Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận: lý luận về nền kinh tế thị trường pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.16 KB, 17 trang )

Môn Kinh Tế Phát Triển
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau.
Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình
kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết
tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các
nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước
đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này từ cuối thập
kỷ 80. Mỗi sinh viên khi nghiên cứu về đề tài kinh tế thì giúp trả lời được
những câu hỏi: Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh
tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã
hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường ?", "Vì sao mô hình
kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia?", "Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào?", "Bối
cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó
diễn ra như thế nào?", "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các
nước khác trên thế giới?"…
Tiểu luận này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được thêm về bản chất, tính chất
cũng như nguồn gốc hình thành của nền kinh tế. Ngoài ra còn giúp cho chúng
ta biết thêm được về thực tế, những nhân tố, những quy luật tác động đến
kinh tế thị trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta
trong quá trình nghiên cứu học tập, nâng cao kiến thức của bản thân. Từ đó
có được cái nhìn tổng quát và thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta
một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội và những biện
pháp cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho đất nước.
1
Môn Kinh Tế Phát Triển
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ


TRƯỜNG
I.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
I.1.1. Khái niệm: Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và
người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả
và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
I.1.2. Ưu điểm: Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao
hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng
tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào
có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho
phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về
phía những người sản xuất có hiệu quả. Ngược lại những người sản xuất
có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng
mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
I.1.3. Nhược điểm: Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có
thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn
hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số
nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian
ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không linh hoạt dẫn tới
khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các
hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo,
cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền
kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước
mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị
trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều
kiện thương mại giữa quốc gia.
I.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị truờng
Trong kinh tế có các quy luật kinh tế khách quan như:
 Quy luật giá trị

 Quy luật cung-cầu
 Quy luật ích dụng giảm biên
 Quy luật hiệu suất giảm dần
 Quy luật chi phí thay thế tăng
 Quy luật ảnh hưởng nhất định của lượng tài nguyên tối thiểu
I.2.1. Các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường
 Xu hướng bảo toàn cân bằng của hệ thống
2
Môn Kinh Tế Phát Triển
 Mâu thuẫn phát triển của hệ thống
 Tính chu kỳ của hệ thống
 Sức chứa biên của thị trường
 Giá trị sử dụng của hàng hóa
 Sự kích thích quyền lợi nhà sản xuất
 Phân phối thu nhập theo lao động
 Sự thay thế và tái tạo tài nguyên vật chất và tài nguyên lao động
 Hiệu quả tối ưu của sở hữu hoàn toàn.
I.2.2. Các bước phát triển của nền kinh tế thị trường trong đổi mới tư duy
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản
chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về
bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân
phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các
quy luật của chủ nghĩa tư .
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự thay đổi so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế
độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba
chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành

nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đến
quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến
quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc thì nhất thiết phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi
mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi thành phần này là động lực quan
trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế
hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ
trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và
chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh
3
Môn Kinh Tế Phát Triển
thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, phủ
nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa
là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc
biệt trên bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các
đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất,
kinh doanh.
Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là
phân phối theo lao động đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân

phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể
hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người đều
có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi
sự làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo
đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta
cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước 1: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta
là kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý
chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh
tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (một bộ phận
của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ
chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát
triển thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế
của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước 2: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang
hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có
nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, còn cơ chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị
quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh

tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu
chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị
trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác
nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ
nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức
khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó
đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã
4
Môn Kinh Tế Phát Triển
hội đó, làm cho người ta nghĩ rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy,
trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị
trường tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với
chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ
định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác nền
kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không?
Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại hội
VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước 3: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX(2001)của
Đảng ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục
đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai

trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước 4: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường
toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X
của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò quản lý
của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại
thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh với chủ đề: “Tích
cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh
hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm
mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục
năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
II.1. Sự cần thiết khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
5
Môn Kinh Tế Phát Triển
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết
sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận

