Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

PHÁP LUẬT VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HOÁ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.25 KB, 34 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu
trong chính sách của nhiều quốc gia, bởi lẽ để tạo được chỗ đứng của mình trên
thị trường thế giới yêu cầu của mỗi doanh nghiệp đặc biệt với doanh nghiệp
thương mại phải có được những mặt hàng không chỉ hợp về mẫu mã, đủ về số
lượng hay mang yếu tố hiện đại mà còn chú ý đến chất lượng của mặt hàng đó.
Ngày nay nhờ đổi mới khoa học kỹ thuật mà chu trình sản xuất được rút ngắn,
chất lượng sản phẩm được nâng cao, mặt khác thu nhập quốc dân càng ngày
càng cao, nhu cầu người tiêu dùng luôn luôn đổi mới đa dạng nên càng đòi hỏi
hàng hoá phải có chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Như ông
Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng cục phó Tổng Cục tiêu chuẩn đo lường chất
lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản
để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong
trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền
kinh tế đất nước nói chung".
Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với
quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công nghệ hiện
đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh trên thị
trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải
đối đầu với những thử thách to lớn như: Sức ép của hàng nhập, của người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung
thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ. Những thị trường
quan trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết
sức nghiêm ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm Vì vậy vấn đề
chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng bằng pháp luật về chất lượng sản
phẩm ngày càng cấp bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Chính vì ý
nghĩa vô cùng quan trọng đó, tôi chọn đề tài . "Pháp luật về chất lượng sản phẩm
hàng hóa và thực tiễn tại việt nam"
2. Đối tượng nghiên cứu.


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sản phẩm hàng hóa và tình
hình chất lượng sản phẩm của Việt Nam trước và sau khi có Luật chát lượng sản
phẩm hàng hóa, từ đó tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục tình trạng trên.
Bài viết sẽ tập trung phân tích bản chất và vai trò của chất lượng hàng hoá đối
với Nhà nước, các doanh nghiệp, và người tiên dùng. Đồng thời nêu lên những
hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật chất lượng hàng hóa vào thực
tiễn để tìm ra hướng hoàn thiện Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm về chất lượng hàng hóa
để hiểu được bản chất cuả nó. Bên cạnh đó, cần phân tích vai trò của chất lượng
hàng hóa để nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật
về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra, trên cơ sỏ đánh giá những kết quả
đạt được và hạn chế của hàng lang pháp lý về chất lượng sản phẩm để có
phương hướng giải quyết những hạn chế đó.
Phưong pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp
luật về chất lượng hàng hóa.
Phương pháp liệt kê: liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện theo
dõi và làm căn cứ cho phần lý luận của mình.
4. Kết cấu của đề tài :
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
1.2 Đối tượng nghiên cứu
1.3 Phương pháp nghiên cứu
1.4 Kết cấu của đề tài
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN NỘI DUNG
Chương1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa

1.1 Khái quát về chất lượng sản phẩm hàng hóa
1.1.1 Khái niệm về chất lượng sản phẩm hàng hóa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều
các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao",vv Mỗi
quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thúc đẩy
khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Theo quan điểm của triết học Mác thi chất lượng là mức đọ , thước đo biểu
hiện giá trị sử dụng của nó. Gía trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích
của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.
Theo Giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho rằng:
“Chất lượng là sự thõa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất”
Theo quan điểm chất lượng hướng theo công nghệ thì chất lượng sản phẩm
là “tổng tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện ở mức độ thỏa mãn những
yêu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế,
xã hội”
Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả năng
thỏa mãn được những nhu cầu phù hợp công dụng của sản phẩm đó, chất lượng
sản phẩm là sự phù hợp các tiêu chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật.
Theo tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu(EOQC) thì "Chất lượng là
mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng"
Theo tiêu chuẩn của Australia(AS1057-1985)thì "Chất lượng là sự phù
hợp với mục đích"
Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa ISO 9000 -
1994 (TCVN 5814 - 1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp
nhận định nghĩa này:"Chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của
sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thoả mãn nhu cầu đã được nêu ra hoặc còn
tiềm ẩn".
Qua các định nghĩa trên ta có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản
phẩm hàng hoá sau đây:
+ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể

hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.
+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu
cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.
+ Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem
xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng.
Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn, chỉ là
các yêu cầu về an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đáp ứng. Luật Chất lượng
sản phẩm, hàng hoá định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá “là mức độ của
các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố
áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Như vậy, theo pháp luật hiện hành,
chất lượng sản phẩm, hàng hoá được hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản
phẩm, hàng hoá đối với người tiêu dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản
phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm,
hàng hoá và chất lượng sản phẩm, hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công
nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn
nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ để bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hoá
từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông trên thị trường đến bảo đảm an toàn trong quá
trình sử dụng của người tiêu dùng.
1.1.2. Đặc trưng của chất lượng sản phẩm.
+ Chất lượng là một phạm trù kinh tế xã hội - công nghệ tổng hợp. Ở đây
chất lượng sản phẩm được quy định bởi 3 yếu tố kinh tế, xã hội, kỹ thuật chúng
ta không được coi chất lượng chỉ đơn thuần là kỹ thuật hay kinh tế mà phải quan
tâm tới cả 3 yếu tố.
+ Chất lượng sản phẩm là một khái niệm có tính tương đối thường xuyên
thay đổi theo thời gian và không gian. Vì thế chất lượng luôn phải được cải tiến
để phù hợp với khách hàng với quan niệm thoả mãn khách hàng ở từng thời
điểm không những thế mà còn thay đổi theo từng thị trường chất lượng sản
phẩm được đánh giá là khách nhau phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện kinh tế văn
hoá của thị trường đó.
+ Chất lượng là khái niệm vừa trừu tượng vừa cụ thể.

Trừu tượng vì chất lượng thông qua sự phù hợp của sản phẩm với nhu cầu,
sự phù hợp này phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của khách hàng.
Cụ thể vì chất lượng sản phẩm phản ánh thông qua các đặc tính chất lượng
cụ thể có thể đo được, đếm được. Đánh giá được những đặc tính này mang tính
khách quan vì được thiết kế và sản xuất trong giai đoạn sản xuấ
1.1.3. Vai trò của chất lượng sản phẩm hàng hóa
Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản
phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con
người, động thực vật, tài sản, môi trường Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá
có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với người tiêu dùng, người sản xuất mà còn cả
với nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia
Chất lương sản phẩm là chính sách do doanh nghiệp thực hiện các chiến
lược Marketing tạo uy tin và danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng
định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển bền lâu của doanh nghiệp. Nhờ phát triển chất lượng đã giúp tiết kiệm
nguyên vật liệu, tiết kiệm tai nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, cuộc cạnh tranh toàn cầu đã, đang và sẽ trở nên ngày càng mạnh
mẽ với qui mô và phạm vi ngày càng lớn. Sự phát triển của khoa học và công
nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao
nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh.Tình hình trên đã khiến cho chất
lượng trở thành yếu tố cạnh tranh, trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng
đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo cho việc
trang bị lỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng suất lao dộng.
Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín hàng hóa nươc ta trên thị
trường thế giới mà còn tạo điều kiện tăng cương thu nhập ngoại tệ cho đât nước.
Bên cạnh đó đảm bảo chất lượng hàng hoá, chống hàng giả, hàng nhái, bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng lậu không đảm bảo chất lượng,
không rõ nguồn gốc, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của người

tiêu dùng Việt Nam.
1.2. Pháp luật Việt Nam về chất lượng sản phẩm hàng hóa
1.2.1. Các văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện
thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản
phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu đó
nên liên tục những năm gần đây, nhiều nước đã ban hành các đạo luật chuyên
ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Để quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hoá, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá năm
1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999) với gần một trăm văn bản hướng dẫn
thi hành. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng chưa thống nhất và đồng
bộ, đang ngày tỏ ra bất cập với yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá
trong tình hình mới. Trong những năm gần đây, pháp luật về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với
các quan hệ xã hội về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò
quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà
nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực
từ 01/1/2007). Ngày 21 tháng 11 năm 2007, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI
đã thông qua Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá (số 05/2007/QH12), có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2008.
Bên cạnh Luật Chất lượng sản phẩm là hệ thống các văn bản hướng dẫn
thi hành được các cơ quan chức năng ban hành để hướng dẫn áp dung Luật chất
lượng sản phẩm như vào thực tiễn như:
- Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hang hoá
- Nghị định số 67/2009/NĐ-CP ngày 3/8/2009 của Chính phủ Sửa đổi một
số của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP

- Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 5/6/2009 của Chính phủ Quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất
lượng sản phẩm, hàng hoá
- Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/3/2009 Quy định Danh mục
sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của
Bộ Khoa học và Công nghệ
-Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu,
trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp
Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu,
trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp
- Thông tư số 11/2009/TT-BKHCN ngày 6/5/2009 Quy định về Giải
thưởng Chất lượng Quốc gia
- Thông tư số 16/2009/TT-BKHCN ngày 2/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra
nhà nước về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường
- Thông tư số 17/2009/TT-BKHCN ngày 18/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra
nhà nước về chất lượng hàng hoá nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ
Khoa học và Công nghệ
- Thông tư số 19/2009/TT-BKHCN ngày 30/6/2009 Quy định các biện
pháp quản lý chất lượng đối với sản phẩm, hàng hoá cần tăng cường quản lý
trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường
- Thông tư số 22/2009/TT-BKHCN ngày 30/9/2009 Hướng dẫn trình tự,
thủ tục đăng ký sản phẩm mới có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm
quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ
- Thông tư số 06/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Quy định về chứng
nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm chuyên ngành công nghệ
thông tin và truyền thông
- Thông tư số 07/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Ban hành Danh mục
sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông bắt buộc phải
chứng nhận và công bố hợp quy
- Thông tư số 19/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 Ban hành Danh mục sản

phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ
Công thương
- Thông tư số 03/2010/TT-BLĐTBXH ngày 19/1/2010 Ban hành Danh
mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 và hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung
kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất
Ngoài ra, một còn một số quy định khác được quy định rải rác ở một số
luật có liên quan như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Tiêu chuẩn quy
chuẩn kỹ thuật, Bộ luật dân sự, Luật thương mại
1.2.2. Các quy định của luật chất lượng sản phẩm hàng hóa
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đạo luật đầu tiên trong lịch sử lập
pháp Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến
chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật áp
dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và
tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá tại
Việt Nam. Theo quy định của Luật, hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt
động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải tuân theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; hoạt động sản xuất,
kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá là công
trình xây dựng, dịch vụ, hàng hoá đã qua sử dụng không thuộc diện phải kiểm
định; sản phẩm, hàng hoá chuyên phục vụ quốc phòng, an ninh và sản phẩm,
hàng hoá đặc thù khác phải tuân thủ các nguyên tắc chung của Luật này và được
điều chỉnh cụ thể bằng văn bản pháp luật khác.
Theo quy đinh của Luật này sản phẩm (kết quả của quá trình sản xuất
hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng), hàng hoá
(sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp
thị) đều được quản lý chất lượng theo các nguyên tắc sau:
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công
bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sản phẩm, hàng hoá không có khả
năng gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 1) là sản phẩm,

hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng
mục đích, không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường được
quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn của hàng hoá, chất lượng mà người sản
xuất sản phẩm, hàng hoá đó công bố áp dụng. Sản phẩm, hàng hoá có khả năng
gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 2) là sản phẩm, hàng
hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục
đích, vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi
trường được quản lý trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố
áp dụng. Danh mục sản phẩm, hàng hóa thuộc nhóm 2 này sẽ do Chính phủ quy
định cụ thể.
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản xuất,
kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi
trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
hàng hoá Việt Nam.
Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật
về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải bảo
đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá và tổ
chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá, phù
hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
Dưới đây là một số nội dung chủ yếu của Luật chất lượng sản phẩm, hàng
hoá về các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá và chính sách của
nhà nước về vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá:
Thứ nhất, về chính sách của nhà nước về hoạt động liên quan đến chất
lượng sản phẩm, hàng hoá. Nhằm tăng cường chất lượng, khả năng cạnh tranh
của sản phẩm, hàng hoá trong nước, Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ
chức, cá nhân xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn tiên tiến cho sản phẩm, hàng hoá

và công tác quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh; xây dựng chương trình
quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
hàng hóa; đầu tư, phát triển hệ thống thử nghiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh
doanh và quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; đẩy mạnh việc
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hoạt động quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hoá; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá; xây dựng ý thức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá có
chất lượng, vì quyền lợi người tiêu dùng, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi
trường; nâng cao nhận thức xã hội về tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng
văn minh; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong nước và tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào hoạt động thử nghiệm, kiểm
định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; mở rộng hợp tác
với các quốc gia, các vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, tổ chức và
cá nhân nước ngoài trong hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng
hoá; tăng cường ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế thừa nhận lẫn nhau
giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, tổ chức khu
vực về kết quả đánh giá sự phù hợp; khuyến khích các tổ chức đánh giá sự phù
hợp của Việt Nam ký kết thỏa thuận thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp với
tổ chức tương ứng của các nước, vùng lãnh thổ nhằm tạo thuận lợi cho phát triển
thương mại giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Luật cũng
quy định nghiêm cấm việc sản xuất sản phẩm, nhập khẩu, mua bán hàng hoá đã
bị Nhà nước cấm lưu thông; sản xuất sản phẩm, xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán
hàng hóa, trao đổi, tiếp thị sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm quy chuẩn kỹ
thuật tương ứng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá không có nguồn gốc
rõ ràng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá, trao đổi, tiếp thị sản phẩm,
hàng hoá đã hết hạn sử dụng; dùng thực phẩm, dược phẩm không bảo đảm chất
lượng hoặc đã hết hạn sử dụng làm từ thiện hoặc cho, tặng để sử dụng cho
người; cố tình cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả thử nghiệm, kiểm tra, giám
định, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giả mạo hoặc sử
dụng trái phép dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, các dấu hiệu khác về chất lượng sản

