ngân hàng TW Châu
âu ECB ngài Trichet thừa nhận nhiều khó khăn mà nền kinh tế Châu âu vẫn
đang phải đối mặt cộng thêm lạm phát vẫn ở mức cao nên ECB vẫn chưa thể
tăng lãi suất góp phần khống chế lạm phát. Tình hình kinh tế tại Mỹ cũng không
khá hơn khi danh sách thua lỗ của các doanh nghiệp ngày càng dài hơn, tỷ lệ
thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp vẫn tăng cao, chính phủ Mỹ vẫn phải kéo dài
thời gian cho các khoản vay thế chấp, TTCK Mỹ tuy có tăng điểm nhẹ nhưng các
chỉ số vẫn còn ở mức thấp như chỉ số Dow Jones vẫn chưa thoát khỏi ngưỡng
11.000 sau khi có lúc đạt 14.000. Mặc dù vẫn có một số thông tin khả quan như
tín dụng tiêu dùng tăng, dự trữ dầu thô đầu tháng 8 tăng (nhưng dự trữ xăng lại
giảm rất mạnh, có thể lý giải do công suất nhà máy giảm), chỉ số sản xuất có
chiều hướng tăng . Ngoài ra việc Ủy ban điều hành thị trường mở của FED
(FOMC : Federal Open Market Committee ) trong cuộc họp lãi suất gần nhất vẫn
tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 2% và ngài Ben Bernanke Chủ tịch FED
cảnh báo nguy cơ đi xuống của nền kinh tế Mỹ vẫn còn, thị trường tài chính tiếp
tục căng thẳng.
Như vậy có thể thấy việc đồng USD tăng mạnh, vàng, dầu giảm thê thảm từ nửa
cuối tháng 7 đến nay mang nặng yếu tố đầu cơ, khi đồng loạt nhiều nhà đầu tư
bán vàng, dầu ra đẩy giá đồng USD tăng vọt. Trong đó việc ECB trong tháng 8

bán ra 1,5 tấn vàng (theo hiệp ước bán vàng), Quỹ giao dịch vàng hoán đổi lớn
nhất thế giới SPDR Gold Shares trong ngày 5/8 bán ra 15,32 tấn vàng (trước đó
Quỹ này cũng đã có một số động thái bán ra) kéo theo sự bán ra ồ ạt của các
nhà đầu tư khác. Và nếu dõi theo lịch sử, ta nhận thấy mỗi khi vàng, dầu giảm
giá mạnh thì đó là dấu hiệu cho một đợt tăng giá kỷ lục khác. Bởi vậy các doanh
nghiệp, nhà đầu tư vẫn hết sức cảnh giác tránh tối đa tâm lý chủ quan và những
chính sách kinh tế vĩ mô vẫn phải tiếp tục bám sát thị trường.
Vàng và các yếu tố ảnh hưởng
Trong hoàn cảnh TTCK Việt Nam không còn rơi vào thời điểm “mua
là thắng” như hồi cuối năm 2006 thì sự biến động liên tục, mạnh mẽ
của thị trường vàng tạo ra khả năng sinh lời cao đã thu hút nhiều
NĐT chuyển dịch nguồn vốn của mình từ TTCK sang đầu tư vàng.
Tuy có không ít sự tương quan giữa 2 thị trường này nhưng vẫn còn nhiều
điểm khác biệt, do đó một số NĐT cảm thấy ngỡ ngàng khi mới làm quen
với thị trường vàng.
Trước hết, vàng là một loại hàng hóa, do đó dao động giá của vàng phải
được xem xét dựa trên các yếu tố tác động của cung và cầu. Nguồn cung
vàng trên thế giới đến từ các quốc gia có trữ lượng vàng lớn và sản lượng
xuất khẩu có tầm ảnh hưởng đến thị trường như Nam Phi, Mỹ, Canada, Nga,
Úc
Xét về nhu cầu vàng thì phải thấy rằng, toàn thế giới đều muốn có thứ kim
loại này và tùy vào mục đích sử dụng mà có những nhu cầu khác nhau: phục
vụ cho hoạt động chế tác trang sức, tích lũy, đầu tư, thanh toán…
Tùy vào từng thời điểm mà nhu cầu tăng cao trong những thời kỳ khác nhau
và đôi khi xảy ra cùng lúc, do đó tác động mạnh đến cầu vàng trong cùng
thời điểm.
Hiện nay, USD được xem là đồng tiền mang tính thanh toán toàn cầu, do đó
theo thông lệ, các loại hàng hóa hay ngoại tệ khi giao dịch trên thế giới
thường được định giá theo USD và vàng cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy,
bất cứ tác động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng USD thì cũng tác động trực

