Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hiểm họa do nghẽn mạch phổ ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.71 KB, 6 trang )

Hiểm họa do nghẽn mạch phổi
Động mạch phổi bị tắc một phần hay hoàn toàn của một
trong các nhánh của nó, hay gặp nhất là do một cục
máu đông gây nên gọi là nghẽn mạch phổi. Bệnh
thường xảy ra nhưng chẩn đoán vẫn khó, do biểu hiện
đa dạng và do tính chất không đặc hiệu của các triệu
chứng. Nếu không điều trị, tỷ lệ tử vong tới 40%.
Nguồn gốc gây nghẽn mạch phổi là gì ?
Nghẽn mạch phổi xảy ra khi có một cục máu đông di
chuyển theo sự lưu thông của máu trong cơ thể, rồi ngưng
lại ở một động mạch phổi và làm nghẽn mạch. Có khi có
nhiều cục máu đông đồng thời làm nghẽn nhiều điểm của
nhiều mạch máu khác nhau ở phổi. Mức độ nghẽn mạch
phổi rất khác nhau, từ nhẹ tới nặng. Có những trường hợp
người bệnh không hề nhận thấy, nhưng lại có trường hợp
gây đột tử cho bệnh nhân. Theo các nghiên cứu, trên 90%
trường hợp do các cục máu đông ở các tĩnh mạch sâu chi
dưới gây nghẽn mạch phổi. Chủ yếu các cục huyết khối
xuất phát từ bắp chân, trong đó khoảng 80% các cục máu
đông này sẽ tự tan biến mà không gây biến chứng làm
nghẽn mạch phổi, nhưng 20% cục máu đông còn lại có thể
di chuyển đến các tĩnh mạch chậu đùi, rồi bị vỡ nhỏ di
chuyển lên tĩnh mạch chủ dưới và sau cùng lên phổi. Người
ta nhận thấy, 1/3 - 1/2 số bệnh nhân bị huyết khối tĩnh
mạch sâu đùi chậu có biểu hiện
nghẽn mạch phổi.
Nhóm người có nguy cơ cao mắc
bệnh nghẽn mạch phổi là: phụ nữ
có tiền sử đẻ khó hoặc vừa mới trải
qua phẫu thuật phụ khoa; dịch ối
do biến chứng thai nghén, khi đặt


catheter tĩnh mạch trung tâm,
người sử dụng ma túy bằng đường
tĩnh mạch; trên 1/3 bệnh nhân
nghẽn mạch phổi được xác nhận có
huyết khối tĩnh mạch sâu bắp chân; người béo phì, người
cao tuổi, người bị giãn tĩnh mạch hoặc đã có lần bị nghẽn
mạch phổi (rất dễ bị tái phát); người vừa bị gãy chân, phải
bó bột.
Dấu hiệu nghẽn mạch phổi như thế nào?

Huy
ết khối gây nghẽn
mạch phổi.
Các biểu hiện chủ yếu của nghẽn mạch phổi là: đau ngực
và khó thở gặp trong hơn 80% các trường hợp. Nhóm ba
triệu chứng đau ngực, khó thở và ho ra máu thì thấy ở 15%
số người bệnh. Lo âu xảy ra ở 60% bệnh nhân. Bệnh nhân
bị xâm xoàng (lipothymie) hoặc ngất xỉu có thể là triệu
chứng khởi đầu. Tuy nhiên, các dấu hiệu này có giá trị khi
kết hợp với các trường hợp: tiền căn huyết khối tĩnh mạch
chi dưới, vùng chậu; mới can thiệp ngoại khoa, sản phụ
khoa, bệnh tim, ung thư, nằm liệt giường, nhiễm khuẩn…
Người trẻ với tiền sử cá nhân và gia đình có những tai biến
huyết khối, nghẽn mạch tái diễn, biến dị gen mã hóa facteur
V de Leiden
Tuy viêm tĩnh mạch chi dưới là nguyên nhân của 90% các
trường hợp nghẽn mạch phổi, nhưng chỉ tìm thấy khoảng
trên 30% trường hợp.
Thể nhẹ, bệnh nhân có biểu hiện tim nhịp nhanh, nhịp thở
nhanh, sốt muộn, xanh tái nhẹ là những dấu hiệu thường