phẩm, hàng hóa; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia,
pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với tiêu chuẩn
công bố áp dụng hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; thông tin, quảng cáo sai sự
thật hoặc có hành vi gian dối về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, về nguồn gốc
và xuất xứ hàng hóa; che giấu thông tin về khả năng gây mất an toàn của sản
phẩm, hàng hoá đối với người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường
Thứ hai, Luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người sản xuất,
người nhập khẩu, người xuất khẩu, người bán hàng, người tiêu dùng đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hoá mà mình sản xuất, cung ứng, nhập khẩu, xuất khẩu,
bán cho người tiêu dùng.
Theo đó, người sản xuất có quyền quyết định và công bố mức chất lượng
sản phẩm do mình sản xuất, cung cấp; được quyết định các biện pháp kiểm soát
nội bộ để bảo đảm chất lượng sản phẩm; được lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù
hợp để thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm,
hàng hóa
Người sản xuất có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối
với sản phẩm trước khi đưa ra thị trường và chịu trách nhiệm về chất lượng sản
phẩm do mình sản xuất; nghĩa vụ thể hiện các thông tin về chất lượng trên nhãn
hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo hàng hóa theo quy định của pháp luật
về nhãn hàng hóa, thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, phải
cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa cho
người bán hàng và người tiêu dùng ). Người nhập khẩu có quyền quyết định
lựa chọn mức chất lượng của hàng hoá do mình nhập khẩu; quyền yêu cầu người
xuất khẩu cung cấp hàng hoá đúng chất lượng đã thoả thuận theo hợp đồng;
quyền lựa chọn tổ chức giám định để giám định chất lượng hàng hoá do mình
nhập khẩu; quyền sử dụng dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các dấu hiệu khác
cho hàng hoá nhập khẩu theo quy định
Người nhập khẩu có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng
đối với hàng hoá nhập khẩu, chịu trách nhiệm về chất lượng và ghi nhãn hàng
hoá theo quy định của pháp luật đối với hàng hóa do mình nhập khẩu, thông tin

trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, cảnh báo về khả năng gây mất an
toàn của hàng hóa và cách phòng ngừa cho người bán hàng và người tiêu dùng
Người bán hàng có các quyền như quyết định cách thức kiểm tra chất
lượng hàng hoá, lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù hợp để thử nghiệm, giám định
hàng hoá, quyết định các biện pháp kiểm soát nội bộ để duy trì chất lượng hàng
hoá và có các nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với
hàng hoá lưu thông trên thị trường và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa,
nghĩa vụ kiểm tra nguồn gốc hàng hóa, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp
quy, các tài liệu liên quan đến chất lượng hàng hóa, nghĩa vụ thông tin trung
thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, thông báo cho người mua điều kiện phải
thực hiện khi vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử dụng hàng hoá, cung cấp
thông tin về việc bảo hành hàng hóa cho người mua, kịp thời dừng bán hàng,
thông tin cho người sản xuất, người nhập khẩu và người mua khi phát hiện hàng
hoá gây mất an toàn hoặc hàng hoá không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp
dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, hoàn lại tiền hoặc đổi hàng mới, nhận lại
hàng có khuyết tật bị người mua trả lại
Theo quy định của Luật, người tiêu dùng có các quyền được cung cấp
thông tin trung thực về mức độ an toàn, chất lượng, hướng dẫn vận chuyển, lưu
giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hoá; được cung cấp thông tin về việc bảo
hành hàng hóa, khả năng gây mất an toàn của hàng hoá và cách phòng ngừa khi
nhận được thông tin cảnh báo từ người sản xuất, người nhập khẩu; yêu cầu
người bán hàng sửa chữa, hoàn lại tiền hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có
khuyết tật; được bồi thường thiệt hại Bên cạnh đó, người tiêu dùng có nghĩa
vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với hàng hoá trong quá trình
sử dụng; tuân thủ quy định và hướng dẫn của người sản xuất, người nhập khẩu,
người bán hàng về việc vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng
hóa; tuân thủ quy định về kiểm định chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong quá
trình sử dụng sản phẩm, hàng hóa thuộc danh mục do Bộ quản lý ngành, lĩnh
vực quy định; tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá
trình sử dụng sản phẩm, hàng hoá.