thức sâu sắc tính quy luật khách quan với vai trò chủ động, sáng tạo của chủ
thể là Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển
của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt,
đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của
Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá
trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện
tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh
tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và
nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển
nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ
nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt
mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh
mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh.
Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng
tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm
hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội
hoá các lực lượng sản xuất.
Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những thành công nhất định
trong phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát
triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy
nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế
phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay
chính trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, nhân loại đã
nhận thức được rằng, mô hình phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương
Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu. Những
mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị
truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu
- nghèo. Hơn nữa, nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển

hơn, đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ
"trung tâm - ngoại vi".
Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung
cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát
triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá -
xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù
của riêng mình. Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó và việc khắc
phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải. Một số nước
Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường riêng của mình,
6
Môn Kinh Tế Phát Triển
nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã chủ
trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà
nước tư bản chủ nghĩa ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham
gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định
hướng xã hội, tạo ra cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư
bản nhân dân". Nhưng trong phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những
nỗ lực trên rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự
phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị
trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại,
con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả
năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính
tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Nếu như nền văn minh công nghiệp ra đời trên
cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp thì trái lại, nền văn minh hậu công
nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba lại
có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp. Thực tế cho thấy,
công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương
ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà

không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp
hoá tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi
điện tử và sinh học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội,
với nguồn nguyên liệu sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước
lạc hậu.
Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình
thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã
hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị
trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các
quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng
nhất với chủ nghĩa tư bản. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã ra đời
trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn
gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn.
Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới
đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị
trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không
phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ
nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời
đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế
giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất
có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng
nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân
tộc mà không phải là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho
riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế
7
Môn Kinh Tế Phát Triển
thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với những

đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát triển kinh tế, phục vụ
đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với xu hướng phát triển
khách quan của thời đại. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan
với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội
sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường
để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó
cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển để thu hẹp khoảng cách
tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
II.2. Bản chất, nội hàm của mô hình Kinh tế thị trường định hướng
XHCN
a) Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa phải là chủ
nghĩa xã hội đã phát triển đầy đủ và chín muồi. Về nội dung và thực chất, đây
là nền kinh tế quá độ của xã hội quá độ, đang trong quá trình chuyển biến
cách mạng lên nấc thang mới. Do đó, nó vừa tuân theo những nguyên tắc và
quy luật của bản thân hệ thống (kinh tế thị trường), lại vừa chịu sự chi phối
của những nguyên tắc và quy luật nằm ngoài hệ thống (nguyên tắc xã hội hoá
- xã hội chủ nghĩa và những quy luật phản ánh bản chất xã hội hoá - xã hội
chủ nghĩa). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tư cách là
nền kinh tế quá độ, tiềm tàng những lực lượng cách mạng, những nhân tố mới
và những khả năng cũng như phương án phát triển rộng lớn.
Về nguyên tắc, nền kinh tế thị trường hiện đại không thể ra đời tự phát
như trong các thế kỷ trước. Đây phải là nền kinh tế thị trường được định
hướng cao về mặt xã hội và phát triển theo xu hướng xã hội hoá - xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn đặc
trưng bởi "thuộc tính kép" hay "quá độ bậc hai": kết hợp đồng thời giữa bước
quá độ sang nền kinh tế thị trường mà nhân loại đã đạt được với bước quá độ
toàn nhân loại sang xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và nền kinh tế tri

thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là nền kinh tế thị trường kiểu mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận thức tính tất yếu khách
quan với phát huy vai trò năng động sáng tạo của chủ thể, nhằm phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh
tế thế giới và trở thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI.
b) Nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội hàm của nền kinh tế thị trường bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:
Hệ thống mục tiêu và động lực: Đảng ta đã nêu lên mục tiêu xây dựng
một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Chính mục tiêu đó sẽ quy định phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đạt tới mục tiêu. Đó là sử
8
Môn Kinh Tế Phát Triển
dụng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển rút ngắn.
Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Các hình thức sở hữu khác nhau
như sở hữu xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân chỉ là
những hình thức hay cấp độ của sở hữu kinh tế. Bởi sở hữu như một phạm trù
kinh tế luôn chứa các cực kinh tế đối lập hay những mâu thuẫn xã hội hiện
thực, bắt buộc phải thừa nhận lẫn nhau như những chủ thể kinh tế riêng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội sẽ có ý nghĩa ngày càng quan trọng để
đảm bảo tính kế hoạch và định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát
triển.
Cơ chế vận hành kinh tế: Đương nhiên cơ chế thị trường là cơ chế chủ
yếu vận hành kinh tế, nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực,
kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng
hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, điều đó không hề phủ

