Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Khung pháp luật chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước 5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.07 KB, 15 trang )


61
nước đi sau như nước ta nếu chủ động được trong lộ trình hội nhập, thì sẽ hạn chế
được rủi ro và có cơ hội phát triển nhanh. Chúng ta cần tận dụng tối đa những
thuận lợi, những cơ hội của toàn cầu hóa và hội nhập, đồng thời phải né tránh, hạn
chế những mặt trái, những rủi ro, tiêu cực rất lớn của nó.
Trong bối cảnh của tình hình trong nước và quốc tế như trên, thời gian tới,
Nhà nước ta sẽ phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ
việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tinh, công nghệ sinh học, dầu
khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
– xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh với công nghiệp
hiện đại, tạo thêm việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để chủ động hội nhập có hiệu quả, cần nỗ lực chủ quan rất lớn và phải có
kế hoạch tổng thể tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng lộ trình hợp lý và
chương trình hành động trong từng thời kỳ, phát huy quyền chủ động của các
cấp, các ngành. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi
mỗi quốc gia phải phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước
ngoài nói riêng để tương đồng với các nước ASEAN và các nước khác trong khu
vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây có thể nói là yêu cầu mang tính khách
quan, bởi lẽ nếu ta không phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu
tư nước ngoài nói riêng, thì nước ta rất khó hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Vì những lẽ đó, để công cuộc đổi mới về kinh tế tiếp tục phát triển và thực
hiện được các mục tiêu của chiến lược 10 năm 2001-2010 mà Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IX đã đề ra, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự phát huy nội lực và
nhân tố bên ngoài, trong đó việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài là yêu
cầu mang tính cấp thiết hiện nay.

3.2. Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nước



62
ngoài tại Việt Nam
Nguyên tắc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài là
những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình đổi mới và hoàn thiện pháp
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Có những nguyên tắc chủ yếu sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta về mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất của toàn bộ hoạt động tiếp tục
đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng việc xác định đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng được xác định
trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là: “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy
cao nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc
tế”. Trong chính sách phát triển các thành phần kinh tế, Đảng ta chủ trương phát
triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu,
giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước; phát triển
các hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã
hội.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ
đường lối, chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Đó là việc "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển" Vì vậy, trong quá trình đổi mới, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước
ngoài, phải nghiên cứu, nhận thức đúng hệ thống các quan điểm của Đảng về

phát triển kinh tế, sử dụng nội lực, đồng thời mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để

63
việc hoàn thiện pháp luật đi đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
phát triển của Việt Nam.
Nguyên tắc thứ hai: Hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải phù hợp
với Hiến pháp, đồng thời hoàn thiện một cách đồng bộ các đạo luật khác có liên
quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị
quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Đáng chú ý, Điều
16 Hiến pháp năm 1992 về các thành phần kinh tế đã được bổ sung thêm cụm từ
“kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”, thay cụm từ “kinh tế quốc doanh” bằng cụm
từ “kinh tế nhà nước”, bổ sung cụm từ “tiểu chủ” vào sau cụm từ “kinh tế cá
thể”; thay cụm từ “giải phóng” bằng cụm từ “phát huy” cho phù hợp với thực tế.
Ngoài ra Điều 16 Hiến pháp năm 1992 còn được bổ sung quy định về
hoạt động đầu tư như sau: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá
nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những
ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng
và cạnh tranh theo pháp luật”.
Vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc đặt ra những quy định có
tính chất nền tảng của chế độ Nhà nước, chế độ xã hội, quyền và nghĩa vụ của
công dân, tổ chức bộ máy nhà nước và là cơ sở để xác định toàn bộ hệ thống
pháp luật Việt Nam, cho nên việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này có ảnh
hưởng nhất định tới pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, việc hoàn
thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
Vì pháp luật đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với
các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc hoàn thiện pháp
luật đầu tư cũng phải được tiến hành trên cơ sở hoàn thiện một cách đồng bộ các
đạo luật đó. Nguyên tắc này đòi hỏi không được để các "lỗ hổng" trong pháp luật