Luật cũng có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của tổ chức đánh giá
sự phù hợp, (tổ chức tiến hành hoạt động thử nghiệm, giám định, kiểm định,
chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng
dịch vụ phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương
ứng), tổ chức nghề nghiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Thứ ba, Luật có quy định cụ thể về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá
trong các khâu sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và
trong quá trình sử dụng. Theo đó, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý
thông qua các biện pháp như:
Công bố tiêu chuẩn áp dụng: Người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố
các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hoá hoặc
trên bao bì hàng hoá, nhãn hàng hoá, tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hoá;
Công bố sự phù hợp: Người sản xuất thông báo sản phẩm của mình phù
hợp với tiêu chuẩn (công bố hợp chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (công bố
hợp quy). Việc công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy được thực hiện theo quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Đánh giá sự phù hợp thông qua các hình thức như thử nghiệm (thực hiện
các thao tác kỹ thuật nhằm xác định một hay nhiều đặc tính của sản phẩm, hàng
hóa theo một quy trình nhất định), giám định (xem xét sự phù hợp của sản
phẩm, hàng hóa so với hợp đồng hoặc tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn
kỹ thuật tương ứng bằng cách quan trắc và đánh giá kết quả đo, thử nghiệm),
chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy (đánh giá và xác nhận sự phù hợp
của sản phẩm, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ với tiêu chuẩn công bố áp
dụng hoặc với quy chuẩn kỹ thuật), kiểm định (hoạt động kỹ thuật theo một quy
trình nhất định nhằm đánh giá và xác nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá
với yêu cầu quy định trong quy chuẩn kỹ thuật tương ứng).
Thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp, theo đó, việc thừa nhận kết quả
đánh giá sự phù hợp giữa tổ chức, cá nhân tại Việt Nam với tổ chức, cá nhân
nước ngoài, vùng lãnh thổ do các bên tự thoả thuận; việc thừa nhận kết quả đánh

giá sự phù hợp phục vụ quản lý nhà nước được thực hiện theo điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc thoả thuận quốc tế
mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất, trong nhập khẩu,
lưu thông trên thị trường. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa do cơ
quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Bên cạnh quy định về các biện pháp quản lý như nêu trên, Luật còn quy
định cụ thể về điều kiện bảo đảm chất lượng sản phẩm trong sản xuất trước khi
đưa ra thị trường, điều kiện bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất khẩu, hàng hoá
nhập khẩu, trong quá trình sử dụng, kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản
xuất; xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất,
biện pháp xử lý hàng hoá xuất khẩu không bảo đảm điều kiện xuất khẩu trình tự,
thủ tục kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá lưu thông trên thị
trường; xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu,
hàng hoá lưu thông trên thị trường
Thứ tư, Luật quy định cụ thể về kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước
về chất lượng sản phẩm hàng hoá. Theo đó:
Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Bộ quản lý ngành,
lĩnh vực thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất thuộc phạm
vi được phân công và hàng hoá trong xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị
trường, trong quá trình sử dụng thuộc phạm vi được phân công.
Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng
hoá trong phạm vi của địa phương theo quy định của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Bộ quản lý, lĩnh
vực có trách nhiệm phối hợp với cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng
hoá thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ
quan khác có liên quan trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Thanh tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là thanh tra chuyên ngành, có

nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất
lượng sản phẩm, hàng hóa. Đối tượng của thanh tra chuyên ngành về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, tổ
chức đánh giá sự phù hợp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Thứ năm, Luật quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt
hại, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá. Theo đó:
Tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hoá bao gồm: tranh chấp giữa
người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa các thương nhân với
nhau do sản phẩm, hàng hoá không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng,
quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất lượng trong hợp đồng;
tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và
các bên có liên quan do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt
hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường. Đây cũng là các tranh
chấp thương mại nên hình thức giải quyết tranh chấp, thời hiệu khiếu nại, khởi
kiện được quy định tương tự, theo các nguyên tắc như đối với các tranh chấp
thương mại. Các tranh chấp được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải
giữa các bên, thông qua trọng tài hoặc toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp về
chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo quy
định của pháp luật về tố tụng trọng tài hoặc tố tụng dân sự. Thời hiệu khởi kiện
về chất lượng sản phẩm, hàng hoá giữa người mua với người bán hàng được
thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện về
chất lượng sản phẩm, hàng hoá giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
được thực hiện theo quy định của Luật thương mại. Thời hiệu khiếu nại, khởi
kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt
hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là 2 năm, kể từ thời điểm
các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn
sử dụng của sản phẩm, hàng hoá có ghi hạn sử dụng và 5 năm kể từ ngày giao