gặp và tương phản với dấu hiệu thăm khám phế mạc, phổi
bình thường.
Thể nặng, các triệu chứng học có thể trầm trọng, bệnh nhân
bị suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính: nhịp thở nhanh,
xanh tái, cánh mũi phập phồng, mạch yếu và nhanh, sụt
huyết áp, lạnh các đầu chi, vã mồ hôi, thiểu hoặc vô niệu,
rối loạn tri giác. Tim nhịp nhanh, tiếng vang của B2 phổi,
tiếng ngựa phi, gan to đau, phản hồi gan - tĩnh mạch cổ
dương tính.
Thể bệnh không điển hình giả động mạch vành hay giả
viêm màng ngoài tim, thể nhẹ, nhất là ở người bị bệnh tim
hay suy hô hấp cũng thường gặp.
Xử trí và điều trị
Nếu bệnh nhân hoặc người nhà thấy có những dấu hiệu
nghi ngờ bị nghẽn mạch phổi cần gọi ngay xe cấp cứu.
Trong khi chờ đợi xe cấp cứu, người bệnh phải nằm im,
tránh cử động chân hoặc ngồi dậy, vì như thế có thể gây
nghẽn mạch ở các điểm khác nữa. Nếu có điều kiện (bác sĩ
đến nhà) thì tại nhà bệnh nhân cần được cho thở ôxy, làm
điện tâm đồ, thuốc giảm đau, tiêm tức thời héparine bằng
đường tĩnh mạch khi có chẩn đoán gần như chắc chắn. Vận
chuyển bệnh nhân đến bệnh viện bằng xe cứu thương để
đảm bảo hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn. Bệnh nhân phải nhập
viện để được theo dõi bệnh. Cần chụp Xquang phổi và các
động mạch phổi. Trường hợp nặng, bệnh nhân cần phải thở
ôxy nguyên chất, uống thuốc làm tan những cục máu đông.
Trường hợp nhẹ, bệnh nhân vẫn cần phải nằm lại bệnh viện
để chụp phổi và các động mạch, làm điện tâm đồ, siêu âm
có thể phát hiện được cục máu đông được hình thành ở
chân nào và đã gây ra tắc nghẽn từ đâu. Tiêm thuốc chống

đông máu héparine trong vài ngày sẽ làm cho cục máu
đông trong máu bị tan và máu lại lưu thông trong các động
mạch phổi. Siêu âm có thể giúp bác sĩ xác định nghẽn mạch
đã hết. Tuy vậy, bệnh nhân vẫn cần phải uống thuốc chống
đông máu (kháng vitamin K) ít nhất là 6 tháng. Sau khi hết
nghẽn mạch, bệnh nhân vẫn cần được xét nghiệm máu để
tìm nguyên nhân gây nghẽn mạch phổi. Nếu có biểu hiện
bất thường ở máu do di truyền, bệnh nhân cần phải uống
thuốc đề phòng bệnh trong thời gian lâu dài. Nghẽn mạch
phổi có thể do nguyên nhân từ một căn bệnh như thiếu
hồng huyết cầu, bệnh ung thư… Nếu đã dùng thuốc chống
đông máu mà vẫn bị nghẽn mạch phổi, có thể phải phẫu
thuật để đặt thiết bị lọc vào tĩnh mạch chủ bụng của bệnh
nhân, qua đường tĩnh mạch ở cánh tay, ở cổ hoặc ở nếp
háng. Ở tuyến điều trị cao, người ta có thể sử dụng các kỹ
thuật hiện đại như điện tâm đồ liên tục, siêu âm tim, khí
huyết động mạch, chụp xạ đồ phổi, thông tim…
ThS. Trần Quốc An

×