Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Khung pháp luật chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước 3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.04 KB, 15 trang )


31
pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới.
So với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã có một bước tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với
tập quán và luật pháp quốc tế, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có
một điều riêng (Điều 2) nêu 12 khái niệm pháp lý quan trọng, tạo điều kiện nhận
thức và áp dụng thống nhất luật này trên phạm vi toàn quốc.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể hơn
về: 1) Đối tượng hợp tác đầu tư với nước ngoài; 2) Lĩnh vực khuyến khích đầu
tư; 3) Hình thức đầu tư; 4) Biện pháp bảo đảm đầu tư; 5) Quy định về thuế; 6)
Quy định về vốn pháp định; 7) Chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm; 8) Mở tài
khoản; 9) Thời hạn đầu tư; 10) Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa
VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Luật
này đã sửa đổi, bổ sung 15 trên tổng số 42 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987.
Với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ này, hệ thống pháp luật về đầu
tư nước ngoài đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
vào những năm 1990 thêm hấp dẫn.
Ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 9 điều, bổ sung
mới 3 điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng.
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị
định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế
cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17



32
văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Như
vậy, cho đến trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996, Nhà nước đã ban hành khoảng 110 văn bản luật và dưới luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.2.3. Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay)
Giai đoạn này đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội; quan
hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài. Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm
1990, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp
lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam của Đảng và Nhà nước ta.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 được ban hành trong bối cảnh hệ thống
pháp luật về kinh tế đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung tương đối đầy đủ, so với
trước kia. Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành vào thời điểm này như
Bộ luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thu hút tối đa mọi
nguồn vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số 12/CP
ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác có
liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cùng hệ thống các văn bản luật nói trên
đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù
hợp với đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển và mở cửa nền kinh tế, đáp

ứng được yêu cầu của thời điểm đó.

33
Tuy nhiên, từ sau năm 1997, tình hình trong nước cũng như khu vực và
thế giới đã có nhiều thay đổi. ở trong nước, tuy khu vực đầu tư nước ngoài vẫn
tiếp tục có đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhưng
những năm sau đó, nhịp tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục
suy giảm.
Trước thực tế trên, để chặn đà suy giảm, tiến tới có sự tăng trưởng của đầu
tư nước ngoài; ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 2000). Luật này đã bổ sung hai điều mới và sửa đổi,
bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài
(sửa đổi) năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng
mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24. Nghị định gồm 14 chương,
125 điều và kèm theo 2 phụ lục.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 đã tạo điều
kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động
trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường
kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với
một số nước trong khu vực.

2.3. Sự hình thành và phát triển một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước
ngoài nói chung cho ta thấy bức tranh tổng thể mang tính khái quát về pháp luật
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sẽ là đầy đủ hơn, nếu chúng ta đi sâu phân tích sự
hình thành và phát triển của một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật đầu
tư nước ngoài như: chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài; hình thức đầu tư

và phương thức đầu tư; các biện pháp bảo đảm đầu tư; các biện pháp khuyến
khích đầu tư; quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư

34
nước ngoài; giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp; thủ
tục đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
2.3.1. Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể về chủ thể tham gia
hợp tác đầu tư nước ngoài. Đây là bước tiến so với Điều lệ Đầu tư nước ngoài
năm 1977, vì trong Điều lệ chưa quy định cụ thể đối tượng nào thuộc Bên Việt
Nam được tham gia đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã
quy định rất cụ thể những chủ thể thuộc Bên Việt Nam tham gia đầu tư, đó là:
"Một bên hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân. Các tư
nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức Việt Nam thành bên Việt Nam để
hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài".
Theo chúng tôi, việc quy định tư nhân phải chung vốn với tổ chức kinh tế
có tư cách pháp nhân để thành Bên Việt Nam là chưa hoàn toàn phù hợp với
chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mà nên quy định
tư nhân Việt Nam được phép độc lập tham gia hợp tác với nước ngoài để tạo cơ
hội cho các nhà đầu tư thuộc nhiều thành phần kinh tế, tự nguyện bỏ vốn để hợp
tác với các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó góp phần nâng cao tỷ trọng vốn trong
nước so với toàn bộ cơ cấu đầu tư của nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc cho phép tư nhân được độc lập hợp tác đầu tư nước ngoài
có những mặt trái, đó là: tư nhân Việt Nam, bên cạnh tiềm năng về vốn và năng
lực kinh doanh mà ta cần khai thác, còn có thể có những biểu hiện tiêu cực, như
lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước để làm ăn không chính đáng, móc ngoặc
với Bên nước ngoài, vì lợi ích riêng mà bỏ qua lợi ích của đất nước; các nước tư
bản lớn có chính sách thù địch với ta đều có ý đồ thông qua việc phát triển thành
phần kinh tế tư nhân để tiến tới "tư nhân hóa" toàn bộ nền kinh tế của ta, xóa bỏ
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Vì vậy, chủ trương cho phép thành phần kinh tế tư nhân được đứng độc
lập thành Bên Việt Nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài cần được gắn với việc
hạn chế hoạt động của họ đối với một số lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa chiến