tiếp đến biến động giá cả của vàng.
Khi xem xét giá trị đồng USD, người ta thường đánh giá thông qua nền kinh
tế Mỹ và những yếu tố chính được xem là “chỉ báo” phản ánh sức mạnh hay
suy yếu của nền kinh tế Mỹ, đó là tình trạng thị trường nhà ở, thị trường lao
động, thị trường tín dụng và thị trường vốn.
Ngoài ra, một chỉ báo không thể không kể đến khi đánh giá giá trị đồng
USD, đó là quyết định về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Bất
kỳ quyết định nào ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm, giữ nguyên lãi suất
của Mỹ do FED công bố qua các kỳ họp của Ủy ban Thị trường mở Liên
bang (FOMC) đều tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến giá trị đồng USD.
Dù quyết định tăng/giảm lãi suất của FED với mục đích kích thích hay kìm
hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế hay nhằm giải quyết các vấn đề khác
thì trong ngắn hạn hay tức thời, quyết định tăng/giảm lãi suất của Mỹ cũng
sẽ làm tăng/giảm giá trị của đồng USD do trong ngắn hạn hay tức thời, giá
trị của đồng USD được nâng lên/hạ xuống so với các ngoại tệ khác trong
mối tương quan so sánh.
Khi giá trị của đồng USD dao động, giá trị các loại hàng hóa được định giá
bằng USD cũng dao động tức thời theo quyết định của FED. Ví dụ, trước khi
FED cắt giảm lãi suất cơ bản, 1 ounce vàng có giá là 800 USD nhưng khi
FED cắt giảm lãi suất thì vàng “vô tình” bị định giá thấp do USD mất giá
nên thị trường sẽ tự động điều chỉnh bằng cách nâng giá vàng lên, trong
trường hợp này 1 ounce vàng sẽ có giá là 810 USD.
Sự tương quan trong biến động giá cả giữa các loại hàng hóa trên thị trường
là điều không tránh khỏi, nhất là các loại hàng hóa cùng được định giá bằng
một loại tiền tệ, trong đó vàng và dầu là 2 loại hàng hóa có mối quan hệ chặt
chẽ về giá.
Khu vực khai thác và xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới được biết đến là
vùng Trung Đông và các nước khu vực này thường dự trữ tài sản dưới dạng
vàng, do đó chính nguồn cung dầu mỏ và nguồn cầu về vàng của khu vực
Trung Đông quá lớn, ảnh hưởng đến giá cả 2 loại hàng hóa này nên nhiều

