Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nguồn gốc tên gọi của các hệ điều hành Windows, MAC OS... ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.2 KB, 10 trang )

Nguồn gốc tên gọi của các hệ điều hành Windows, MAC OS
Mỗi cái tên đều có nguồn gốc riêng và các hệ điều hành cũng không phải
điều ngoại lệ.
MS-DOS

Cái tên quá quen thuộc với hầu hết người sử dụng máy tính cho dù hok có
thể chưa bao giờ thấy tận mắt hệ điều hành này. MS-DOS là viết tắt của
cụm từ “Micro Soft Disk Operating System” trong tiếng Anh, vốn dĩ
được chuyển nguồn gốc sáng chế từ “Seattle Consumer Products’ Quick
and Dirty Operating System” (QDOS).





MS-DOS ra đời bao gồm dạng mã lệnh đen/trắng chứ không hề có giao
diện người dùng đồ họa (GUI). Sau này, cụm từ DOS mang nghĩa rộng
lớn hơn để chỉ các hệ điều hành có bộ cài được ghi trên đĩa chứ không
còn chỉ riêng MS-DOS. Ví dụ, chúng ta có các loại hệ điều hành khác
như Apple DOS, AmigaDOS, freeDOS…

Windows 1.0 – NT 4.0

Tên gọi Windows 1.0 cho biết đây là hệ điều hành đầu tiên của Microsoft
sở hữu giao diện đồ họa, giúp người sử dụng tương tác nhanh chóng và
thuận tiện hơn. Chữ Windows từ đó cũng được coi như một biểu tượng
lớn của gã khổng lồ phần mềm. Sau này, các hệ điều hành tiếp theo đều
mang tiền tố “Windows” đằng trước như càng khẳng định thêm vị trí
số một ấy.




Windows 1.0 tới 3.1 bắt đầu hoạt động trên nền tảng công nghệ hoàn toàn
mới mang tên New Technology được áp dụng trong việc phát triển hệ
điều hành. Tiếp sau đó, Windows 4.0 là phiên bản đầu tiên áp dụng nhân
kernel NT và được phát hành năm 1996, sử dụng giao diện người dùng
Windows 95.

Windows 95 – ME

Trong một thời gian ngắn, Microsoft đặt tên các sản phẩm hệ điều hành
của mình theo năm ra đời của chúng. Vì vậy, chúng ta có Windows 95,
98 và bản Millennium Edition. Tất cả đều được xây dựng trên nhân
kernel của bản Windows 3.1. Phiên bản Millennium Edition ra đời năm
2000 và được thiết kế lại nhằm tối ưu hóa cho mục đích sử dụng tại gia
trong khi Windows 2000 phục vụ chủ yếu cho các máy tính doanh
nghiệp.



Windows 2000 sử dụng nhân kernel NT và đã đem lại thành công cho
Microsoft, hoàn toàn xứng đáng là người kế nhiệm của NT 4.0 và giống
như dấu mốc tiền thân cho thời kỳ vàng son mang tên Windows XP.

Windows XP, Vista và Windows 7

Windows XP được ra mắt năm 2001 và chữ “XP” được lấy ra từ chữ
“eXPerience” (trải nghiệm). Đây là nền tảng thành công nhất so với các
người tiền nhiệm trước đó. Năm 2007, Windows Vista ra đời. Theo
Microsoft, “Vista” có nghĩa là những gì bạn hồi tưởng, suy nghĩ vào
khoảng cuối ngày về điều mình đã làm được trong ngày đó. Tuy nhiên,

trên thực tế, Vista không đạt được thành công như mong muốn.







Windows 7 có cách đặt tên rất đơn giản, chỉ phiên bản thứ 7 của hệ điều
hành Windows kể từ Windows 95. Mặc dù Windows 95 không phải là
phiên bản đầu tiên nếu tính tới cả Windows 1.0 – 3.1 nhưng nếu đặt tên
cho Windows 7 bằng Windows 10 thì sẽ chẳng còn mấy thú vị. Thêm
nữa, mọi người sẽ nhầm lẫn với thương hiệu Mac OS 10.