35
lược đối với an ninh, quốc phòng, như: công nghiệp quốc phòng, khai thác dầu
khí và các tài nguyên quý hiếm, một số ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn khác
Trên cơ sở đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định
như sau: "Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt
Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế" và "Các tổ chức kinh
tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài
trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định".
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định các tổ chức, cá nhân nước
ngoài phải đứng chung thành Bên nước ngoài để hợp tác với Bên Việt Nam, chứ
không được đứng riêng thành nhiều Bên nước ngoài độc lập với nhau.
Thực tiễn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho thấy, không
phải lúc nào các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng muốn đứng chung thành Bên
nước ngoài. Có nhiều trường hợp, họ muốn đứng thành từng Bên nước ngoài độc
lập với nhau để tham gia liên doanh với Bên Việt Nam. Về phía Bên Việt Nam
cũng xảy ra những trường hợp tương tự. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh
có nhiều Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt Nam tham gia là cần thiết, tạo cơ
hội cho các nhà đầu tư nước ngoài được đứng riêng, độc lập với nhau để hợp tác
với các đối tác Việt Nam thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Trên tinh thần đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định
tại khoản 4 Điều 2 về vấn đề này như sau: "Nhiều bên là Bên Việt Nam và các
Bên nước ngoài, hoặc là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hoặc là các Bên Việt
Nam và các Bên nước ngoài". Từ việc quy định "Hai bên", đã bổ sung thêm
thuật ngữ "Nhiều bên" ngay sau thuật ngữ "Hai bên" tại các khái niệm "Hợp
đồng hợp tác kinh doanh" (khoản 5 Điều 2), "Hợp đồng liên doanh" (khoản 6
Điều 2), "Xí nghiệp liên doanh" (khoản 10 Điều 2).

Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư
nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như những
bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật Công ty), còn doanh nghiệp

36
tư nhân theo Luật Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Như vậy,
doanh nghiệp tư nhân chưa được hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Trong khi đó, tư nhân ở nước ta có nguồn vốn không nhỏ, nhưng đầu tư
vào mục tiêu phát triển sản xuất còn quá ít; những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, cũng như một số đối tác khác muốn đầu tư vào Việt Nam với quy
mô vừa phải, phù hợp với khả năng thực tế của mình.
Để pháp luật đầu tư nước ngoài phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và huy động khả năng
hợp tác đầu tư của tư nhân Việt Nam và một số đối tác bên ngoài, Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã sửa đổi điểm 2 Điều 2 như sau: "Bên Việt
Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế".
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, với mỗi lần sửa đổi, bổ sung pháp luật
đầu tư nước ngoài, chế định chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài ngày
càng phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài.
2.3.2. Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có những sửa đổi, bổ sung về ba
hình thức đầu tư đã được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977
theo hướng cụ thể, thực tiễn hơn.
Trên cơ sở hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm được quy định trong
Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã
hoàn thiện thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và quy định rất rõ đặc
trưng cơ bản của nó là các bên cùng góp vốn kinh doanh, sau đó phân chia kết

quả kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên
doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ tư cách pháp nhân của mình, tự quản lý, thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật của nước mình: Bên hợp doanh Việt Nam
thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật Việt Nam, Bên nước ngoài thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật nước ngoài. Có thể nói, đây là hình thức