NĐT thường nhìn vào diễn biến giá dầu trong hiện tại và diễn biến được dự
đoán trong tương lai của dầu để từ đó dự đoán cho xu hướng dao động của
vàng.
Tuy nhiên, cần có sự phân biệt rằng, vàng và dầu là 2 loại hàng hóa khác
nhau, dĩ nhiên sẽ chịu những tác động khác nhau khi biến động giá cả. Nếu
sự biến động của dầu được đánh giá là đến từ tác động của đồng USD thì
dao động giá dầu phần lớn sẽ diễn biến tương quan với biến động của vàng.
Nhưng nếu yếu tố tác động khiến cho dầu dao động không đến từ đồng
USD, mà vì lý do khác thì khó có thể nói rằng, diễn biến của vàng rồi cũng
diễn ra theo chiều hướng như vậy.
Dù vậy, sự tăng hay giảm giá dầu đều có tác động ít nhiều đến nền kinh tế
Mỹ vì Mỹ là nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và thật là thảm họa
cho nền kinh tế Mỹ nếu một ngày nào đó không đủ lượng dầu đáp ứng cho
nhu cầu tiêu thụ thì các hoạt động kinh tế, sản xuất… đều có khả năng
ngưng trệ.
Tuy nhiên, cần phân tích những tác động của biến động giá dầu đến nền kinh
tế Mỹ, qua đó tác động trở lại giá trị đồng USD thì mới dự đoán được diễn
biến dao động giá vàng.
Mặc dù các vấn đề thể hiện trên đây không thể bao quát hết toàn bộ những
yếu tố gây ảnh hưởng đến biến động thị trường nhưng những yếu tố này
được đánh giá có tầm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp một cách mạnh mẽ
đến giá vàng.
Một khi có được tầm nhìn tổng quan về các yếu tố tác động này thì NĐT
mới làm quen với thị trường vàng sẽ có được nhận định chính xác hơn trước
những thông tin được công bố hàng ngày trên thị trường.
'Nhiều hệ lụy khi giá vàng tăng cao'
Giá vàng trồi sụt rất thất thường tác động như thế nào đến tỷ giá và nền
kinh tế vĩ mô của Việt Nam? Dưới đây là phân tích của ông Trần
Trọng Quốc Khanh, Giám đốc Trung tâm Vàng Ngân hàng Á
Châu - ACB.

Trong những năm vừa qua, giá vàng thế giới tăng khoảng 20-25%/năm. Sự
tăng giá bền vững của vàng thế giới là một trong những nguyên nhân chính
khiến giá vàng trong nước tăng theo. Đến giữa tháng 10/2010, giá vàng thế
giới đã tăng 25% vượt qua sự kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư dù năm 2010
chưa kết thúc.
(Nguồn: www.kitco.com)
Vàng tăng giá do nhiều nguyên nhân chi phối. Trước hết, nền kinh tế thế
giới chưa thực sự hồi phục, cụ thể nền kinh tế Mỹ được xem là đầu tàu kinh
tế thế giới chưa thoát khỏi sự suy yếu. Các nhà đầu tư tỏ ra mất niềm tin vào
tiền giấy, cụ thể là đôla Mỹ, nên tìm nơi trú ẩn an toàn vào vàng.
Ngoài ra, ngày 3/11 tới, Mỹ có thể sẽ thực thi vòng hai chính sách nới lỏng
định lượng với tổng trị giá kế hoạch cả gói ước tính một nghìn tỷ USD. Khối
lượng cung tiền khổng lồ này sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng trong ngắn hạn.
Song song đó, kế hoạch bán vàng
giai đoạn 3 cho thời kỳ 5 năm từ
2009 đến 2014, các ngân hàng
trung ương châu Âu chỉ mới bán
6,2 tấn vàng cho năm thứ nhất của
giai đoạn này. Và đến nay họ đã
tạm ngưng bán vàng, làm giảm
thiểu một nguồn cung đáng kể cho
thị trường kim loại quý.
Trong khi một số ngân hàng trung
ương khác lại bắt đầu quan tâm đến
việc gia tăng dự trữ vàng thay vì dự
Thạc sĩ Trần Trọng Quốc Khanh.
trữ USD, chẳng hạn như Nga, Ấn Độ và đặc biệt là Trung Quốc. Quý
1/2009, Trung Quốc chỉ giữ 600 tấn vàng. Sang quý 2, quốc gia này đã mua
thêm 454 tấn, đưa tỷ lệ dự trữ tăng mạnh đến 1.054 tấn. Sự tăng giá bền
vững của vàng thế giới là một trong những nguyên nhân chính khiến giá

