Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.62 KB, 4 trang )
CÓ NÊN ĐO MỨC RENIN
HUYẾT TƯƠNG TRƯỚC KHI
ĐIỀU TRỊ HUYẾT ÁP?
Chúng tôi đã trình bày trước đây là thuốc tác dụng lên trục Renin-
Angiotensin-Aldosterone viết tắt là RAAS được nhắm vào nhiều nhất để
sáng chế thuốc chống cao huyết áp. Để ngăn không cho angiotensin II gây
co mạch, người ta có thể dùng thuốc ức chế renin (Aliskiren), hoặc thuốc
chống men chuyển (ACEI) hay thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB).
Một nghiên cứu của đại học y khoa Stanford đăng trên Archive of
Internal Medicine số 08.09.2010 cho biết có khuynh hướng giảm dùng thuốc
chống cao huyết áp trong điều trị suy tim. Nguyên do giảm dùng thuốc có
nhiều phần là thấy thuốc giảm công hiệu hay không đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Chúng ta biết là người Mỹ gốc Phi châu không đáp ứng thuốc với
thuốc chống men chuyển vì họ có mức renin huyết tương thấp. Khi dùng
thuốc chống men chuyển hay thuốc chẹn thụ thể angiotensin, sẽ có phản xạ
tăng họat động của renin huyết tương (PRA: Plasma Renin Activity), và
renin có thể qua một đường chuyển hóa khác làm tăng angiotensin II khiến
huyết áp tăng cao hơn khi chưa dùng thuốc chống men chuyển.
Theo một nghiên cứu của nhóm bác sĩ của đại học y khoa Weill
Cornell ở New York trong thập niên 1970, có 4 lọai cao huyết áp được định
nghĩa theo sinh lý bệnh: cao huyết áp renin thấp, chiếm khỏang 1/3 số người
cao huyết áp, cao huyết áp mức renin trung bình hay cao, đại diện cho hơn
1/3 người cao huyết áp,cao huyết áp đề kháng phải cần hơn 3 thuốc cao
huyết áp, và cao huyết áp thứ cấp xảy ra do bệnh mạch máu thận và nội tiết
tố.
Những người cao huyết áp renin thấp thường đáp ứng thuận lợi với
thuốc làm giảm nước và Natri như thuốc lợi tiểu thiazide, trong khi những
người cao huyết áp với mức renin trung bình/cao đáp ứng rất tốt với các
thuốc như thuốc ức chế men chuyển (ACE) hay thuốc chẹn thụ thể