37
đầu tư được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh vì nó rất đa dạng, linh
hoạt.
Về hình thức xí nghiệp liên doanh, Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp liên doanh như sau: "Xí nghiệp liên
doanh là xí nghiệp do Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hợp tác thành lập tại
Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính
phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài".
Từ quy định trên cho thấy, Nhà nước ta cho phép xí nghiệp liên doanh chỉ
có hai bên là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam; trường hợp có nhiều tổ chức, cá
nhân muốn hợp tác đầu tư dưới hình thức này, thì phải thỏa thuận lại thành một
bên nước ngoài và một bên Việt Nam để liên doanh với nhau.
Hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được quy định trong Điều
lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 với điều kiện chặt chẽ, bắt buộc phải xuất khẩu
100% sản phẩm làm ra. Lúc đó, hình thức này được gọi là: "Xí nghiệp tư doanh
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu".
Để có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 đã đổi tên lại thành hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và quy
định tại Điều 14 như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập tại
Việt Nam Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự
kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, được hưởng
quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong Giấy phép đầu tư. Xí nghiệp
100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam". Theo quy
định này, Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài không bắt buộc phải xuất khẩu 100%

sản phẩm làm ra.
Thực tiễn của nhiều nước đã cho thấy, thành lập Khu chế xuất là một hình
thức đầu tư có sức hấp dẫn, thu hút được nhiều vốn đầu tư, tạo được nhiều việc
làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu và tác động tích cực tới kinh tế nội địa. Khu
chế xuất có một số đặc thù về cơ chế quản lý, nhưng vẫn nằm trong tổng thể của
chính sách đầu tư nước ngoài, chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài.

38
Các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn Nhà nước ta quy định về Khu chế xuất
trong Luật Đầu tư nước ngoài để họ yên tâm đầu tư vào đó.
Do vậy, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung Điều 19a
như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào các Khu chế xuất
tại Việt Nam dưới các hình thức quy định tại Điều 4 Luật này Quan hệ trao đổi
hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các xí nghiệp
chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và theo các quy định của pháp luật
xuất nhập khẩu".
Bên cạnh đó, việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, như: cầu cống,
đường sá, bến cảng, nhà máy cung cấp nước… là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước
ta. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, nhưng việc thu hồi
vốn lại gặp nhiều khó khăn. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã bổ
sung Điều 19b như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
xây dựng công trình hạ tầng có thể ký hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân
nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ quy định trong
hợp đồng".
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã bổ sung một số quy định nhằm hoàn
thiện hình thức đầu tư, phương thức đầu tư như quy định đa dạng hóa các
phương thức đầu tư theo phương thức BOT, BTO, BT; cho phép bệnh viện,
trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài; luật hóa khu công
nghiệp, cho phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt

Nam để thành lập liên doanh mới.
2.3.3. Các biện pháp bảo đảm đầu tư
2.3.3.1. Không quốc hữu hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định những nguyên tắc và biện
pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư
vào nước ta: "Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và

39
các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện
thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào
Việt Nam". Đồng thời, Điều 21 cũng khẳng định: "Trong quá trình đầu tư vào
Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng
dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài không bị quốc hữu hóa".
Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 còn cho phép nhà đầu tư
nước ngoài chuyển về nước vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của họ (Điều 22); cho phép nhân viên nước ngoài làm việc
trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chuyển về nước thu nhập
hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Điều 23).
2.3.3.2. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài
khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật
Đối với các nhà kinh doanh, yêu cầu hàng đầu là pháp luật cũng như chính
sách của Nhà nước phải ổn định, để không làm đảo lộn các tính toán kinh doanh
của họ. Nhưng dưới góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, khi tình hình thay đổi,
thì chính sách, pháp luật cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Để giải quyết
mâu thuẫn nói trên, cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã thay khoản 3 Điều 21 Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1996 bằng Điều 21a trên cơ sở luật hóa Điều 101 Nghị
định 12, nhằm quy định cụ thể các biện pháp đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trong

trường hợp do có những thay đổi trong quy định của pháp luật Việt Nam mà làm
thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, theo hướng:
- Cho phép nhà đầu tư tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định
trong Giấy phép đầu tư và Luật Đầu tư nước ngoài; hoặc
- áp dụng các biện pháp như: cho phép thay đổi mục tiêu hoạt động của dự
án; miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật; thiệt hại của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được
khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp; được xem xét bồi thường

