Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nhân giống Trai ngọc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.29 KB, 10 trang )

Nhân giống Trai ngọc
Các loài Trai ngọc thuộc họ Pteriidae là các loài có thể tạo
ra ngọc Trai quý giá như Trai ngọc môi vàng (Pinctada
maxima), Trai ngọc môi đen (Pinctada margaritifera), Trai
mã thị (Pinctada martensii).







H×nh 18. H×nh th¸i ngoµi cña Trai ngäc








Hình 17. Hình thái và cấu tạo của Trai ngọc
Trai có vỏ trái và vỏ phải không bằng nhau, vỏ phải
thường phồng hơn vỏ trái. Hai phía trước sau đỉnh vỏ
thường có hai tai, tai sau to hơn tai trước. Cạnh vỏ có lỗ tơ
chân. Mặt vỏ có nhiều tấm vảy, màu vàng nâu (Trai ngọc
môi vàng), màu nâu đen (Trai ngọc môi đen). Mặt trong vỏ,
ở chính giữa có một vết cơ khép vỏ, vết màng áo đơn giản.
Màu sắc lớp xà cừ mặt trong vỏ khác nhau ở các loài. Trai
ngọc môi vàng có màu óng ánh kim loại bạc, mép vỏ óng
ánh vàng; Trai ngọc môi đen óng ánh màu nâu đậm, còn


Trai mã nhị mặt trong vỏ láng, màu trắng, óng ánh kim loại
bạc. Kích thước các loài rất khác nhau. Trai ngọc môi vàng
là loài có kích thước lớn (lớn nhất có thể đạt 30 cm). Trai
ngọc môi đen có kích thước khoảng 140 mm chiều dài và
40 mm chiều rộng. Trai mã nhị là loài có kích thước nhỏ
(trung bình dài 60, cao 70 và rộng 20 mm).
Trai ngọc Pinctada martensii Dunker phân bố ở Nhật
Bản, Nam Ấn Độ, Quảng Đông (Trung Quốc). Ở Việt
Nam, Trai phân bố ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá,
Bình Thuận, Khánh Hoà, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Côn Đảo, Phú Quốc. Trai sống ở vùng dưới
triều, các eo vịnh vùng biển rộng, độ sâu khoảng 15 - 20 m
nơi có độ muối khoảng 25 - 30‰, chất đáy là cát, sỏi pha
vỏ động vật thân mềm .
Trai ngọc môi vàng Pinctada maxima phân bố ở Tây
Bắc úc, Indonesia, Phlippines, Vịnh Thái Lan, Ấn Độ, Đài
Loan. Ở Việt Nam, Trai ngọc môi vàng có ở đảo Bạch
Long Vĩ, Phú Quý, Phú Quốc. Chúng sống ở độ sâu 25 - 35
m, nơi có đáy sỏi, cát.
Trai ngọc môi đen Pinctada margaritifera phân bố ở
đông Thái Bình Dương, Panama, Mexico, Xu Đăng. Ở
nước ta có ở Thanh Hoá, Sông Cầu (Phú Yên), Phan Thiết
(Bình Thuận), Nha Trang và Cam Ranh (Khánh Hoà).
Chúng sống ở độ sâu khoảng 50 - 60 m, nơi có nồng độ
muối 30‰.
Sự sinh trưỏng của Trai cũng tuân theo quy luật sinh
trưởng chung của các loài hai mảnh vỏ khác, nghĩa là tốc
độ sinh trưởng giảm dần theo thời gian. Năm đầu lớn
nhanh, năm thứ hai, thứ ba chậm dần đến năm thứ tư thì
giảm hẳn. Sự phát triển của vỏ cũng biểu hiện rõ rệt quan

hệ với tuổi. Năm thứ hai lớp lăng trụ được tiết ra tương đối
nhanh, đến năm thứ tư thì Hầu như giảm hẳn. Còn lớp xà
cừ năm thứ 2, 3 được tiết ra tương đối nhanh (khi nuôi Trai
để lấy ngọc thì nên dùng loại Trai này). Tuổi thọ của Trai
có thể tới 15 năm nhưng rất ít thấy, thường là 11 đến 12
năm.
Trai có đực cái riêng rẽ nhưng cũng có hiện tượng
biến tính. Con đực có xu hướng thành thục sớm hơn nhưng
tỷ lệ con cái thường nhiều hơn con đực. Tuổi thành thục
của Trai thường là 1 năm, phân biệt đực cái bằng màu sắc
của TSD, vào mùa sinh sản TSD của con đực màu trắng,
của con cái màu hơi vàng. Mùa sinh sản vào khoảng tháng
5 đến tháng 10, trong đó mạnh nhất vào tháng 7 đến tháng
8. Khi đẻ nhiệt độ nước biến đổi trong phạm vi 25 - 32
o
C.
Quá trình phát triển phôi và ấu trùng: Trứng sau khi
thụ tinh co lại thành hình tròn, đường kính khoảng 45m,
và có hai màng trứng rất rõ rệt. Sự phân cắt cũng giống như
Hầu sông: Sau khi cực thể thứ nhất, thứ hai xuất hiện thì
cực diệp mọc ra, bắt đầu phân cắt, trải qua các giai đoạn
phôi tang, phôi nang, đến giai đoạn ấu trùng bánh xe rồi
phát triển thành ấu trùng đĩa bơi. Giai đoạn đầu của ấu
trùng đĩa bơi, vỏ cao 55 - 65m, dài 70 - 79m. Sau khi
phôi phát dục đến giai đoạn ấu trùng tuyến nề thẳng thì
trong vài giờ hình thành ống tiêu hoá đơn giản và ấu trùng
bắt đầu dựa vào đĩa bơi để vận động và bắt mồi. Nếu cá thể
phát triển nhanh thì trong 7 ngày phần nề sẽ dần dần lồi lên,
và từ hình chữ D biến thành hình bầu dục. Lúc đó hình
dạng 2 vỏ cũng thay đổi, từ đó về sau phát triển chậm. Nếu

