Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG NHÂN TẠO ĐỘNG VẬT CHÂN BỤNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.65 KB, 28 trang )

KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG NHÂN TẠO ĐỘNG VẬT
CHÂN BỤNG
2.2.1. Kỹ thuật sản xuất giống Bào Ngư
Quy trình sản xuất giống Bào Ngư trong điều kiện nhân tạo
có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:













Nuôi phát
d
ục B
ào Ngư

Kích thích
Bào Ngư
Đẻ trứng và
phóng tinh


Thụ tinh


ấu trùng nở

Nuôi ấu
trùng giai
đoạn trôi nổi

Nuôi ấu
trùng bám
Nuôi Bào
Ngư con

Nuôi tảo đáy

Chuẩn bị
thức ăn
Nuôi rong
câu










Sơ đồ sản xuất giống Bào Ngư vành tai

a) Nuôi phát dục Bào Ngư bố mẹ

- Thu và vận chuyển Bào Ngư bố mẹ: Kết quả phân tích
sinh học cho thấy, nơi phân bố tự nhiên của Bào Ngư cũng
chính là bãi sinh sản của nó. Đặc điểm quan trọng nhất của
các bãi Bào Ngư là độ mặn tương đối cao (>30‰), nhiệt độ
ổn định (27 - 29
o
C) và thức ăn phong phú. Khi vận chuyển
về trại giống, nên úp phần thịt của 2 con Bào Ngư lại với
nhau để tránh cơ thể bị mất nước và dịch thể, bởi vì nước
và dịch thể là nguồn năng lượng quan trọng trong sự sống
của Bào Ngư. Sau đó dùng vải ướt thấm nước biển bao
quanh từng đôi một để Bào Ngư không bò và xếp vào
thùng xốp để vận chuyển. Vào những ngày nắng nóng có
thể vận chuyển Bào Ngư trong xe có máy lạnh. Với phương
pháp này có thể vận chuyển sống Bào Ngư bố mẹ đi xa
được 5 giờ mà không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của
chúng.
- Tuyển chọn Bào Ngư bố mẹ: Chọn Bào Ngư bố mẹ có
chiều dài vỏ từ trên 50 - 80 mm. Bào Ngư bố mẹ phải khoẻ
mạnh, không bị thương ở phần vỏ và phần thịt. Vỏ láng
nhẵn và không bị các loại động vật không xương sống ký
sinh.
- Phương pháp nuôi: Bào Ngư nuôi vỗ trong điều kiện
nhân tạo có thể thành thục sinh dục và sinh sản nếu như
quản lý tốt điều kiện môi trường sống và cho ăn thức ăn có
chất lượng cao và đầy đủ. Một số điều kiện nuôi vỗ phát
dục: Nhiệt độ nước từ 27 - 29
o
C; Độ mặn từ 30 – 34 ‰;
pH dao động từ 7,6 – 8,4.

+ Thức ăn chủ yếu là rong câu chỉ vàng (Gracilaria
verrucosa) tươi. Ngoài ra cho ăn thêm rong lục (Ulva) tươi,
rong mơ (Sargassum) tươi và rong khô Trung Quốc
(Laminaria) khi cần thiết. Cho Bào Ngư ăn thức ăn đầy đủ.
+ Nước chảy ra vào liên tục 24 giờ đảm bảo thay 100%
lượng nước trong bể.
+ Sục khí mạnh liên tục trong 24 giờ.
+ Thả các vật bám bằng nhựa hoặc bằng xi măng có dạng
hình sóng lượn, kích thước 50 x 40 cm để Bào Ngư bám và
ẩn trốn.
+ Hàng ngày xi phông các chất bẩn ở đáy bể.
+ Hàng tuần kiểm tra mức độ thành thục sinh dục của Bào
Ngư nuôi. Khi tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn
thành thục và chín (giai đoạn III, con đực có màu vàng
kem, con cái có màu xanh lá cây đậm hoặc màu xanh nước
biển) chuyển Bào Ngư sang bể đẻ cho sinh sản nhân tạo.
b) Kỹ thuật kích thích bào sinh sản
Để kích thích Bào Ngư đẻ trứng và phóng tinh hiện nay
người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp chiếu tia cực tím: Nước biển có nhiệt độ 27
– 29
o
C, được chiếu tia cực tím (đèn cực tím có công suất 10
W) và cho chảy vào bể đẻ. Sau 10 - 20 phút Bào Ngư sẽ đẻ
hoặc phóng tinh. Nếu Bào Ngư không sinh sản, thay nước
bể đẻ và tiếp tục chiếu xạ. Hầu hết Bào Ngư đẻ trứng và
phóng tinh sau khi thay nước lần thứ 2. Đây là phương
pháp làm cho Bào Ngư sinh sản nhanh và đáng tin cậy.
- Phương pháp kích thích nhiệt khô: Bào Ngư bố mẹ thành
thục được bọc trong một lớp gạc thấm nước biển, đặt ngửa