40
thỏa đáng trong một số trường hợp cần thiết.
Việc sửa đổi cũng nêu rõ những quy định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi
cấp Giấy phép đầu tư, sẽ được áp dụng cho Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
2.3.3.3. Bảo đảm, bảo lãnh của Chính phủ
Đối với các dự án BOT và các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng,
nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được Chính phủ bảo lãnh các nghĩa vụ về tài
chính và chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí là những cam kết bảo
lãnh mà pháp luật chưa quy định.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung cơ chế pháp lý về
bảo lãnh đối với một số dự án đặc biệt quan trọng là: căn cứ vào nguyên tắc quy
định của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam, Chính phủ có thể ký kết các thỏa
thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra những biện pháp bảo đảm, bảo lãnh
về đầu tư.
2.3.3.4. áp dụng pháp luật nước ngoài
Để đảm bảo tính rõ ràng, ổn định của hệ thống pháp luật, phù hợp với
thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký; đồng thời làm cho
các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài
(sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung Điều 66 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 như
sau: "Trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể

thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài nếu việc áp dụng
pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam".
2.3.4. Các biện pháp khuyến khích đầu tư
2.3.4.1. Quy định lĩnh vực khuyến khích đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã cho phép các tổ chức, cá nhân nước
ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời, đoạn 2 Điều 3 còn quy định cụ thể những lĩnh vực được khuyến
khích đầu tư như:

41
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng
thay thế hàng nhập khẩu;
- Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để
khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế
hiện có;
- Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở
Việt Nam;
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng;
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã có một bước tiến so với Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1987 ở chỗ đã quy định cụ thể những lĩnh vực và địa bàn
khuyến khích đầu tư nước ngoài, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, những lĩnh
vực và địa bàn không cấp phép đầu tư nước ngoài và giao cho Chính phủ quy
định các địa bàn khuyến khích đầu tư; ban hành danh mục các dự án khuyến
khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện,
danh mục các lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, trong Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1996, chúng ta vẫn chưa quy định được danh mục các ngành
nghề cụ thể cấm đầu tư hoặc đầu tư có điều kiện. Cho đến khi Nghị định 24
được ban hành, Chính phủ mới công bố chính thức Danh mục lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, Danh mục địa

bàn khuyến khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, Danh mục lĩnh
vực không cấp Giấy phép đầu tư.
2.3.4.2. Quy định về thuế
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định về các loại thuế một cách
hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước Việt Nam, vừa đảm bảo lợi ích của
nhà đầu tư, đồng thời có tính hấp dẫn hơn so với các loại thuế tương ứng được
ban hành ở các nước Đông Nam á và Trung Quốc.
 Về thuế lợi tức
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định thuế lợi tức đối với xí
nghiệp liên doanh, xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài và bên nước ngoài hợp tác

42
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng từ 10% đến 25% lợi nhuận thu được. Trên cơ sở
quy định này, Nghị định số 139, đã quy định ba loại: trường hợp đặc biệt cần
khuyến khích đầu tư áp dụng 10% đến 14% lợi nhuận thu được, trường hợp ưu
tiên áp dụng từ 15% đến 20% lợi nhuận thu được, trường hợp phổ thông áp dụng
từ 21% đến 25% lợi nhuận thu được.
Đối với trường hợp tái đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy
định cơ quan thuế phải hoàn lại số tiền thuế lợi tức đã nộp liên quan đến phần lợi
nhuận tái đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được
miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh
doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm
tiếp theo.
Nếu so sánh với các nước trên thế giới, với mức thuế suất thuế lợi tức phổ
thông áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta là
25%, thì thuế suất của Việt Nam vào loại thấp nhất, vì mức thuế suất thu nhập
công ty của các nước thường ở khoảng 30% đến 60%. Mức thuế suất phổ thông
của Việt Nam, cũng như trong các trường hợp miễn, giảm được coi là hấp dẫn so
với các nước trong khu vực: Brunei: 30%, Lào: 20%, Malaysia: 28%, Myanmar:

30%, Philippines: thuế thu nhập công ty giảm dần từ mức 34% năm 1998, 33%
năm 1999 và 32% từ năm 2000; Singapore: 26%, Thái Lan: 30%, Trung Quốc:
30% ngoài ra còn phải trả thuế thu nhập địa phương là 3%, ấn Độ: 35%.
Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ
ngày 1/1/2004 mức thuế thu nhập sẽ áp dụng chung cho đầu tư trong nước và
nước ngoài với các mức 10%; 15%; 20% và 28%.
 Về thuế xuất nhập khẩu
Việc miễn thuế nhập khẩu được áp dụng cho thiết bị, máy móc, phương
tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định
hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng
để đưa đón công nhân. Chính phủ quy định việc miễn giảm thuế suất, nhập khẩu