đầu tư nước ngoài và yêu cầu đồng bộ trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên
quan đến đầu tư nước ngoài như Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự,

64
Luật Hải quan Điều đó có nghĩa là: bất cứ sự thay đổi trong các văn bản pháp
luật đầu tư nước ngoài, phải đi liền với việc rà soát (và khi cần thiết thì phải sửa
đổi, bổ sung) các đạo luật có liên quan. Ngược lại, khi sửa đổi các đạo luật khác
cũng cần phải lưu ý đến yếu tố đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài,
để việc hoàn thiện đạo luật đó có tính bao trùm mọi đối tượng liên quan và để
bảo đảm những điểm sửa đổi, bổ sung trong pháp luật đầu tư nước ngoài và các
đạo luật liên quan có tính khả thi và đi vào cuộc sống. Nói cách khác, hệ thống
pháp luật đầu tư nước ngoài phải được hoàn thiện một cách đồng bộ để đáp ứng
kịp thời các yêu cầu mà thực tiễn đầu tư đặt ra.
Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm lập pháp về đầu tư nước ngoài.
Nguyên tắc này đặt ra những yêu cầu và bảo đảm tính kế thừa của việc
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Sự kế thừa chỉ có thể
được khẳng định, nếu việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài được
tiến hành trên cơ sở đánh giá một cách cụ thể, có cơ sở về hiệu quả của các quy
phạm pháp luật hiện hành trong pháp luật đầu tư nước ngoài, cũng như trong các
văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài . Sự kế thừa không
chỉ được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu pháp luật đầu tư thực định, mà phải
nghiên cứu cả pháp luật có liên quan đến đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
những thời kỳ trước đây. Sự kế thừa những giá trị pháp lý của pháp luật đầu tư
thực định hay trong thời kỳ trước đây rõ ràng là hết sức cần thiết đối với việc
hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, cũng như việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng cần phải tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm lập pháp về đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài
của các nước trên thế giới, đặc biệt lưu ý các nước có chế độ chính trị, kinh tế,

xã hội gần với nước ta, như Trung Quốc và các nước ASEAN.
Nguyên tắc thứ tư: Chú trọng nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của
môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

65
Đối với Việt Nam, vấn đề thu hút đầu tư nói chung, đầu tư nước ngoài
trong những năm tới có ý nghĩa rất to lớn đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong điều kiện đó, việc tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, có tính cạnh tranh
đang là vấn đề bức xúc. Để nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi
trường đầu tư, phải xây dựng được một cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ về
đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, trong đó việc hoàn thiện pháp
luật đầu tư nước ngoài đóng một vai trò quan trọng. Trong quá trình hoàn thiện
pháp luật đầu tư nước ngoài, phải luôn luôn quán triệt quan điểm này ngay từ khi
xây dựng ý tưởng sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài.
Để nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài,
phải có quan điểm mang tính tổng thể, có tính chiến lược cao; phải có sự nghiên
cứu nghiêm túc môi trường đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực và
trên thế giới, cũng như hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh nó để rút ra
những kết luận cần thiết đối với môi trường đầu tư, pháp luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Làm được điều này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng bị động lâu
nay, chạy theo các nước trong khu vực trong việc nâng cao tính cạnh tranh, tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nguyên tắc thứ năm: Kết hợp mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài với việc
bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.
Đây là nguyên tắc được đặt ra không những đối với đầu tư nước ngoài, mà
còn được đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta nói chung.
Chính vì vậy, nguyên tắc này đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của
Đảng và được khẳng định ngay tại Điều 1 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành:
"Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ

pháp luật của Việt Nam ".
Nguyên tắc này nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với
chính trị, giữa thu hút đầu tư nước ngoài với việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc
gia trong việc hoàn thiện pháp luật đầu tư Trong mối quan hệ này, độc lập, chủ