trên khay men và phơi khô. Sau khi tiếp xúc với không khí
30 phút đến 1 giờ, Bào Ngư được đưa vào bể đẻ được đậy
kín và cấp nước biển lọc sạch. Bào Ngư sẽ đẻ không lâu
sau đó. Phương pháp này ít hiệu quả hơn so với phương
pháp chiếu tia cực tím.
- Phương pháp kích thích nhiệt nước: Nâng nhiệt độ nước
trong bể đẻ dần dần từ 27 – 31
o
C trong vòng 4 giờ và sau
đó giảm đột ngột xuống 27
o
C bằng cách thay nước mới
hoặc cho nước lạnh. Lặp lại vài lần như vậy Bào Ngư sẽ đẻ
trứng hoặc phóng tinh.
- Phương pháp kích thích bằng H
2
O
2
: Bào Ngư thành thục
được rửa sạch, bọc lớp gạc thấm nước biển và đặt ngửa trên
khay men phơi khô trong 10 phút. Sau đó Bào Ngư bố mẹ
được cho vào bể đẻ có nước biển lọc sạch và chứa dung
dịch H
2
O
2
4 mM. Cho Bào Ngư bố mẹ tiếp xúc với dung
dịch H
2
O

2
trong vòng 30 phút đến 1 giờ, thay nước cũ và
cấp nước mới. Bào Ngư sẽ sinh sản sau khi cấp nước biển
mới 30 phút. Đây là phương pháp có độ tin cậy cao và kích
thích sinh sản 100% nếu như Bào Ngư bố mẹ hoàn toàn
thành thục sinh dục. Tuy nhiên, H
2
O
2
rất độc với tế bào
trứng và tinh trùng, do vậy khi Bào Ngư bắt đầu sinh sản
phải loại bỏ hết H
2
O
2
trong bể đẻ.
- Phương pháp kết hợp giữa tia cực tím với kích thích khô
và kích nhiệt nước: Bào Ngư bố mẹ thành thục sinh dục
được bọc một lớp gạc thấm nước biển, đặt ngửa trên khay
men và phơi khô trong 30 phút đến 1 giờ. Sau đó cho Bào
Ngư vào bể đẻ và cấp nước biển được chiếu tia cực tím,
nâng nhiệt độ nước trong bể đẻ từ 27 lên 31
o
C trong thời
gian 1 đến 4 giờ rồi hạ nhiệt độ đột ngột xuống 27
o
C bằng
cách thay nước toàn bộ hoặc đá lạnh. Bào Ngư sẽ sinh sản
sau đó một thời gian, nếu không sinh sản làm lại một vài
lần Bào Ngư sẽ sinh sản. Đây là phương pháp hiệu quả đối