hàng đối với sản phẩm, hàng hoá không ghi hạn sử dụng.
Thiệt hại do vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải
được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người sản xuất, người nhập khẩu phải bồi
thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu dùng khi hàng hóa gây thiệt
hại do lỗi của người sản xuất, người nhập khẩu không bảo đảm chất lượng hàng
hóa. Người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng
trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng không bảo đảm
chất lượng hàng hóa. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận
giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của toà án hoặc trọng tài. Luật
cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ mà người sản xuất, người nhập khẩu,
người bán hàng không phải bồi thường.
Tổ chức đánh giá sự phù hợp cung cấp kết quả sai thì phải bồi thường thiệt
hại phát sinh cho tổ chức, cá nhân yêu cầu đánh giá sự phù hợp theo quy định
của pháp luật về dân sự. Trong trường hợp này, tổ chức, cá nhân có sản phẩm,
hàng hóa được đánh giá sự phù hợp có nghĩa vụ chứng minh kết quả sai và lỗi
của tổ chức đánh giá sự phù hợp.
Thứ sáu, Luật quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hoá. Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động quản lý chất
lượng hàng hoá diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành. Do vậy, ngoài quy định trách
nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm,
hàng hoá, Luật còn quy định cụ thể trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hoá của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo đó, các Bộ quản lý
ngành, lĩnh vực có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ cụ thể của Bộ, ngành; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước
về chất lượng sản phẩm trong sản xuất Đặc biệt, Luật đã quy định cụ thể về
trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng có khả năng gây
mất an toàn, cụ thể như sau:

Bộ Y tế chịu trách nhiệm đối với thực phẩm, dược phẩm, vắc xin, sinh
phẩm y tế, mỹ phẩm, nguyên liệu sản xuất thuốc và thuốc cho người, hoá chất
gia dụng, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn, trang thiết bị y tế;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đối với cây
trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y,
chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công trình
thuỷ lợi, đê điều;
Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm đối với phương tiện giao thông
vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công vận tải chuyên dùng, phương tiện,
thiết bị thăm dò, khai thác trên biển, công trình hạ tầng giao thông;
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm đối với thiết bị áp lực, thiết bị nâng đặc
thù chuyên ngành công nghiệp, hoá chất, vật liệu nổ công nghiệp, trang thiết bị
khai thác mỏ, dầu khí, trừ các thiết bị, phương tiện thăm dò, khai thác trên biển;
Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm đối với công trình dân dụng, công trình
công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật;
Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm đối với phương tiện, trang thiết bị quân
sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình quốc
phòng;
Bộ Công an chịu trách nhiệm đối với trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí đạn dược, khí tài, công cụ hỗ trợ, trừ phương tiện,
trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng,
công trình quốc phòng
Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng
sản phẩm hàng hóa
2.1. Tình hình thực tế chất lượng sản phẩm hàng hóa VN
Ngày nay trên thị trường nước ta ngày càng dồi dào, đa dạng hàng hoá
đáp ứng được phần nào nhu cầu cũng rất đa dạng của người tiêu dùng. Chất
lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng được cải thiện, chủng loại, kiểu cách mẫu
mã càng phong phú hơn, bắt mắt hơn .Nhiều loại sản phẩm trước đây chất lượng
kém vẫn được chấp nhận và lưu hành trên thị trường do sự quản lý không chặt