66
quyền quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ nếu không có sự ổn định
về chính trị, thì không có nhà đầu tư nước ngoài nào đầu tư vào Việt Nam. Mặt
khác, nếu chỉ quan tâm đến thu hút đầu tư nước ngoài mà không chú ý đúng mức
đến độc, lập chủ quyền quốc gia, thì đầu tư nước ngoài cũng không đem lại lợi
ích cho dân tộc. Chúng ta "mở cửa", nhưng không có nghĩa là "mở toang", mà là
“mở cửa” phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và kiểm soát của ta, nhằm tiếp
thu những cái tốt đẹp để phát triển kinh tế và ngăn ngừa những thói hư, tật xấu,
cũng như những mặt trái do việc "mở cửa" mang lại.
Nguyên tắc thứ sáu: Thu hút đầu tư nhưng phải đảm bảo thúc đẩy, kích
thích sự phát triển của sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải phát huy nội lực trên cơ sở sử dụng có hiệu quả
nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. Sự gắn kết giữa nội lực và ngoại lực tạo thành nguồn
lực tổng hợp mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Sự phát triển của sản xuất
trong nước có tính chất quyết định, thu hút đầu tư nước ngoài có tính chất quan
trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của nước ta.
Vì những lẽ đó, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải quán
triệt quan điểm tạo hành lang pháp lý cho việc thu hút đầu tư, nhưng phải kích
thích, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, không chạy theo đầu tư nước
ngoài mà "bóp chết" sản xuất trong nước. Nếu chỉ chú trọng, tuyệt đối hóa việc
thu hút đầu tư nước ngoài, mà không bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện sản xuất
trong nước thì sẽ đi chệch hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta. Do vậy, song song với việc khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư nước
ngoài nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, cần phải chú
trọng bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện sản xuất trong nước, kích thích, thúc đẩy

sản xuất trong nước phát triển.
Nguyên tắc thứ bảy: Đảm bảo tính trong sáng, rõ ràng, minh bạch và công
khai các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài
Xây dựng một hệ thống quy phạm pháp luật về đầu tư rõ ràng, minh bạch
là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, bởi lẽ trong xu thế hội nhập kinh tế quốc

67
tế và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài không chấp nhận
hợp tác với quốc gia có hệ thống pháp luật mập mờ, không rành mạch. Nguyên
tắc này đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật đầu tư, phải được thực hiện theo
hướng: mỗi quy phạm pháp luật đầu tư đều phải dễ hiểu, hiểu theo một nghĩa,
không thể hiểu theo nhiều nghĩa và phải hết sức rành mạch, nhất là đối với các
thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư.
Ngoài ra, các quy định của pháp luật nói chung, về đầu tư nước ngoài nói
riêng sau khi được ban hành cần phải công bố công khai, rộng rãi và kịp thời cho
mọi đối tượng, trên cơ sở đó các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, cũng như
các cán bộ trong các cơ quan nhà nước ở các cấp có thể nắm bắt kịp thời, từ đó
mới có thể quyết định đầu tư và thực hiện một cách chính xác triệt để các quy
định của pháp luật. Lúc đó, các quy định của pháp luật mới thực sự đi vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả.

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định sự cần thiết
phải nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác,
theo kế hoạch đến 2005 sẽ diễn ra Đại hội X của Đảng, đó cũng là thời điểm ta
phải thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc gia nhập, nhất là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định Tự
do, Xúc tiến và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt nam và Nhật Bản và cũng là thời điểm
mà Việt nam dự kiến sẽ tham gia WTO. Vì vậy, dưới góc độ là một sinh viên

đang học tập và nghiên cứu, trong phạm vi hiểu biết của mình tôi xin có dự báo
và kiến nghị một số giải pháp sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành như
sau:
3.3.1. Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài
Để tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài
như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài hiện