với Bào Ngư bầu dục (Haliotis ovina).
- Phương pháp thay đổi chu kỳ ánh sáng nhân tạo: Bào
Ngư bố mẹ sau khi nuôi thành thục trong bể phát dục, được
cho vào bể đẻ để kích thích sinh sản. Ban ngày bể được che
kín hoàn toàn bằng vải bạt đen. Ban đêm từ 16 giờ đến 6
giờ sáng, bể được mở bạt và chiếu sáng bằng đèn Neon có
công suất 40W. Bào Ngư được cung cấp thức ăn tươi có
chất lượng cao và đầy đủ. Sục khí mạnh và tốc độ nước
chảy ra vào là 10 L/phút. Bào Ngư sẽ sinh sản sau 17 – 20
ngày nuôi kích đẻ.
Đẻ trứng và phóng tinh: Bào Ngư vành tai có thể bắt
đầu sinh sản vào buổi chiều (17 – 18 giờ), nhưng phần lớn
đều sinh sản vào ban đêm. Con đực thường đáp ứng với
kích thích trước nên phóng tinh trước. Sự phóng tinh của
con đực trong bể đẻ kích thích con cái đẻ trứng. Khi con
đực phóng tinh hay con cái đẻ trứng lại kích thích các cá
thể xung quanh đẻ trứng hoặc phóng tinh tiếp theo. Sau khi
đẻ trứng chìm xuống đáy tạo thành một lớp màu xanh lá
cây nhạt và sau đó được cuộn lên do sự xáo trộn của cột
nước trong bể và bắt đầu được thụ tinh. Tinh trùng được
phóng ra từ lỗ mở hô hấp thứ 2 hoặc thứ 3 trên vỏ của con
đực và tạo ra thành những vệt giống như làn khói thuốc lá
màu trắng đục lan toả khắp bể đẻ. Sau khi Bào Ngư bố mẹ
sinh sản, vớt khỏi bể đẻ và đậy bạt kín.
c) Thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh là bước có tính chất quyết định trong sinh sản
nhân tạo Bào Ngư. Quá trình thụ tinh phải xảy ra nhanh
trong một thời gian ngắn, đảm bảo tỷ lệ thụ tinh cao (gần
100%) và tránh hiện tượng thụ tinh bởi nhiều tinh trùng.
Nếu trứng được thụ tinh trong một thời gian ngắn (khoảng

2 phút), ấu trùng sau dó sẽ phát triển đồng đều.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian thụ tinh tốt nhất đối
với Bào Ngư vành tai là 1 giờ sau khi đẻ ra, mặc dù thời
gian sống của tinh trùng có thể kéo dài trong 24h. Do vậy,
sau khi Bào Ngư sinh sản, trứng và tinh trùng được thu
riêng biệt. Xác dịnh số lượng trứng bằng phương pháp thể
tích, đếm mật độ tinh trùng bằng buồng đếm hồng cầu trên
kính hiển vi. Lượng tinh trùng phù hợp cho kết quả thụ tinh
cao là 5 tinh trùng/trứng (khoảng 300.000 tinh trùng/mL
nước biển).
Trộn lẫn tinh trùng với trứng, khuấy đều nhẹ nhàng. Sau
một vài phút quá trình thụ tinh sẽ xảy ra. Trứng sau khi thụ
tinh từ 5 – 10 phút sẽ chìm xuống đáy bể. Hút hết nước có
lẫn tinh trùng và trứng không thụ tinh lơ lửng ở phần trên
ra. Sau đó rửa trứng vài lần bằng nước biển lọc qua các lưới
lọc có kích cỡ khác nhau để loại bỏ hết tinh trùng, trứng
không thụ tinh và tạp chất bám vào trứng đã thụ tinh.
Chuyển trứng đã thụ tinh sang bể ấp (bể composit) có thể
tích 600 lít với mật độ ấp là 5 – 10 trứng/mL. Nhiệt độ
trong bể ấp dao động từ 27 - 29
o
C, sục khí nhẹ nhàng và
đậy kín bể bằng bạt nhựa đen.
d) Ương nuôi ấu trùng giai đoạn trôi nổi (Trochophora)
Bào Ngư là động vật biến nhiệt nên thời gian nở của ấu
trùng phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường xung quanh. Nhiệt
độ từ 27 – 30
o
C, trứng thụ tinh nở thành ấu trùng bánh xe
(Trochophore) sau 5 – 7 giờ. Ấu trùng bánh xe có tính