System 1 – 7.5

Không chịu khoanh tay ngồi nhìn Microsoft gặt hái những thành công từ
mảnh đất hệ điều hành béo bở, Apple nhảy vào cuộc. Sản phẩm của họ
được phát triển riêng cho dòng máy tính cá nhân Macintosh. Sau này,
những bản nâng cấp tiếp theo thường được thêm số điểm 0,1 vào sau tên
gọi.



Macintosh là dòng máy tính cá nhân đầu tiên của Apple, ra đời năm 1984.
Sau này, mỗi khi phiên bản PC mới hơn ra mắt thì phiên bản OS mới
cũng nhanh chóng xuất hiện nhằm hỗ trợ tốt hơn. Từ bản System 1 tới 4
không hỗ trợ đa nhiệm. Phiên bản 7.6 được Apple bỏ tiền tố “System”
trước khi các hệ điều hành đời sau được đổi tên thành Mac OS.


Mac OS 8 – 10

Mac OS 8 giới thiệu năm 1997, một thời gian ngắn sau khi Steve Jobs trở
lại làm việc tại Apple. Lẽ ra Mac OS 8 đã có tên gọi 7.7 nhưng được
chuyển thành 8. Mac OS 9 chào đời và trở thành dấu mốc “kinh điển”
khi 100% sản phẩm đều dựa trên nhân lực của Apple.





OS X (OS số 10) là phiên bản thứ 10 của hệ điều hành chạy trên máy
Mac và cũng là thế hệ đầu tiên phát triển dựa trên công nghệ Berkeley
Software Distribution (BSD). Phần lớn ý tưởng của BSD được phát triển
tại công ty NeXTSTEP – nơi Steve Jobs làm việc trong những ngày rời
khỏi Apple.

Những phiên bản tiếp theo như 10.1, 10.2… không được Apple giải
thích lý do.

Linux



Cái tên Linux bắt nguồn từ Ari Lemmke – một người điều hành server
FTP – nơi upload Kernel Linux gốc. Trong khi đó, Linus Torvalds là
người đã tạo ra kernel Linux thì muốn đổi tên thành kernel Freax. Nhưng
Ari lại gửi cho Torvalds một folder có tên “linux” để nhà phát triển kia tải
lên. Tất nhiên, ai cũng hiểu Linux là cách viết lái đi của từ "Linus" (tên
người phát triển).


Ubuntu

Ubuntu là một từ trong ngôn ngữ Zulu và Xhosa ở châu Phi, mang nghĩa
“loài người vượt trội hơn các giống loài khác”. Cũng giống như các phiên
bản Linux khác, Ubuntu bao gồm 2 tên gọi cho mỗi một bản: tên mã phát
triển và tên phiên bản. Tên phiên bản được đặt theo năm tháng ra mắt. Ví
dụ, nếu bạn nhìn thấy tên phiên bản là 10.04 thì thời điểm ra mắt sẽ là
tháng 4 năm 2010. Ngoài ra, cứ mỗi 2 năm 1 lần, một bản LTS sẽ được
cập nhật, giúp bổ sung những bug của hệ thống.



Tên mã được đặt theo tên một con vật và tính chất của con vật đó (theo
tiếng Anh) với cùng chữ cái bắt đầu (ví dụ chúng ta có Warty Warthog).
Từ phiên bản Breeze Badger (5.10), tên code bắt đầu được đặt theo bảng
chữ cái.

Ngoài ra, tùy từng mục đích mà các phiên bản Ubuntu có tên gọi khác
nhau như Kubuntu, Xubuntu, Mythbuntu và Eubuntu. Chúng cũng có lịch
đặt tên giống như Ubuntu.

×