Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hậu quả do viêm khớp dạng thấp doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.54 KB, 5 trang )

Hậu quả do viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là loại viêm nhiều khớp
mạn tính, có thể gặp ở nam và nữ nhưng nữ giới thường
mắc bệnh này chiếm tỷ lệ cao hơn (tỷ lệ giữa nam và nữ là
1/3). Bệnh VKDT là một bệnh mạn tính kéo dài và có thể
để lại nhiều hậu quả xấu cho người bệnh. Bệnh chữa khỏi
hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố liên quan như
phải chẩn đoán sớm, đúng, điều trị đúng phác đồ và người
bệnh phải kiên trì điều trị.
Đi tìm nguyên nhân VKDT
Cho đến nay nguyên nhân gây nên bệnh VKDT chưa được
làm sáng tỏ, tuy vậy có nhiều giả thuyết cho rằng VKDT là
bệnh tự miễn bởi họ có những bằng chứng cho thấy rằng
vai trò quan trọng của các đáp ứng miễn dịch (miễn dịch
dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào), của các
cytokines, các lympho T, yếu tố cơ địa, yếu tố di truyền (ở
một tỷ lệ nhất định mẹ truyền cho con gái)… Do chưa tìm
thấy nguyên nhân gây VKDT một cách chắc chắn cho nên
việc điều trị cũng gặp không ít khó khăn. Bệnh VKDT
thường gặp ở nữ giới chiếm tỷ lệ khoảng 75%, mọi lứa tuổi
có thể mắc bệnh VKDT nhưng tuổi mắc bệnh cao nhất
thường từ 30-60 tuổi. Các khớp thường bị viêm sớm nhất
và hay gặp nhất là bàn tay, cổ tay rồi đến khớp bàn chân,
khớp ngón chân, khớp bàn - ngón tay, khớp bàn - ngón
chân. Các khớp thường bị sưng, đau kéo dài và đối xứng
nhau. Bên cạnh các triệu chứng lâm sàng thì cũng rất cần
tiến hành các chỉ số của cận lâm sàng như xác định tốc độ
máu lắng, xác định tỷ lệ CRP (C- Reactive Protein), yếu tố
dạng thấp RF (Rheumatoid Factor), chụp Xquang khớp bị
đau…


Khớp xương bàn tay bình thường (trái) v
à
viêm khớp trên phim Xquang.
Hậu quả của VKDT
Hậu quả của bệnh VKDT rất khác nhau tùy thuộc vào
nhiều yếu tố từ khâu chẩn đoán sớm, điều trị đúng, chế độ
dinh dưỡng, tập luyện… Người ta thấy rằng hậu quả của
VKDT có thể để lại di chứng biến dạng khớp bị viêm, co
quắp các ngón tay, hạn chế chức năng vận động, teo cơ và
có thể bị tàn phế (khoảng 10 - 15%). Một số yếu tố khác có
thể làm ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh như người
bệnh VKDT có kèm bệnh tim mạch, mắc thêm bệnh nhiễm
khuẩn cấp tính. Đối với VKDT cũng cần chẩn đoán phân
biệt với một số bệnh có triệu chứng hơi giống VKDT như
đau nhức xương hoặc mỏi cơ, mỏi khớp, viêm cột sống
dính khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vẩy nến là
những bệnh thuộc về khớp nhưng phản ứng huyết thanh về
yếu tố RF âm tính, viêm khớp không đối xứng ở một hoặc
nhiều khớp, các bệnh này thường gặp ở nam giới. Hoặc
một số bệnh có liên quan đến khớp nhưng không phải
VKDT như lupus ban đỏ hệ thống, thoái hoá khớp hoặc
viêm khớp do liên cầu nhóm A (S.pyogenes) gây thấp tim
tiến triển…
Khi nghi ngờ mắc bệnh VKDT hoặc đã mắc bệnh
VKDT thì nên làm gì?
Bệnh VKDT là bệnh mạn tính, kéo dài, để lại nhiều hậu
quả xấu mà nguyên nhân chưa được xác định một cách
chắc chắn, do vậy khi nghi ngờ bị bệnh VKDT cần đi
khám ngay, tốt nhất là được khám bởi bác sĩ chuyên khoa
xương khớp. Khi đã bị bệnh VKDT cần xác định là điều trị

sớm, tích cực, liên tục và lâu dài. Người bệnh không nên tự
mua thuốc điều trị, làm như vậy không những bệnh không
khỏi mà đôi khi còn nặng hơn. Không được tiêm bất cứ loại
thuốc nào vào vùng đau của khớp khi chưa có chỉ định của
bác sĩ chuyên khoa. Mọi người bệnh VKDT nên có chế độ
sinh hoạt hợp lý và rèn luyện cơ thể đều đặn nhằm tránh
biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ. Hằng tháng nên đi
khám bệnh theo định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức
khoẻ của mình thuận lợi hơn, nếu thấy cần kết hợp điều trị
giữa nội khoa, ngoại khoa hoặc lý liệu pháp thì bác sĩ sẽ tư
vấn kịp thời cho người bệnh biết. VKDT là một trong
những bệnh cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc,
người bệnh và gia đình bệnh nhân thì hiệu quả điều trị sẽ
được tăng lên.
Tiêu chu
ẩn để chẩn đoán có phải VKDT hay
không: cứng khớp buổi sáng; viêm khớp, s
ưng
phần mềm vùng kh
ớp ở ít nhất 3 khớp trong số
các khớp (khớp ngón gần bàn tay, khớp bàn -

ngón tay, kh
ớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối,
khớp cổ chân, khớp bàn -
ngón chân); viêm
đau kh
ớp đối xứng; tăng nồng độ yếu tố dạng
thấp RF trong huyết thanh; tr
ên Xquang có

hình ảnh biến đổi của xương (mất vôi, h
ình
dải hoặc xói mòn hoặc khuyết xương ở b
àn
tay, bàn chân ho
ặc hẹp khe khớp hoặc dính
khớp) và có nốt th
ấp xuất hiện. Chẩn đoán
xác định khi có ≥ 4 tiêu chuẩn.
PGS.TS.TTƯT.Bùi Khắc Hậu

×