hướng quang nên bơi lội tự do trên lớp nước bề mặt của bể.
Thu ấu trùng bánh xe chuyển qua bể ương nuôi ấu trùng
bằng cách xi phông hết lớp nước tầng mặt chứa ấu trùng. Ở
giai đoạn phát triển này, ấu trùng Bào Ngư rất nhỏ, kích
thước dao động từ 180 – 200 m, do vậy mật độ ương nuôi
có thể lên tới 10.000 con/L.
Ấu trùng bánh xe không ăn thức ăn và dinh dưỡng hoàn
toàn dựa vào noãn hoàng. Điều quan trọng trong ương nuôi
giai đoạn này là đảm bảo các điều kiện môi trường trong bể
ương nuôi ổn định để giảm thiểu thời gian ấu trùng bơi lội.
Hàng ngày thay nước, quan sát sự sinh trưởng và tỷ lệ sống
của ấu trùng trên kính hiển vi. Ấu trùng khỏe luôn bơi lội
theo cột nước lên lớp nước tầng mặt và từ từ chìm xuống
đáy bể. Sau 9 – 10 giờ kể từ lúc trứng được thụ tinh, ấu
trùng bánh xe phát triển thành ấu trùng tiền diện bàn
(Veliger). Đặc điểm của ấu trùng giai đoạn này là vùng
đỉnh đầu dẹt, vành tiêm mao phát triển dài và hình hành vỏ
trong suốt. Sau 24 – 27 giờ, ấu trùng tiền diện bàn phát
triển thành ấu trùng tiền diện bàn muộn với đặc điểm là mắt
và xúc tu đầu phát triển. Theo dõi ấu trùng để xác định thời
gian biến thái sang ấu trùng bám, kịp thời cung cấp thức ăn
và giá bám.
e) Ương nuôi ấu trùng bám (spat)
- Chuẩn bị thức ăn cho ấu trùng bám: Tảo silic đáy
dùng làm thức ăn cho ấu trùng bám của Bào Ngư là
Navicula spp., Nitzschia spp. và các tảo silic đáy khác.
+Thu tảo silic đáy: Tảo silic đáy sống ở bề mặt đá, dây
thừng, bao ni lông thải loại và các giá bám khác ở vùng
nước nông ven bờ, đặc biệt phong phú ở độ sâu 0,5 m
nước. Tảo silic đáy kết tụ lại với nhau tạo thành tập đoàn có

màu vàng nâu. Dùng các tấm ni lông hoặc các bản nhựa có
kích thước 30 x 30 cm làm vật bám để thu tảo silic tự
nhiên.
+ Nuôi tảo silic đáy: Đặt các tấm nilon vào bể xi măng có
nước biển chảy ra vào liên tục. Sau thời gian khoảng 15
ngày, trên mặt tấm nilon, tảo đáy bắt đầu bám thành một
lớp mỏng có màu xanh hơi vàng. Sau hơn 20 ngày tảo tảo
bám dày và có màu vàng nâu. Dùng ngón tay trỏ gạt nhẹ
nhàng tảo silic bám trên tấm nilon vào bể nuôi tảo, bể nuôi
tảo đáy hình chữ nhật có kích thước 2 m x 1,5 m x 0,5 m.
Kiểm tra trên kính hiển vi để xác định các loài tảo silic
nuôi. Nuôi sinh khối sử dụng công thức phân bón theo tỷ lệ
các chất như sau:

NaNO
3
80 ppm
NaH
2
PO
4
10 ppm
Na
2
SiO
3
10 ppm
FeCl
3
3 ppm


Nhiệt độ nước trong bể nuôi tảo dao động từ 27 – 30
o
C, độ
mặn > 30‰, cường độ chiếu sáng từ 1.500 – 3.500 lux. Sau
3 – 4 ngày khi tảo đáy phát triển nhiều (mật độ đạt khoảng
2000 – 3000 tế bào/mm
2
), cho các bản nhựa hoặc tấm nilon
vào bể nuôi tảo để tảo đáy bám. Dừng sục khí một vài giờ
để tảo có thể bám vào bản nhựa. Sau khi tảo đáy bám vào
tấm nilon hoặc bản nhựa, chuyển vào bể ương nuôi ấu
trùng bám.
- Chăm sóc ấu trùng bám: Sau 29 – 32 giờ, Hầu hết ấu
trùng bơi lội biến thái và phát triển thành ấu trùng bám
(spat). Đặc điểm để nhận dạng ấu trùng giai đoạn này là
vành tiêm mao thoái hoá, hình thành cơ khép vỏ, chân bắt
đầu phát triển và xuất hiện xúc tu thùy bên chân. ấu trùng
sống bám có tập tính tìm kiếm giá thể để bám và kiếm thức
ăn, do vậy cần cung cấp kịp thời các bản nhựa hoặc tấm
nilon có khuê tảo bám làm thức ăn cho ấu trùng. Tảo silic
bám là nguồn thức ăn quan trọng nhất cho ấu trùng Bào
Ngư từ giai đoạn sống bám đến kích cỡ 5 – 10 mm trước
khi ăn thức ăn rau câu chỉ vàng tươi (Gracilaria
verrucosa). Tấm nilon hoặc các bản nhựa có tảo silic đáy
được đặt vào bể ương nuôi ấu trùng và đặt cách nhau 3 cm
để tiện thao tác khi ấu trùng bám vào. Quan sát sự phát
triển của tảo đáy ở các tấm nilon. Nếu hết tảo đáy phải thay
tấm khác đồng thời kiểm tra kích thước của khuê tảo phát
triển trên các tấm nilon. Kích thước phù hợp cho ấu trùng 5