vàng trong nước tăng theo và hiện xác lập mặt bằng giá khá cao.
Các yếu tố trên cho thấy về hình thức vàng đã tăng giá, nhưng về bản chất
chính là sự mất giá của USD. Và những biến động của giá vàng sẽ gây ra
một số tác động cụ thể đối với tỷ giá và nền kinh tế.
Tác động của vàng đối với tỷ giá
Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, tỷ giá ngoại tệ USD so với đồng Việt
Nam (VND) được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ của thị trường
và tình hình kinh tế vĩ mô (Xem Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá đính kèm).
Sự điều chỉnh tỷ giá USD/VND xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế cơ bản
khác nhau, chủ yếu là do (i) cán cân thương mại mất cân đối, (ii) giải pháp
kỹ thuật hạn chế nhập siêu, và (iii) chính sách khuyến khích xuất khẩu. Tính
từ năm 2008 đến nay, bình quân mỗi năm tỷ giá được điều chỉnh tăng
khoảng 5%.
Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 2006-2010
Stt Ngày
Điều chỉnh
biên độ
và/hoặc
tỷ giá bình
quân
Ghi chú
Tỷ lệ
điều
chỉnh
chung
cuộc
1 31/12/2006 0,50% Tăng biên độ giao dịch 0,25%
2 24/12/2007 0,75% Tăng biên độ giao dịch 0,25%
3 10/03/2008 1% Tăng biên độ giao dịch 0,25%
4 27/06/2008 2% Tăng biên độ giao dịch 1,00%

5 11/07/2008 3% Tăng biên độ giao dịch 1,00%
6 25/12/2008
16.494 lên
16.989, 3%
Giữ nguyên biên độ giao
dịch,
tăng tỷ giá bình quân liên
ngân hàng
3,00%
7 24/03/2009 5% Tăng biên độ giao dịch 2,00%
8 26/11/2009 17.034 è Giảm biên độ giao dịch, 3,44%
17.961, 3%
tăng tỷ giá bình quân liên
ngân hàng
9 11/02/2010
17.961è
18.544, 3%
Giữ nguyên biên độ giao
dịch,
tăng tỷ giá bình quân liên
ngân hàng
3,24%
Vàng không được xem là một thước đo hoặc một loại hàng hóa chủ lực
trong chính sách điều tiết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và điều hành
chính sách vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vàng tăng giá mạnh, những
hệ quả của sự tăng giá đó vẫn gây ra những tác động vừa trực tiếp, vừa gián
tiếp đối với tỷ giá USD/VND như trong những năm vừa qua.
Khi giá vàng tăng với mức tăng trung bình từ 20-25%/năm, các nhà đầu tư
trên thị trường tài chính không thể không chú ý đến vàng, nhất là khi những
loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bất động sản v.v…

chưa mang lại hiệu quả sinh lợi như mong đợi. Nói cách khác, nhà đầu tư sẽ
có xu hướng chuyển dịch một phần vốn vào vàng để vừa đa dạng hóa danh
mục đầu tư, vừa hướng tới mục tiêu sinh lợi kỳ vọng.
Kể từ tháng 06/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tạm thời không cấp hạn
mức (quota) nhập khẩu vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng và các
ngân hàng thương mại như trước đó, trừ trường hợp nhập khẩu can thiệp thị
trường.
Có thể nói cung cầu vàng trong nước không còn liên thông với thế giới nữa.
Vì nguồn cung vàng trong nước bị gián đoạn, bị thắt cổ chai và thiếu tính
liên tục tại một số thời điểm nhất định do cái “van” nhập khẩu đang tạm
khóa, nên chỉ cần nhà đầu tư muốn mua vàng, giá vàng trong nước sẽ tăng
lên. Khi lực cầu không được đáp ứng đầy đủ, giá vàng trong nước sẽ tăng
mạnh và nhanh hơn ở thế “lệch pha trên” so với giá vàng thế giới với mức
chênh lệch giá có khi lên đến hơn 1 triệu đồng/lượng vàng như đã từng xảy
ra.
- Trường hợp không cho phép nhập khẩu vàng chính thức
Ở tình huống mất cân đối cung cầu này, nếu không cho phép nhập khẩu
chính thức và nếu mức chênh lệch giá quá hấp dẫn, sẽ có một khối lượng
nhập khẩu vàng “không chính thức” vào Việt Nam qua các đường biên giới
giáp ranh với Campuchia, Lào và Trung Quốc để giải tỏa “cơn khát” vàng
trong nước. Để “nhập” được số vàng này, một số đầu mối phải tích cực thu
gom USD trên thị trường tự do để thanh toán số vàng nhập khẩu đó, tạo sức
cầu và sự khan hiếm “cục bộ” đối với tiền mặt USD.
Giá USD ở thị trường tự do tăng sẽ gây tác động tâm lý làm cho một bộ
phận người dân và các doanh nghiệp đang có USD lại càng muốn găm giữ
ngoại tệ này, không bán cho các ngân hàng. Do không mua đủ số ngoại tệ
cần thiết từ các cá nhân và doanh nghiệp, các ngân hàng không thể giải
quyết bán đủ số USD cho các đơn vị có nhu cầu thanh toán ngoại tệ hợp
pháp, vừa gây chậm trễ trong thanh toán quốc tế, vừa gây căng thẳng cho thị
trường ngoại tệ.