68
hành phải được sửa đổi một cách cơ bản thành Luật Khuyến khích đầu tư nước
ngoài, trong đó chỉ quy định những chế định đặc thù cho đầu tư nước ngoài,
những biện pháp khuyến khích và ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Nội dung
Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm các quy định khuyến khích
dành riêng cho đầu tư nước ngoài như mô hình Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước hiện nay. Còn những vấn đề chung khác thì áp dụng như đối với doanh
nghiệp trong nước. Ví dụ: việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài được tiến hành theo quy định của Luật Doanh nghiệp; các
vấn đề về thuế thì theo quy định của các đạo luật về thuế; vấn đề phá sản doanh
nghiệp thì được thực hiện theo Luật Phá sản doanh nghiệp
Như vậy, dự kiến Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài chỉ quy định
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội liên quan đến việc
hưởng chế độ ưu đãi trong đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, về phạm vi điều chỉnh: chỉ áp dụng đối với các chủ thể đạt tiêu
chuẩn được hưởng ưu đãi.
Thứ ba, quy định mở rộng hơn về danh mục lĩnh vực và địa bàn khuyến
khích đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, cần thu hẹp Danh mục hạn chế đầu tư và
Danh mục đầu tư có điều kiện.
Thứ tư, quy định các tiêu chí để hưởng ưu đãi, mức thuế suất ưu đãi; các
trường hợp miễn, giảm về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế
VAT

Thứ năm, quy định tiêu chí để hưởng ưu đãi và mức miễn, giảm tiền thuê
đất.
Thứ sáu, quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước,
thì được hưởng các ưu đãi đặc biệt.
Thứ bảy, quy định việc mở rộng diện các đối tượng được Nhà nước đảm
bảo cân đối ngoại tệ, diện hỗ trợ cân đối ngoại tệ.
Thứ tám, quy định việc bảo lãnh của Chính phủ đối với các dự án BOT,

69
BTO, BT; các dự án xây dựng hạ tầng, các dự án đặc biệt quan trọng.
Thứ chín, quy định về thẩm quyền, thủ tục xét giải quyết cho hưởng ưu đãi
của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương.
Đồng thời, để Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống, cần
sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ các đạo luật có liên quan. Cụ thể là:
- Luật Doanh nghiệp cần bổ sung đối tượng áp dụng bao gồm cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và quy định trình tự, thủ tục thành lập,
hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả việc chia, tách,
sáp nhập, hợp nhất
- Luật Phá sản doanh nghiệp cần bổ sung quy định về một số đặc thù của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, như: việc tính tài sản của doanh nghiệp
khi Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; trường hợp tuyên bố
phá sản doanh nghiệp khi các bên chưa góp đủ vốn pháp định
- Luật Đất đai cần bổ sung quy định về các trường hợp cho thuê đất, giải
phóng mặt bằng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Luật Kinh doanh bất động sản cần quy định những vấn đề liên quan đến
việc kinh doanh bất động sản của các nhà đầu tư nước ngoài.
3.3.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài đối
với từng vấn đề cụ thể:
Bên cạnh giải pháp chung, tổng thể nêu trên, để khuyến khích đầu tư nước
ngoài tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt nam,

chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài đối với
các vấn đề cụ thể sau:
3.3.2.1. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về hình thức và
phương thức đầu tư
Hiện nay, trên thế giới áp dụng rất nhiều hình thức đầu tư khác nhau, như:
Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài (Sheraholder Co.), chi nhánh công ty
nước ngoài để trực tiếp sản xuất (Branch Co.), Công ty hợp danh (Partnership),
Công ty quản lý vốn (Holding Co.), Công ty mẹ - công ty con, Trong khi đó,

70
theo quy định tại Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành, các nhà đầu tư nước
ngoài chỉ được đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức: Hợp đồng kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; Doanh nghiệp liên doanh; Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các phương thức đầu tư là đầu tư vào Khu công
nghiệp, Khu chế xuất; thực hiện các dự án BOT, BTO, BT; Luật Doanh nghiệp
(1999) quy định về các hình thức như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp
danh, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước và các hình thức đầu tư
trong nước theo Luật Doanh nghiệp mới ban hành, đồng thời nhằm mở thêm
kênh mới thu hút đầu tư nước ngoài và tạo cơ hội cho nhà đầu tư linh hoạt lựa
chọn hình thức đầu tư phù hợp cần bổ sung thêm một số hình thức đầu tư sau:
* Hình thức doanh nghiệp hợp danh
Trên thế giới, doanh nghiệp hợp danh là hình thức áp dụng phổ biến trong
một số lĩnh vực dịch vụ như: kiểm toán, kế toán, tư vấn luật, khám chữa bệnh,
thiết kế xây dựng ở Việt Nam, một số dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực
trên đã được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, việc quy định các doanh nghiệp
này phải thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn là không thích
hợp, vì trong công ty trách nhiệm hữu hạn, nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm pháp
lý trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. Trong khi đó, vốn đầu tư của các
dự án loại này không đáng kể; nhà đầu tư hoạt động chủ yếu dựa vào địa vị và

uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm cá nhân cao đối với khách hàng về
dịch vụ do mình cung cấp.
Do đó, để góp phần nâng cao chất lượng một số loại dịch vụ thiết yếu, bảo
đảm lợi ích của người tiêu dùng, cần cho phép thành lập doanh nghiệp hợp danh
có vốn đầu tư nước ngoài giống như quy định chung của Luật Doanh nghiệp
hiện hành. Doanh nghiệp hợp danh có vốn đầu tư nước ngoài này có những đặc
thù chủ yếu là: phải có ít nhất một thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài.
Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
(kể cả tài sản cá nhân) về các nghĩa vụ của doanh nghiệp (trách nhiệm vô hạn).

71
* Chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam để đầu tư, kinh doanh
Việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài để mở rộng hoạt động đầu tư và
thương mại là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu hóa của các công ty
xuyên quốc gia. Trên thế giới, các nước đều xem chi nhánh sản xuất của công ty
nước ngoài là một trong những hình thức đầu tư nước ngoài. ở nước ta, Luật
Thương mại đã cho phép thương nhân nước ngoài có đủ điều kiện được thành
lập Chi nhánh thương mại theo mục đích, phạm vi và thời hạn quy định trong
Giấy phép (như mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, gia công hàng
hóa, giám định hàng hóa, đại lý, quảng cáo, giao nhận hàng hóa ).
Để mở rộng hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là tranh thủ tiềm lực
của các công ty xuyên quốc gia, cần bổ sung các quy định cho phép thành lập chi
nhánh của Công ty nước ngoài tại Việt Nam với tư cách là đơn vị phụ thuộc của
công ty nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là không chỉ dừng lại ở việc cho phép thành lập chi nhánh thương mại theo
Luật thương mại đã nêu ở trên, mà cần phải mở rộng cho cả chi nhánh sản xuất.
* Công ty quản lý vốn (Holding Company)
Việc thành lập công ty quản lý vốn hoạt động đa mục tiêu được áp dụng
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Thời gian qua, ở nước ta đã có một số tập
đoàn kinh tế lớn của thế giới cùng lúc được phép triển khai nhiều dự án đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam hiện hành, mỗi doanh nghiệp có bộ máy điều hành riêng, hoạt động
kinh doanh độc lập. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh
tranh, giảm những chi phí không cần thiết mỗi tập đoàn kinh tế lớn đều có
chiến lược phát triển chung. Điều phối hoạt động của các công ty con của mình
theo chiến lược đó, một số tập đoàn muốn thiết lập các công ty quản lý đầu tư.
Đây là các công ty có nguồn vốn, có khả năng tài chính mạnh (có thể đã và đang
chiếm một phần vốn đáng kể trong công ty con) có quyền điều chỉnh hoạt động
của các công ty con này theo kế hoạch chung của cả tập đoàn. Ngược lại, các
công ty con cũng có thể góp vốn và nắm một số cổ phần của công ty quản lý để