chẽ của doanh nghiệp thương mại đối với nhà sản xuất, ngày nay vì lợi ích
chung đòi hỏi mỗi doanh nghiệp thương mại muốn đưa hàng hoá của mình tham
gia thị trưòng và được thị trưòng chấp nhận cần phải đảm bảo yếu tố quan trọng
đó là chất lượng hàng hoá. Các doanh nghiệp đã nhận thức được động lực phát
triển, khả năng thu được lợi nhuận cao nhất tức là doanh nghiệp đó phải tạo
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như thị trường thế
giới, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng nâng cao chất lượng
hàng hoá xuất khẩu: năm 1999 nguyên liệu dầu thô chiếm 70% thì nay chiếm
42%,trước đây ta chỉ có 4 mặt hàng chủ lực là dầu thô, thuỷ sản, gạo,dệt may
với kim ngạch xuất khẩu mỗi loại trên 100 triệu USD thì ngày nay ta đã có thêm
8 mặt hàng chủ lực nữa là cà phê, cao su, giầy dép, hàng điện tử, than đá, đồ thủ
công mỹ nghệ, hạt điều, rau quả, mặt hàng đạt kim ngạch 1tỷ USD là gạo ,thuỷ
sản,dệt may và dầu thô đạt tới 820 triệu USD. Đối với thị trường trong nứơc
đảm bảo chất lượng hàng hoá đã đáp ứng đủ điều kiện cạnh tranh với hàng nhập
khẩu của nước ngoài, bên cạnh đó, doanh nghiệp thương mại chú trọng kiểm tra,
khắc phục những yếu kém, xử phạt đối với những hành vi nhập, xuất khẩu hàng
kém chất lượng bằng hệ thống máy móc hiện đại.
` Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành viên chính thức của WTO một tổ
chức mang tầm cỡ quốc tế nhưng vấn đề chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng
nhu cầu như mong đợi, dư luận người tiêu dùng ngày càng thêm bức xúc với
nạn hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng kém chất lượng,
hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang có xu hướng gia tăng ở
mức báo động cao như: sữa có chứa melamine; rượu có chứa độc tố, mỹ phẩm
chứa hoá chất không được phép sử dụng, thực phẩm chứa chất bảo quản, thuốc
kích thích tăng trưởng, chứa dư lượng chất kháng sinh quá mức cho phép, thuốc
bảo vệ thực vật không được phép sử dụng… Trong những tháng cuối năm 2007
và quý I năm 2008, lực lượng Quản lý thị trường đã bắt giữ gần 120 nghìn mũ
bảo hiểm, trong đó có hơn 76.000 mũ nhập lậu và 39.000 mũ giả, kém chất
lượng, nhái nhãn mác, không có tem CS.
Bên canh đó, là các mặt hàng trọng yếu như xăng thì bị pha acetôn và bơm

không đủ định lượng, sắt thép xây dựng không bảo đảm tiêu chuẩn, điện kế chạy
nhanh, bánh Trung thu bị buộc thu hồi sản phẩm, sữa bột pha loãng ghi sữa tươi
Và đặc biệt gây xôn xao dư luận rong thời gian vưa qua là tình trạng sữa có
chứa Melamine. Melamie là một chất bột màu trắng không có mùi vị, chứa hàm
lượng ammonia rất lớn. Việc trộn melamine vào sữa chỉ nhằm một mục đích duy
nhất là đánh lừa phương pháp kiểm tra Kjeldahl bằng cách hiển thị giả hàm lượng
nitơ cao. Do trong thành phần cà công thức có lượng nitơ cao (6N), nên khi xét
nghiệm bằng phương pháp đồng vị phóng xạ thì kết quả thu được tương tự như kết
quả thử nghiệm một thực phẩm có nồng độ “protein” cao. Thực chất nitơ trong
melamine là một non -protein nitrogen, tức nitơ không phải chất đạm, cho nên nó
không có tác dụng dinh dưỡng như chất đạm. Ngược lại, sau khi vào cơ thể, chính
lượng nitơ cao này sẽ dẫn đến tình trạng ngộ độc cấp do tăng amoniac cấp tính và
suy thận cấp. Nếu hàm lượng đưa vào cơ thể ít và kéo dài sẽ tích tụ lại gây sỏi thận
và cuối cùng dẫn đến suy thận. mặt khác, theo nhiều tài liệu đã công bố, melamine
còn làm suy giảm hệ miễn dịch của cơ thể…
Do sữa là thực phẩm chính ở trẻ em (chiếm 40-100% khẩu phần hằng
ngày) nên số lượng melamine xâm nhập vào cơ thể nhiều hơn và nguy cơ tích tụ
chất độc nhiều hơn. Ở trẻ em, gan thận còn rất yếu nên khả năng thải độc kém
hơn người lớn, khối lượng cơ thể lại thấp, do đó nguy cơ ngộ độc ở trẻ em luôn
cao hơn người lớn. Melamin gây nhiều triệu chứng nguy hiểm như sỏi thận…
nhưng nguyên nhân chính dẫn đến tử vong là do suy thận, bí tiểu, rối loạn
chuyển hóa, suy hô hấp, ngộ độc thần kinh. Ngoài ra còn phát hiện 65 sản phẩm
có melamin như: Sản phẩm sữa cho trẻ sơ sinh, các loại kẹo, các loại sữa nước
và sữa chua, thực phẩm tráng miệng đông lạnh, đồ ăn nhanh
Vừa qua, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) vừa chính thức thông
báo danh sách các sản phẩm sữa nhiễm melamine:
TT Tên sản phẩm Đơn vị phân phối Nguồn gốc
Hàm lượng
melamine
1 Sữa Pure Milk hiệu YiLi