nhận vai trò của "nhân tố mới" – Nhà nước xã hội chủ nghĩa - trong việc quản
lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị trường. Trong trường
hợp này, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua chức năng tổ chức và quản lý
vĩ mô, sử dụng tốt các công cụ hành chính – pháp lý và kinh tế, đặc biệt, công
cụ kế hoạch hoá và các chương trình mục tiêu quốc gia, các chiến lược phát
triển trung và dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, các công cụ đòn bẩy,
để quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Hình thức phân phối: Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng góp
và cổ phần, trên nguyên tắc ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả,
đồng thời đảm bảo phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội.
Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông
thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động mang tính bình quân trong
chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri thức,
tiềm năng lao động - "tư bản con người" được coi là yếu tố quan trọng hàng
đầu và có khả năng sáng tạo rất lớn. Việc đề cao con người cũng như nguyên
tắc phân phối theo lao động là phù hợp với xu thế và tính nhân văn của phát
triển hiện đại. Mặt khác, bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất
bình đẳng xã hội thái quá cũng là điều kiện để nuôi dưỡng, phát triển chính
nguồn lao động sáng tạo này.
Chủ thể lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không thể ai khác là Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần
không ngừng được củng cố, trên cơ sở phát huy đầy đủ quyền và trách nhiệm
của toàn dân tham gia vào quá trình tổ chức, xây dựng nhằm sáng tạo hệ
thống kinh tế thị trường mới. Đó là những điều kiện tiên quyết cho việc phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành công.
II.3
. Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa


Sự lựa chọn mô hình phát triển "Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa" là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch
9
Môn Kinh Tế Phát Triển
hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây
dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa). Nói rõ hơn, đây không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ
hoặc dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ
định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng
cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa.
Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta
không chấp nhận kinh tế thị trường như là một thứ công nghệ – kỹ thuật
thuần tuý, hay như một phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự
giàu có cho tư bản, mà phát huy những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ
động hướng kinh tế thị trường phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân,
sự phồn vinh và hạnh phúc toàn xã hội. Để đạt điều đó cần có sự can thiệp
mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thấm nhuần
sự kết hợp giữa tính tất yếu thời đại với nguyện vọng tha thiết của một dân
tộc yêu tự do, độc lập và luôn mong muốn sống trong hoà bình, hạnh phúc,
với các giá trị truyền thống dân chủ, nhân văn, tương thân tương ái. Đó hoàn
toàn không phải là sự thổi phồng đặc điểm dân tộc hay chủ ý đi theo "con
đường riêng", mà là sự vận dụng sáng tạo quy luật chung vào những hoàn
cảnh cụ thể của đất nước.
Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng
tầng chính trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan cũng như
vai trò lãnh đạo của chủ thể và kiến trúc thượng tầng chính trị – pháp lý xã
hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công quá trình xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mọi sự vô
hiệu hoá vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường sẽ chỉ dẫn tới sự hỗn
loạn và bất ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội. Thực tế thế giới đã khẳng
định điều đó.
II.4. Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay
Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng
ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vẫn là một nước nghèo,
kém phát triển, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ
lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm
khoảng 75%, dân số và việc làm luôn là vấn đề gay gắt, đời sống của một bộ
phận dân cư còn gặp khó khăn, nhất là khu vực nông thôn và miền núi, cho
đến nay, về cơ bản, cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bổ tự nhiên, chưa có các
giải pháp có hiệu quả để sớm hình thành các ngành, vùng kinh tế trọng điểm.
Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông xuống cấp. Nền tài chính quốc
gia còn yếu và thất thoát, lãng phí lớn. Khả năng kiềm chế lạm phát chưa
vững chắc. Ngân sách còn mất cân đối lớn giữa thu và chi. Kinh tế quốc dân
chậm được đổi mới, kinh tế tư nhân chưa được tháo gỡ những trở ngại cho sự
phát triển, mặt khác thiếu hướng dẫn, quản lý. Tình trạng rối loạn trong sản
xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng như sự yếu kém và tệ quan liêu,
10
Môn Kinh Tế Phát Triển
tham nhũng trong bộ máy Nhà nước khá nghiêm trọng. Phân hóa giàu nghèo
trở nên sâu sắc trong hoàn cảnh tranh tối, tranh sáng.
Cho đến nay, thị trường nước ta vẫn là thị trường sơ khai, còn những rối
loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thị trường hàng hoá, còn thị trường
tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động chưa hoặc mới ở dạng manh
nha). thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn tách biệt. Thị trường sức lao
động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu
và còn những rối loạn, cùng với tình trạng luật lệ Nhà nước vừa thiếu vừa bất
hợp lý: còn những gò bó và cả những sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn

tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển. Trong khi
đó, để đánh giá mức độ phát triển của bất kì nền kinh tế nào, trước hết người
ta nhìn vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Tuy đã có định hướng để xây
dựng một thị trường đồng bộ, nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm.
Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về chính sách, thể chế, nhất là
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đầu tư, thương mại, tỷ giá, lãi suất. Chúng ta
chủ trương xây dựng một thị trường thống nhất, thông suốt, nhanh chóng hoà
nhập với thị trường thế giới, song nhiều thủ tục hành chính phiền hà còn gây
khá nhiều cản trở. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do hậu
quả của cơ chế cũ để lại, từ những quan niệm giản đơn trong việc bố trí cơ
cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cho đến việc duy ý chí trong việc hoạch định chính
sách kinh tế, đặt ý chí chủ quan vào đời sống kinh tế - xã hội không phù hợp
với lợi ích của quần chúng. Tuy có những bước tiến, nhưng về cơ bản các
chính sách kinh tế vĩ mô chưa theo kịp sự phát triển.
Mặt khác phải thừa nhận một thực tế, đây là một sự chuyển đổi khá phức
tạp, là quá trình mà độ dài phải tính bằng thập kỉ mới có thể đi vào quỹ đạo.
Do đó không tránh khỏi thời kì đầu phải chấp nhận tình trạng thị trường
thiếu, rối loạn, tiêu cực, trong khi các nhân tố có sứ mệnh tạo trật tự là hệ
thống ngân hàng, tài chính, bộ máy nhà nước, doanh nghiệp lớn còn yếu kém
và tiêu cực, còn đang ở bước thích nghi
II.5. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường nước ta hiện nay
II.5.1. Đẩy mạnh quá trình phân công và phân công lại lao động ở nước ta
Phân công lao động xã hội là phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công
và phân công lại lao động xã hội. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân
công lại lao động để phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có
lợi thế so sánh trong việc sản xuất. Trước mắt đó là các ngành: nông nghiệp,
công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, công nghiệp
lắp ráp, điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất
khẩu những hàng hoá này cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích

hợp để cải tiến trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho
phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động
trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực.
II.5.2. Xây dựng lại các cơ sở hạ tầng:
Phát triển kết cấu hạ tầng đảm bảo sự giao lưu thông suốt trong mọi thời
tiết trên các tuyến giao thông huyết mạch, các tuyến nhánh đến các vùng, các
11
Môn Kinh Tế Phát Triển
trung tâm miền núi. Trong từng vùng, điện nước giao thông thông tin được
đáp ứng theo yêu cầu của mức độ phát triển.
Đầu tư xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại các công trình giao
thông tại các cửa khẩu ( sân bay, hải cảng quốc tế), các hành lang quan trọng
tới cửa khẩu nội địa, tại các vùng kinh tế trọng điểm, tuyến trục Bắc - Nam.
Mở rộng và nâng cấp sân bay quốc tế và các sân bay khác. Cải tạo và mở
rộng cảng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại, đồng bộ, phát
triển và nâng cấp mạng lưới điện
II.5.3. Về cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ
Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài.
Chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu, tận
dụng có hiệu quả các chính sách hiện có sau những năm xây dựng trước đây.
Cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các kỹ thuật và công nghệ truyền thống
phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp
và kinh tế nông thôn
Tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước
ngoài. thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị.
Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi
mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới. ưu tiên nghiên
cứu, ứng dụng tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp điện tử và tin học,
công nghiệp sinh học, công nghiệp chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn

vật liệu trong nước.
Tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu khoa học, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển giáo dục và đào tạo, có cơ chế bồi
dưỡng và bảo vệ nhân tài.
II.5.4. Kinh tế đối ngoại
Thu hút ngày càng nhiều vốn và công nghệ hiện đại của các nước thông
qua vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá để
tránh lệ thuộc, nhưng cần ưu tiên cho khu vực Châu á Thái Bình Dương.
Sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh trong xuất nhập khẩu, trong phân
công và hợp tác quốc tế về lao động.
Coi trọng việc đào tạo người có năng lực và bản lĩnh để sử dụng có hiệu
quả vốn nước ngoài, để nhận chuyển giao công nghệ mới của nước ngoài
không mắc những sai lầm đáng tiếc có thể xẩy ra.
Phát triển thị trường ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương: phải
thực hiện xuất siêu. muốn vậy cần phải xuất thành phẩm chứ không xuất
nguyên liệu. Khuyến khích phát triển công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, chế biến đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu hút được giá trị cao cho
hàng xuất khẩu cho chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh
tế trong nước phát triển thu hút công nghệ - khoa học kỹ thuật từ bên ngoài;
ngăn chặn nhập những hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng
II.5.5. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
12
Môn Kinh Tế Phát Triển
Đối với thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ: Phải tăng quy mô tiêu
dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày
càng nâng cao. Việc phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi
phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ để thoả
mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh….cho nhân dân.

Cần khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng, biển, tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn hàng ngày càng
lớn đáp ứng nhu cầu. Đồng thời cùng với số lượng phải chú ý đến chủng loại
phong phú và nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng
cao. Từng bước giảm giá cả hàng tiêu dùng và dịch vụ: giảm chi phí sản xuất
để làm cơ sở cho việc giảm giá và tăng khối lượng sản phẩm cung ứng trên
thị trường.
Đối với thị trường các yếu tố sản xuất : Thị trường các yếu tố sản xuất
bao gồm: thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện
vật chất khác cho quá trình sản xuất. Muốn thực hiện tái sản xuất mở rộng thì
vốn và tư liệu sản xuất cần nhận được một phần bổ sung từ giá trị sản phẩm
thặng dư, tài sản phải được tham gia vào phân chia lợi nhuận.
Ta cần phải thực hiện cân bằng giữa các loại thị trường: Cần xoá bỏ chế
độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu
dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hóa thị trường một cách hoàn
toàn. Có nghĩa toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ đều
được mua bán trên hai thị trường một cách tự do.
Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng
mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa
người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá
cả thị trường lên xuống mất ổn định. Nhà nước cần phải có lực lượng hang
hóa dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ.
II.5.6. Vai trò kinh tế của Nhà nước
Nhà nước có vai trò điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường ở tầm
vĩ mô bằng cách sử dụng đồng bộ và có hiệu quả các công cụ sau: Nhà nước
ban hành các pháp luật kinh tế.
Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô lẫn vi mô: Đặt kế hoạch
hoá trong sự gắn bó với chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, gắn
bó với quy hoạch tổng thể và phân bố lực lượng sản xuất lấy kinh tế thị
trường làm đối tượng để kế hoạch hoá vĩ mô thông qua hệ thống chi tiêu cân

đối lớn định hướng trong từng thời kì.
Tổ chức tốt thông tin và dự báo tình hình trong nước và thế giới về các
mặt có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho các chủ thể doanh
nghiệp.
Nhà nước thực hiện chính sách tài chính quốc gia: Xây dựng một chính
sách tài chính quốc gia lành mạnh, trên cơ sở thu đúng và chi đúng, trên cơ sở
thu đủ và chi đủ, chống thất thu dưới mọi hình thức. Khắc phục có hiệu quả
những lãng phí, tệ tham nhũng mang tính phổ biến và trầm trọng. hiện nay.
Khắc phục tình trạng bội chi tiến tới thực hiện một ngân sách thăng bằng thu
chi và có dư cho tài khoá sau.
13
Môn Kinh Tế Phát Triển
Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Ngân hàng trung ương
trên cơ sở thực hiện tốt việc điều hoà lưu thông tiền, khống chế và kiềm toả
lượng tiền phát hành góp phần ổn định kinh tế, giá cả, khống chế và kiềm toả
lạm phát ở mức bình thường, đề phòng và ngăn chặn những hiện tượng tái
phát. Củng cố sức mua của đồng tiền Việt Nam, để có thể trở thành đồng tiền
có khả năng chuyển đổi. Phân định rõ chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
và chức năng sản xuất kinh doanh. Đầu tư và phát triển nhanh thị trường
chứng khoán.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước phải chi phối và hướng
hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đi theo định
hướng đã xác định. Nắm các ngành thuộc kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất
kinh doanh. Đối với ngành kinh tế phải nắm những mặt hàng thuộc quốc kế
dân sinh, mang tính công cộng. Phân biệt doanh nghiệp nhà nước với sở hữu
hỗn hợp của các doanh nghiệp liên doanh, liên kết, công ty cổ phần. Lấy hiệu
quả kinh tế - xã hội làm căn cứ đánh giá và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà
nước.
Tăng cường dự trữ quốc gia và tạo một ngân sách và kho bạc Nhà nước
lành mạnh