72
có thể phối hợp hoạt động với tập đoàn cũng như với các công ty khác.
Thực tế trong thời gian qua, đã xuất hiện nhu cầu các nhà đầu tư muốn
thành lập Công ty quản lý vốn đầu tư, với mục tiêu quản lý vốn đầu tư của Công
ty mẹ đang đầu tư những dự án khác nhau ở Việt Nam. Nhu cầu quản lý vốn đầu
tư ở đây có nghĩa là: công ty này có quyền thay mặt công ty mẹ để quyết định
mở rộng hoặc thu hẹp quy mô của một dự án cụ thể đang triển khai (dự án 100%
vốn hay liên doanh mà công ty mẹ có đầu tư), hoặc quyết định đầu tư một dự án
mới Hoạt động của Công ty quản lý vốn đầu tư này, chỉ giới hạn trong phạm vi
quản lý vốn của công ty mẹ trong các dự án đầu tư tại Việt Nam mà công ty mẹ
đầu tư 100% vốn hoặc ở các dự án liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh
mà công ty mẹ có góp vốn.
Các hoạt động cụ thể của Công ty quản lý vốn là:
- Thay mặt công ty mẹ quyết định mở rộng hoặc thu hẹp quy mô của dự án
100% vốn đầu tư của công ty mẹ đang triển khai tại Việt Nam;
- Thay mặt công ty mẹ trao đổi với các đối tác khác trong liên doanh hoặc
trong hợp đồng hợp tác kinh doanh để đưa ra những quyết định liên quan đến
hoạt động của dự án; cũng có thể thông qua đại diện của mình trong Hội đồng
quản trị để tác động đến hoạt động của doanh nghiệp liên doanh;

- Đầu tư thêm vốn cho dự án mà công ty mẹ đang đầu tư 100% vốn tại
Việt Nam; hoặc đầu tư thêm cho phần góp vốn của công ty mẹ trong các dự án
liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Việt Nam, nhằm tăng vốn pháp
định hoặc bù lỗ; hoặc đầu tư dự án mới;
- Tiến hành các hoạt động tìm hiểu thị trường, xúc tiến đầu tư nhằm phục
vụ cho hoạt động đầu tư của công ty mẹ cũng như hỗ trợ các công ty mà công ty
mẹ có đầu tư tại Việt Nam
- Hỗ trợ cho các dự án của công ty mẹ đầu tư tại Việt Nam làm các thủ tục
về đầu tư, như: thủ tục về xuất nhập khẩu, xây dựng, môi trường, bao tiêu sản
phẩm,
3.3.2.2. Hoàn thiện các quy định liên quan đến đất đai trong các doanh

73
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
* Giảm giá tiền thuê đất đối với dự án đầu tư nước ngoài ngang bằng với
giá thuê đất của các doanh nghiệp trong nước
Trước đây, giá thuê đất đối với các dự án đầu tư trong nước bằng khoảng
60% so với giá thuê đất áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài; sau khi có
Quyết định 179/1998/QĐ-BTC của Bộ tài chính thì giá này bằng 70%-80% và
đến nay khi có Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ Tài
chính thay thế Quyết định 179/1998/QĐ-BTC thì bằng khoảng 80%-90% giá
thuê đất của các dự án đầu tư nước ngoài. Mức chênh lệch về giá thuê đất này là
không cần thiết và cần được xóa bỏ để tận dụng những lợi thế của Việt Nam, cạnh
tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Cần hướng dẫn trường hợp thuê đất đến 70 năm
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã cho phép thời hạn hoạt
động của dự án thông thường tối đa là 50 năm. Ngoài ra, căn cứ vào quy định
của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định thời hạn dài hơn đối với
từng dự án, nhưng tối đa không quá 70 năm. Tuy vừa qua Luật Đất đai được
Quốc hội thông qua, trong đó cũng quy định cho phép thuê đất đến 70 năm,

nhưng chưa cụ thể. Do đó, xin kiến nghị cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn
về vấn đề này.
* Cần ban hành sớm Luật Kinh doanh bất động sản
Cần nghiên cứu, xem xét việc cho các nhà đầu tư nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được tham gia đầu tư vào các hoạt động của thị
trường bất động sản nhằm khai thác tiềm năng từ đất và thu hút vốn vào Việt
Nam. Cần xây dựng cơ chế để doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xây
dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới.
* Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thế chấp giá
trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng ở nước
ngoài
Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, doanh nghiệp có