Công ty TNHH Kim
Ấn, TPHCM
Trung Quốc 0,07 mg/l
2 Sữa tươi YiLi (1lít) Nt Trung Quốc 0,49 mg/l
3
Sữa tươi YiLi hương
original (250ml)
Nt Trung Quốc 2,97 mg/l
4 Sữa tươi YiLi (250ml) Nt Trung Quốc 2,95 mg/l
5 Sữa tươi YiLi Nt Trung Quốc 177,58 mcg/l
6
NLTP: Non dairy creamer
Thái Lan
Công ty CP Hóa chất
Á Châu, TPHCM
Thái Lan 104,44 mcg/l
7
Full cream milk powper
grade A
Công ty CP Sữa Hà
Nội Quang Minh, Mê
Linh, Vĩnh Phúc
Trung Quốc 145 mcg/kg
8
Blue Cow - Full cream
milk powder used for
UHT milk
Nt Trung Quốc 200 mcg/kg
9
Sữa tăng chiều cao

Golden Food cho trẻ từ
01 tuổi trở lên (hộp giấy)
Công ty CP Dinh
dưỡng thực phẩm
vàng, TPHCM
Chưa rõ
nguồn gốc
707,19
mg/kg
10
Sữa bột Advandced
Distribution
Công ty TNHH
CBLTTP Mai Anh,
TPHCM
Chưa rõ
nguồn gốc
207,76
mg/kg
11 Bánh quy Khong Guan
Công ty TNHH
TM&DV Đại Vinh
Indonesia 268 mcg/kg
12 Bánh quy Khong Guan Nt Malaysia 1575 mcg/kg
13
Bánh quy Khian Guan
Aquare Puff
Nt Malaysia 1689 mcg/kg
14
Bánh quy Khong Guan

Marie
Nt Malaysia 334 mcg/kg
15
Bánh quy Khian Guan
Superior
Nt Malaysia 1854 mcg/kg
16
Sữa bột nguyên kem (Full
Cream Milk Powder)
Công ty CP Thực
phẩm Anco
Chưa rõ
nguồn gốc
203 mcg/kg
17 Sữa bột béo Công ty Minh Dương
Chưa rõ
nguồn gốc
174 mcg/kg
18 Bột kem không sữa Nt
Chưa rõ
nguồn gốc
279 mcg/kg
Tuy nhiên, khi các sản phẩm sữa có chứa melamine vừa tạm lắng thì dư
luận lại tiếp tục nổi lên việc các sản phẩm sữa có hàm lượng đam ít hơn nhiều so
với công bố.Theo như các chuyên gia dinh dưỡng, việc công bố sai hàm lượng
đạm trên vỏ hộp sữa của nhà sản xuất là sự gian dối không thể chấp nhận, nó tác
hại không khác gì sữa nhiễm melamine. Cũng theo các chuyên gia này thì,
lượng đạm trong sữa rất quan trọng đối với trẻ em, vì chất này được cơ thể trẻ
hấp thu toàn phần 100%. Nếu trẻ dùng sữa thiếu độ đạm lâu ngày sẽ không đủ
chất lượng đạm và lâm vào tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài. Nguy hiểm ở chỗ

hậu quả không thể phát hiện ngay mà ảnh hưởng từ từ trên cơ thể trẻ. Khi cha
mẹ phát hiện thì trẻ đã phải nhập viện vì suy dinh dưỡng. Việc 10 mẫu sữa bột
với những thương hiệu khá quen thuộc được nêu tên trong tuần qua do gian dối
trong việc công bố hàm lượng protid, lipid đã khiến một lần nữa người tiêu dùng
TP Hồ Chí Minh lại sửng sốt
Mỗi năm có khoảng 1 triệu tấn sắt thép được các cá nhân, đơn vị làm ra dưới
dạng "làng nghề" đã có từ hàng trăm năm trước tại Bắc Ninh, Hà Tây, Thái

×