Do tình trạng thâm hụt mậu dịch bị mất cân đối trong một thời gian dài
(Xem Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch đính kèm) và do giá vàng vẫn
tiếp tục tăng chưa có điểm dừng, thực tế cho thấy trong một số tình huống
NHNN phải điều chỉnh tỷ giá chính thức theo “tín hiệu đón đầu” của tỷ giá
tự do, khi mà người cần ngoại tệ và người có ngoại tệ đã xác lập trước một
mức tỷ giá kỳ vọng mới. Đây là tình huống tỷ giá USD/VND tăng trong bối
cảnh không cho nhập khẩu vàng chính thức.
Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch trong giai đoạn 2006-2010
Năm
Kim ngạch
xuất khẩu
(tỷ USD)
Kim ngạch
nhập khẩu
(tỷ USD)
Thâm hụt
mậu dịch
(tỷ USD)
Tăng/giảm
so với
năm trước
2006 39,6 44,41 -4,81
2007
48,38
(tăng
22,17%)
60,83
(tăng
36,97%)
-12,45 +158,84%

2008
62,69
(tăng
29,1%)
80,71
(tăng
28,8%)
-18,02 +44,74%
2009
57,04
(giảm
9,01%)
69,96
(giảm
13,32%)
-12,92 -28,30%
9 tháng
đầu năm
2010
51,5 60,08 -8,58
- Trường hợp cho phép nhập khẩu vàng chính thức
Nếu NHNN cho nhập khẩu vàng chính thức, một lượng ngoại tệ cũng sẽ
được chi ra từ hệ thống ngân hàng để thanh toán tiền nhập khẩu vàng. Có thể
nói rằng trong bối cảnh giá vàng tăng và nhiều nhà đầu tư đang muốn mua
vàng, việc nhập khẩu vàng bằng con đường chính thức hay không chính thức
cũng đều tác động lên cung cầu ngoại tệ và gây áp lực lên tỷ giá.
Đây cũng chính là thế “tiến thoái lưỡng nan” mà NHNN luôn luôn đối diện
khi xử lý vấn đề nhập khẩu vàng. Tuy nhiên, việc nhập khẩu vàng chính
thức vẫn được xem là giải pháp tích cực hơn, vì Nhà nước sẽ đạt được nhiều
mục tiêu khác nhau như (i) kiểm soát được số lượng nhập khẩu, (ii) kiểm

soát được doanh thu của các đơn vị nhập khẩu vàng, (iii) chủ động tăng
nguồn cung vàng trong nước, (iv) giảm bớt sự căng thẳng tâm lý muốn mua
vàng của người dân, (v) ngặn chặn tình trạng đầu cơ “đục nước béo cò”, (vi)
gia tăng tính công khai minh bạch trong chính sách quản lý thị trường vàng,
và (vii) chủ động điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết, thay vì để cho thị trường tự
do thản nhiên thao túng.
Trong 2 năm 2009-2010 vừa qua, vàng không phải là nguyên nhân làm tiêu
tốn ngoại tệ, mà ngược lại còn góp phần đáng kể trong việc cải thiện cán cân
thương mại. Với mức xuất siêu vàng (xuất vàng nhiều hơn nhập vàng)
khoảng 60 tấn/năm, các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã mang về khoảng
2,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm (Xem Bảng tóm tắt số liệu xuất nhập
khẩu vàng đính kèm). Tuy nhiên, sự đóng góp từ kim ngạch xuất siêu vàng
chỉ giúp giảm bớt mức thâm hụt mậu dịch trong ngắn hạn. Vấn đề cốt lõi đó
là sự mất cân đối trong cán cân thương mại trong suốt một thời gian dài
luôn gây áp lực trực tiếp lên tỷ giá, không nhất thiết xuất phát từ vàng.
Bảng tóm tắt số liệu xuất nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2006-2010
(tấn vàng) 2006 2007 2008 2009 2010 (*)
Nhập khẩu 91 51 90.5 12 9
Xuất khẩu - - 11 72 70
Chênh lệch
(XK - NK)
-79.5 +60 +61
(*) Số liệu ước tính đến cuối Quý III/2010
Tác động của vàng đối với nền kinh tế
Sự tăng giá của vàng tạo cơ hội kinh doanh với mức sinh lợi kỳ vọng cho
các những nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, giá vàng tăng mạnh
cũng có thể để lại những tác động cho nền kinh tế ở một số khía cạnh như
sau:
- Khi giá tăng nhanh và mạnh sẽ làm cho thị trường vàng trở nên kém
sôi động hoặc thậm chí đóng băng, không có nhiều giao dịch mua bán phát