74
vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa
đổi) năm 2000 đã bổ sung các quy định mở rộng thêm một bước là cho phép thế
chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ở
Việt Nam (Điều 46 khoản 3). Điều này có nghĩa là cho phép doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất tại các tổ chức tín dụng Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài được phép
hoạt động tại Việt Nam.
Tuy nhiên, quy định như vậy vẫn chưa thật sự thỏa mãn nhu cầu vay vốn
của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhiều khi các tổ chức tín dụng được phép hoạt
động ở Việt Nam, kể cả tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, do hạn chế
hoặc bị khống chế về vốn, nên mức cho vay cũng chỉ có hạn, nên nhiều khi
không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Trong khi các tổ chức tín
dụng ở nước ngoài có khi đã là bạn hàng lâu năm của đối tác nước ngoài có dự
án đầu tư ở Việt Nam, có thể cho vay một số vốn lớn, nhưng đặt điều kiện phải
thế chấp dự án đầu tư tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài đó, tức là thế chấp cả

quyền sử dụng đất. Do vậy, việc mở rộng hơn nữa khả năng thế chấp giá trị
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài là
cần thiết hiện nay.
3.3.2.3. Sửa đổi một số quy định về thuế
* Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam
Hiện nay, các quy định về thuế thu nhập của người Việt Nam là yếu tố cản
trở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng người Việt Nam ở những vị
trí quản lý hoặc làm việc có trình độ kỹ thuật cao. Theo quy định hiện hành, với
thuế suất lũy tiến từng phần tối đa là 60% và phụ thu 30% đối với phần thu nhập
sau thuế lớn hơn 8 triệu đồng (mức thu lên đến 72% đối với thu nhập sau 11, 75
triệu đồng), chi phí để thuê lao động Việt Nam ở các vị trí này sẽ trở nên quá
lớn, có thể thuê được chuyên gia nước ngoài.
Theo biểu thuế thu nhập cao hiện hành, ta dễ dàng nhận thấy: cùng với

75
một công việc đòi hỏi trình độ cao như nhau, trả lương cao như nhau, thì người
lao động Việt Nam bị khấu trừ thuế thu nhập cá nhân cao hơn nhiều so với người
lao động nước ngoài. Điều đó đã không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao
động có trình độ cao của Việt Nam. Vì vậy, cần nâng mức khởi điểm đánh thuế
thu nhập cao đối với người Việt Nam, và hạ mức thuế suất lũy tiến đối với người
Việt Nam, để những người có trình độ của Việt Nam khi làm việc cho doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử tương xứng; đồng thời doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không phải trả lương quá cao cho người
lao động, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
3.3.2.4. Quản lý ngoại hối
* Quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất
Nghị định 36/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1997 về Khu công nghiệp, khu chế
xuất, quy định: việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất được thực hiện theo
quy định chung về quản lý ngoại hối. Nhưng Điều 1 khoản 3 Nghị định
63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối lại quy định: vấn đề quản

lý ngoại hối trong Khu chế xuất thì theo quy định riêng. Nhưng cho tới nay vẫn
chưa có quy định riêng nào cả, việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất hiện
còn bị bỏ trống, không có căn cứ pháp lý để quản lý. Do đó, cần nhanh chóng
ban hành quy định điều chỉnh việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất.
* Cần quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền thanh
toán bằng ngoại tệ đối với trường hợp xuất khẩu tại chỗ
Xuất nhập khẩu hàng hóa là một hoạt động thông thường trong kinh doanh
của một doanh nghiệp. Việc thanh toán bằng ngoại tệ cho hoạt động xuất nhập
khẩu là đương nhiên. Xuất khẩu tại chỗ cũng là một hoạt động thương mại trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu nói trên. Do đó, việc các doanh nghiệp thanh toán cho
hoạt động xuất khẩu tại chỗ bằng ngoại tệ cũng là lẽ đương nhiên. Điều 58 Nghị
định 24 cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu tại chỗ.
Theo đó Mục 6 khoản 1 Thông tư số 22/2000/TT-BTM ngày 15/12/2000 của Bộ
Thương mại hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu đối với đầu tư nước ngoài,

×