phát triển tốt thì 17 ngày sau ấu trùng đã đạt đến giai đoạn
biến thái và đã có thể dùng chân lúc đó đã phát triển và bắt
đầu bám, vì ấu trùng có tính hướng quang âm, nên khi bám
thường tiết ra 3 - 4 rễ tơ chân để bám vào các khe tối trên
vật bám.
vào bể ương cần xử lý để tránh làm xấu môi trường trong
bể ương. Phương pháp tiên tiến nhất hiện nay là dùng bột
vỏ điệp và Epinepherie (hoạt chất sinh học gây ngừng tiết
chất dính ở ấu trùng). Các khay nhựa đáy được bưng kín
bằng lưới thực vật phù du (200 - 250 m). Bột vỏ điệp rắc
đều trên đáy khay sau đó đưa ấu trùng hầu vào nuôi trong
các khay, cho đến khi thành con giống cỡ 1 – 2mm. Chế độ
thay nước, cho ăn được các máy bơm cỡ nhỏ bơm vào khay
nuôi thường xuyên.












Hình 32. Mật độ ấu trùng Hầu bám
trên tấm nhựa PVC





b) Ấu trùng của các loài sống vùi đáy (Sò, Nghêu, Ngao):
Dấu hiệu phát hiện thời điểm biến thái chuyển giai
đoạn sống đáy là khi xuất hiện điểm mắt (kích thước >180
m). Lúc này cần tạo nền đáy cho ấu trùng. Nền đáy thích
hợp cho Sò Huyết là bùn mềm, Ngao, Nghêu là cát mịn.
Chất đáy được ngâm rửa kỹ để hạn chế mầm bệnh, địch hại
trước khi đưa vào bể ương. Lọc chuyển ấu trùng điểm mắt
sang bể ương khi đã cho đáy và cấp đủ nước.






Hình 33. Hệ thống bể ương nuôi ấu trùng Spat của Điệp
Argopecten gibbus
Hình 31. Chuẩn bị vật bám cho ấu trùng Hầu
Spat bám chùm


c) Nhu cầu dinh dưỡng và khẩu phần ăn của ấu trùng
Spat
- Thành phần loài và khẩu phần thức ăn: Ấu trùng
Spat ở giai đoạn đầu (1 tuần sau khi biến thái) sử dụng thức
ăn tương tự như ấu trùng nổi. Khi kích thước ấu trùng lớn
hơn, thức ăn phù hợp là tảo Tetraselmis spp. và các loài tảo
silic như Chaetoceros mueleri, Thalassiosira sp. Và
Skeletonema costatum. Các loại thức ăn chứa nhiều hàm

lượng acid béo không no mạch dài (HUFA) như DHA
(20:6n3) trở nên không quan trọng đối với sự phát triển của
ấu trùng Spat. Một khẩu phần ăn chủ yếu lúc này bao gồm
50:50 Tetraselmis sp. và một trong các loài tảo silic kể trên.
Cũng có thể sử dụng tảo khô trong giai đoạn này.
- Phương pháp tính toán lượng thức ăn cho ấu trùng
Spat: Lượng thức ăn sử dụng phụ thuộc vào sinh khối của
ấu trùng Spat được nuôi ở hệ thống nào, upwelling hay
downwelling hoặc hệ thống nước không chảy. Ấu trùng
Spat của hầu hết các loài hai mảnh vỏ yêu cầu một lượng
thức ăn/ đơn vị sinh khối ấu trùng là giống nhau mặc dù ấu
trùng Ngao, Nghêu có thể sinh trưởng chậm hơn ấu trùng
Hầu thậm chí cả khi đươc nuôi trong điều kiện tốt nhất có
thể. Tỷ lệ thức ăn là trọng lượng tảo khô yêu cầu được tính
toán theo công thức sau:
F=(SxR)/7
Trong đó, F là trọng lượng khô của tảo/ngày (mg); R
là tỷ lệ trọng lượng khô của tảo/mg trọng lượng tươi của ấu
trùng Spat/tuần và S là trọng lượng tươi của ấu trùng Spat
(mg) ở đầu mỗi tuần.
Ví dụ:
Giả sử:Trọng lượng tươi của ấu trùng Spat đầu mỗi
tuần là: 600g (600.000 mg); Tỷ lệ trọng lượng khô của
tảo/trọng lượng tươi của ấu trùng Spat/tuần là 0,4; Khẩu
phần ăn: Tảo Tetraselmis suecica với mật độ tế bào thu
hoạch là 1.500 tb/

L (1 triệu tế bào tảo Tetraselmis suecica
nặng 0,2 mg)
Tính toán lượng thức ăn:

F=(600.000x0,4)/7=34.286 mg
Và thể tích tảo Tetraselmis suecica yêu cầu được cung
cấp được tính theo công thức sau:
V=(Sx0,4)/(7xWxC)
Trong đó, V là thể tích (L) tảo Tetraselmis suecica yêu
cầu được cung cấp; W là trọng lượng của 1 triệu tế bào loài
tảo yêu cầu và C là mật độ tế bào loài tảo yêu cầu khi thu
hoạch (tb/microlit)
Vậy, V=(600.000x0,4)/(7x0,2x1.500)=114,3 L
Như vậy, 114,3 L tảo Tetraselmis ở mật độ tế bào thu
hoạch 1.500 tb/L cung cấp một khẩu phần ăn hàng ngày
cho 600 g sinh khối ấu trùng Spat.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×