sinh và thiếu tính thanh khoản. Sức tiêu thụ các sản phẩm vàng bạc đá quý
sẽ bị suy giảm, không thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường vàng
và các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành vàng bạc đá quý.
- Ngân hàng khó cho vay vàng. Theo số liệu thống kê, vốn huy động tiết
kiệm bằng vàng của các ngân hàng thương mại đạt ở mức khoảng 95.000 tỷ
đồng (khoảng 115 tấn vàng hoặc 4,8 tỷ USD). Nếu giá vàng tăng, người dân
và doanh nghiệp sẽ không dám vay vàng, vì lo ngại bị “thiệt hại kép” khi
đến ngày đáo hạn trả nợ vay (vừa trả lãi suất vay vàng, vừa bù lỗ mức chênh
lệch giá vàng). Nếu các ngân hàng huy động vàng mà không cho vay được,
kênh tín dụng bằng vàng sẽ bị tắc nghẽn, gây lãng phí cho nguồn vốn vàng
to lớn không sử dụng được.
- Tâm lý đầu cơ, tích trữ vàng cũng sẽ xuất hiện. Với xu hướng giá tăng
mạnh, người dân sẽ rút tiền đồng mua vàng tích trữ để kỳ vọng kiếm lời
chênh lệch giá, thay vì gửi tiền đồng vào các ngân hàng hoặc mua hàng hóa,
dịch vụ để kích thích sức tăng trưởng kinh tế.
- Rủi ro tín dụng bằng vàng. Với các hợp đồng tín dụng bằng vàng đã
được giải ngân, nếu giá vàng biến động mạnh theo xu hướng tăng, rủi ro đối
với các ngân hàng là tài sản đảm bảo của người đi vay sẽ không đủ bù đắp,
còn rủi ro đối với người đi vay là tổng chi phí vay tăng lên do bù lỗ giá
vàng.
- Ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Theo phương pháp tính chỉ
số CPI của Tổng cục thống kê cho giai đoạn 5 năm 2009-2014 trên toàn
quốc, hiện tại vàng không được tính trong 572 nhóm hàng và dịch vụ (hay
còn gọi là “rổ hàng hóa”) để tính CPI. Tuy vậy, vàng tăng giá cũng sẽ tác
động gián tiếp đến chỉ số CPI. Ví dụ, khi giá vàng tăng, các nguyên liệu đầu
vào phục vụ cho việc sản xuất, chế tác các dòng sản phẩm có liên quan đến
vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với
nhóm hàng hóa này. Khi giá bán các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản
phẩm này sẽ tác động gián tiếp đến rổ 572 nhóm hàng và dịch vụ chính thức
nói trên.

- Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián
tiếp đến chỉ số CPI tăng, những dấu hiệu về lạm phát sẽ xuất hiện. Nếu tỷ lệ
lạm phát không dao động trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền
kinh tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải xem xét thực thi một số giải pháp như
điều chỉnh lãi suất cơ bản, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và điều tiết tổng
phương tiện thanh toán của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát.
- Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán vốn
được xem là hàn thử biểu của nền kinh tế. Khi giá vàng tăng với mức sinh
lợi kỳ vọng hấp dẫn, các công ty chứng khoán một mặt vừa chú tâm theo dõi
diễn biến của thị trường vàng, mặt khác vừa lo ngại một số nhà đầu tư chứng
khoán sẽ dịch chuyển danh mục đầu tư sang vàng. Nếu nhiều nhà đầu tư
chuyển hướng đầu tư sang vàng, thị trường chứng khoán sẽ thiếu tính thanh
khoản, và điều này sẽ gây ảnh hưởng đến sự phục hồi và sự tăng trưởng của
thị trường chứng khoán và nền kinh tế.
- Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản. Theo tập quán truyền thống từ
lâu đời, người dân Việt Nam có thói quen sử dụng vàng để định giá nhà đất
hoặc bất động sản. Nhà đất là tài sản có giá trị rất lớn có khi phải tích lũy vài
chục năm mới sở hữu được, vì vậy việc người dân “neo” giá bán nhà đất vào
vàng cũng là điều dễ hiểu.
Dù hiện nay, việc rao bán nhà đất bằng tiền đồng thay cho vàng có tăng lên,
nhưng đó chỉ là hình thức. Bởi xét về bản chất, người bán nhà hay bất động
sản thường quy đổi ra tiền đồng theo giá vàng hiện hành. Giá vàng tăng, dẫn
đến giá trị nhà đất, bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua
bán nhà đất/bất động sản do sợ rủi ro giá vàng đảo chiều. Điều này có thể sẽ
làm cho thị trường bất động sản kém sôi động hoặc thậm chí tắc nghẽn.
Giá vàng tăng cao đã gây ra nhiều tác động.
Trước hết là đối với những người vay vàng nay đến kỳ trả nợ thì gánh
nặng trả nợ đã rất cao tùy theo kỳ hạn. Chỉ nguyên giá vàng tăng, chưa
kể lãi, thì giá vàng hiện đã tăng khoảng 16% so với tháng 12.2007, tăng
48% so với tháng 12.2006, tăng 87,9% so với tháng 12.2005,

Đó là những tốc độ tăng cao hơn nhiều so với giá tiêu dùng, giá USD,
lãi suất tiết kiệm trong thời gian tương ứng. Hiếm có mặt hàng nào,
kênh đầu tư nào lại tăng liên tục, tăng với tốc độ cao, tăng trong thời
gian dài như vậy!
Giá vàng tăng cao đã góp phần làm cho giá bất động sản chững lại. Bởi
vì, người có tiền đầu tư cũng cân nhắc khi lựa chọn giữa hai kênh đầu
tư (bất động sản và vàng) thì đầu tư vào vàng không cần vốn lớn, việc
mua bán dễ dàng, tính thanh khoản cao, không bị rủi ro về giấy tờ Bất
động sản khi mua bán ở nhiều nơi vẫn còn thanh toán bằng vàng, hoặc
nếu không thanh toán bằng vàng thì cũng thường so với giá vàng để
biết có tăng hay giảm, lỗ hay lãi. Thị trường bất động sản "rúng động"
trước việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện "siết chặt" tiền tệ, làm cho
các ngân hàng thương mại "giật mình" khi đã cho vay dưới chuẩn (nới
lỏng điều kiện cho vay, lấy tiền vay ngắn hạn để cho vay dài hạn, tỷ lệ
rủi ro được xác định lên đến 250%, ), nay đã trở tay không kịp, phải
"cắn răng" vay với lãi suất đã "phóng tay" cho vay. Đấy cũng là bài học
cho các ngân hàng thương mại nếu chạy theo tốc độ tăng trưởng dư nợ
tín dụng để cho vay mua vàng, nếu như giá vàng thế giới "đảo chiều"!
Giá vàng tăng là một trong những nguyên nhân làm cho chỉ số chứng
khoán trên sàn TP.HCM (VN-Index) sụt giảm mạnh (ngày 3.3 chỉ còn
635 điểm, thấp nhất trong 15 tháng qua, giảm tới 540 điểm hay giảm tới
46% so với đỉnh điểm 1.175 điểm vào ngày 12.3.2007); chỉ số giá
chứng khoán trên sàn Hà Nội (HaSTC-Index) cũng bị sút giảm mạnh
(ngày 3.3.2008 chỉ còn 214 điểm, giảm 246 điểm hay giảm 53,5% so
với đỉnh điểm trước đây). Thị trường chứng khoán ngoài sự tác động
của nhiều yếu tố khác, thì sự nóng lên của thị trường vàng lại "bồi
thêm" nên từ sau Tết Nguyên đán đến nay vẫn chưa hồi phục được, trái
lại còn bị giảm sâu thêm.
Vàng là "nơi trú ẩn an toàn" mỗi khi lạm phát cao, mấy năm nay đã trở
thành một kênh đầu tư có lãi suất hấp dẫn. Gọi là đầu tư, nhưng không