Hệ thống thuế: Nhà nước phải có được những chính sách thuế đúng đắn
để có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, khuyến khích sản
xuất, ngăn chặn những tác động tiêu cực trong nền kinh tế, điều tiết sản xuất
và tiêu dùng, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.
14
Môn Kinh Tế Phát Triển
KẾT LUẬN
Nói tóm lại nền kinh tế thị trường là công cụ để phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế thì điều đặt ra cho một
quốc gia là phải biết lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và vận dụng nó sao
cho phù hợp với tình hình cũng như hoàn cảnh của nước mình.
Tuy kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ nghĩa, bên cạnh những
mặt tích cực nó còn biểu hiện mặt tiêu cực (mặt trái). Và chúng ta không thể
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Mô hình kinh tế thị trường
là mô hình chung cho cả Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội. Muốn sử
dụng nó một cách hiệu quả thì không chỉ phát huy những tác động tích cực
mà nó đem lại cho nền kinh tế, mà còn đòi hỏi phải biết hạn chế một cách tối
đa những mặt tiêu cực mà nó gây ra. Vì vậy khi một nền kinh tế áp dụng theo
mô hình kinh tế thị trường thì cần phải có sự kết hợp giữa sự tự điều tiết nền
kinh tế của thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Điều đó
có nghĩa là Nhà nước phải luôn quan tâm đến những yếu tố cấu thành nên cơ
chế thị trường: giá cả, cung cầu hàng hoá, cạnh tranh, tiền tệ và lợi nhuận và
những quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Để từ đó có những biện pháp
chính sách phù hợp để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển
một cách nhanh chóng và vững mạnh.
Đối với nước ta, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có hơi
muộn nhưng nó cũng đem lại những thành tựu hết sức to lớn cho đất nước
trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã thấy được những hạn chế
của mô hình kế hoạch hoá tập trung và cũng thấy được vai trò quan trọng của

kinh tế thị trường đối với nền kinh tế. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã
chấp nhận nó - như một công cụ để phát triển, để đạt được những mục tiêu
cao hơn - đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng đã định hướng cho nó để
phù hợp với chiến lược, phương hướng mà Đảng, Nhà nước đã chọn. Một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những cái chung của
nền kinh tế thị trường và nó cũng có những cái khác biệt so với nền kinh tế
thị trường của các nước khác. nó mang bản sắc riêng thể hiện đường lối lãnh
đạo, cũng như chủ trương phát triển kinh tế của nước ta sao cho phù hợp với
nguyện vọng của quần chúng nhân dân cũng như xu hướng tất yếu hiện nay
của thế giới.
Tuy nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và
phát triển, đang còn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đều tin rằng với sự
lãnh đạo của Đảng, sự điều tiết kinh tế của Nhà nước cũng như sự đoàn kết,
thống nhất và quyết tâm của nhân dân ta nó sẽ phát triển lên một trình độ cao
và sẽ là công cụ quan trọng để chúng ta hoàn thành quá trình đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội
15
Môn Kinh Tế Phát Triển
STT Đề mục
Số
trang
Lời mở đầu 1
I Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường 2
I.1 Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường 2
I.2 Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị truờng 2
II
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
5
II.1

Sự cần thiết khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
5
II.2
Bản chất, nội hàm của mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
8
II.3
Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
9
II.4 Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay 10
II.5 Giải pháp phát triển kinh tế thị trường nước ta hiện nay 11
16
Môn Kinh Tế Phát Triển
Kết luận 15
17

×