43
đối với các hàng hóa đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác. Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1996 bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư và xe ô tô con.
Nghị định 12 quy định cụ thể việc miễn thuế nhập khẩu đối với trường
hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ; miễn thuế nhập khẩu
đối với các giống cây trồng, giống vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép
nhập khẩu để thực hiện dự án nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; miễn thuế
nhập khẩu đối với hàng hóa, vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến
khích đầu tư theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Nhằm khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài và tháo gỡ khó khăn đối
với các dự án đang hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục ban hành nhiều chính sách
ưu đãi liên quan đến miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư nước ngoài
(như Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ; Quyết định
số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ ). Để nâng cao
hiệu lực pháp lý của các biện pháp quan trọng này, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa
đổi) năm 2000 đã luật hóa các quy định trên và sửa đổi, bổ sung một số quy định
về miễn thuế nhập khẩu và Nghị định 24 đã quy định như sau:
"Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp

tác kinh doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản
cố định
Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu quy định tại khoản
này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới
công nghệ.
Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc
lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt
đầu sản xuất".
 Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định cụ thể về mức thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài là từ 5% đến 10% số tiền chuyển ra nước ngoài. Luật Đầu

44
tư nước ngoài năm 1996 quy định cụ thể hơn: ngoài việc phải nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vẫn
phải nộp một khoản thuế là 5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài,
tùy thuộc vào quy mô góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của
doanh nghiệp.
Để cải thiện môi trường đầu tư, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước
ngoài năm 2000 đã sửa đổi Điều 43 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 theo
hướng giảm mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài xuống các mức tương ứng
là 3%, 5% và 7%.
Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ
ngày 1/1/2004 sẽ xoá bỏ hoàn toàn thuế chuyển lợi nhuận. Đây là điểm rất quan
trọng nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các nhà đầu, đồng thời hướng tới mặt
bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
 Về thuế giá trị gia tăng
Đây là loại thuế mới chưa được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1996. Khi Luật Thuế giá trị gia tăng được ban hành, doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các loại máy móc, thiết
bị, vật tư nhập khẩu đồng bộ để tạo tài sản cố định (chỉ được miễn đối với các
loại thiết bị, máy móc, phương tiện chuyên dùng trong nước chưa sản xuất
được). Quy định này thực chất là đánh thuế vào vốn đầu tư của doanh nghiệp,
làm tăng chi phí của doanh nghiệp, trong khi sức hấp dẫn, tính cạnh tranh của
môi trường đầu tư ở Việt Nam đang giảm dần.
Để tháo gỡ những vướng mắc về thuế giá trị gia tăng đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã
sửa đổi theo hướng: cho phép thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải nhập khẩu
đồng bộ (không phụ thuộc vào việc trong nước sản xuất được hay chưa) và vật
tư trong nước chưa sản xuất được đều là đối tượng không thuộc diện chịu thuế
giá trị gia tăng.
2.3.4.3. Chuyển lỗ của doanh nghiệp

45
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cho phép doanh nghiệp liên
doanh được chuyển lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù lỗ
đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo nhưng không quá 5 năm. Quy định
đó chưa thật công bằng đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các bên
tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì vậy, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi)
năm 2000 đã sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng được hưởng ưu tiên như
doanh nghiệp liên doanh là được chuyển lỗ sang năm tiếp theo và được bù khoản
lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không quá 5 năm.
2.3.4.4. Quy định về hàng thay thế hàng nhập khẩu và trả lương bằng
tiền nước ngoài
Một trong các lĩnh vực được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 khuyến
khích đầu tư là sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu (khoản
1 Điều 3). Tuy nhiên, một số quy định trong luật này lại không khuyến khích
việc tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: "Lương và các khoản phụ
cấp khác thu được của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam có
gốc tiền nước ngoài". Quy định này trên thực tế đã ngăn cấm cả việc Xí nghiệp
dùng những khoản tiền Việt Nam mà Xí nghiệp thu được bằng cách tiêu thụ sản
phẩm tại thị trường Việt Nam để trả lương cho người lao động Việt Nam. Điều
27 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 về điều kiện để được miễn, giảm thuế lợi
tức quy định: "Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư, khối lượng hàng
xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư
nước ngoài có thể miễn thuế lợi tức cho xí nghiệp liên doanh trong thời gian tối
đa là hai năm, kể từ năm bắt đầu kinh doanh có lãi và giảm thuế lợi tức trong
một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo"; rõ ràng quy định này cũng không đề cập
đến vấn đề sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa
đổi) năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung Điều 16 và Điều 27 của Luật Đầu tư nước

×