trực tiếp đầu tư cho sản xuất kinh doanh, nên không tạo ra giá trị tăng
thêm để tính vào tăng trưởng kinh tế, thậm chí còn bị "chôn" dưới dạng
"vàng bỏ ống". Cần nhớ rằng, hằng năm nước ta nhập khẩu bình quân
khoảng 60 tấn vàng, tính theo giá bán hiện tại lên đến gần 31 nghìn tỉ
đồng một năm, hay gần 2 tỉ USD. Nếu tạm tính dăm năm thì lượng
vàng trong dân đã lên đến hàng chục tỉ USD! Một lượng vốn lớn như
vậy đang bỏ ống trong dân, không được đưa ra để sinh sôi nảy nở.
Theo Thanh niên
Tại sao giá vàng lại tăng vọt đến như hiện nay ? Điều đó có
ảnh hưởng xấu hay tốt đến kinh tế nước mình ?
Giải mã ‘cơn điên’ giá vàng
Giá thế giới tăng mạnh cộng với việc siết chặt huy động và cho vay
vàng của ngân hàng thương mại đã khiến giá vàng trong nước nhảy
vọt một cách “điên loạn”.
Ông Trần Thanh Hải, Tổng giám đốc Công ty Kinh doanh và Đầu tư
Vàng Việt Nam cho biết, giá vàng thế giới tăng mạnh là nguyên nhân
quan trọng khiến cho giá vàng trong nước nhảy vọt. Còn việc giá
vàng thế giới tăng bắt nguồn từ 3 lý do chính.
Thứ nhất là việc Mỹ tung ra gói kích thích kinh tế mới trị giá 600 tỷ
USD. Thứ hai, nợ xấu tại một số quốc gia Châu Âu có biểu hiện trầm
trọng hơn hơn. Thứ ba, Trung Quốc và Brazil – những nền kinh tế
mới nổi đang nỗ lực chống lại sự lên giá của đồng nội tệ so với USD
nên đã tìm cách mua vào USD để tăng dự trữ ngoại tệ. Điều này kèm
với nỗ lực kích cầu tại một số quốc gia lớn đã dấy lên nỗi lo lạm phát.
Những nguyên nhân trên khiến nhiều nhà đầu tư tìm đến vàng như
một nơi trú ẩn an toàn.
Lãnh đạo một công ty kinh doanh vàng tại TP HCM bình luận, đối với
thị trường trong nước, ngoài yếu tố thế giới còn có thêm tác động từ
thông tư siết chặt hoạt động kinh doanh vàng mới được Ngân hàng
Nhà nước ban hành. Theo chuyên gia này, trong điều kiện trước đây,

các ngân hàng thương mại, công ty kinh doanh vàng có các công cụ
để bảo hiểm, thị trường vàng sôi động sẽ có nguồn cung lớn.
Vàng trong nước tăng giá điên loạn do nguồn cung khan hiếm. Ảnh:
Hoàng Hà
Vàng trong nước tăng giá điên loạn do nguồn cung khan hiếm. Ảnh:
Hoàng Hà
Sau khi sàn vàng bị đóng cửa, các ngân hàng cũng bị siết chặt hoạt
động đối với vàng, những tổ chức quan trọng của thị trường vàng bị
teo tóp. Tuy nhiên, nhu cầu của người dân đối với vàng vẫn lớn và
khi giá tăng mạnh thì gặp vấn đề với nguồn cung. Đây là nguyên

×