– 7 ngày đầu ương nuôi là 5 – 10 m. Sau 20 ngày nuôi, ấu
trùng có thể ăn khuê tảo kích thước 20 m.
f) Ương nuôi Bào Ngư giống
Sau hơn 1 tháng nuôi, khi đạt kích thước hơn 2 mm, ấu
trùng bám trên tấm nilon được chuyển sang bể ương nuôi
Bào Ngư giống. Ở giai đoạn này ấu trùng bám tiếp tục ăn
tảo silic bám trên bản nhựa thức ăn và bắt đầu ăn thêm rau
câu chỉ vàng tươi băm nhỏ cho đến khi đạt kích cỡ 10 – 15
mm. ở giai đoạn này ấu trùng bám xuất hiện lỗ hô hấp đầu
tiên trên vỏ. Đây là đặc điểm nhận dạng khi ấu trùng bám
chuyển sang Bào Ngư giống. Một số điều kiện nuôi như
sau: Nhiệt độ nước 27 – 30
o
C; Độ mặn > 30‰; hàm lượng
oxy hoà tan > 4 mg/L; pH 7,6 – 8,4 với mật độ ương nuôi:
100 – 200 con/L.
Giai đoạn này ấu trùng bám phát triển nhanh và ăn nhiều
thức ăn. Do vậy, bể ương nuôi được bón thêm phân để tăng
khả năng phát triển của tảo silic trên các bản thức ăn. Tỷ lệ
phân bón như sau:


N 1 – 3 ppm
P 0,1 – 0,3 ppm
Fe 0,04 ppm
Si 0,5 ppm

Sau 3 - 4 tháng ương nuôi, khi đạt kích cỡ trên 10 mm, Bào
Ngư giống được chuyển ra nuôi lồng trên biển và cho ăn
các loại rong tươi và khô.

Kỹ thuật vận chuyển giống: Dụng cụ vận chuyển Bào
Ngư giống có, thể dùng loại hòm nhiều ngăn, vách hòm có
đục nhiều lỗ thủng hay thuyền nước chảy. Dùng hòm nhiều
ngăn có ưu điểm là chia Bào Ngư thành từng lớp bám trên
mặt các ngăn để không bị bám chồng chất lên nhau, chân
con nọ lấp kín lỗ nước con kia khiến chúng bị chết. Trong
quá trình vận chuyển cần giữ cho nước được lưu thông,
sạch sẽ tránh bị nhiễm bẩn do sản vật bài tiết của chúng
thải ra.

2.2.2. Kỹ thuật sản xuất giống Ốc Hương
a) Nuôi ốc bố mẹ
- Nguồn Ốc bố mẹ: Ốc bố mẹ có thể được thu mua từ
các vùng phân bố tự nhiên thuộc các tỉnh ven biển từ
Quảng Ninh đến Kiên Giang. Mặc dù có khác nhau về kích
cỡ, môi trường sống nhưng các quần thể Ốc Hương có đặc
tính di truyền tương tự nhau (Mai Duy Minh, 2004). Chọn
những con có thước lớn hơn 60 mm chiều cao vỏ (20-30
kg/con), khoẻ mạnh, vận chuyển về trại giống và thả nuôi
trong bể xi măng. Mật độ nuôi 15-20 con/m
2
, cũng có thể
nuôi mật độ cao hơn (20-40 con/m
2
). Cần lưu ý tránh
trường hợp ốc bị sốc khi thả vào bể nuôi sau quá trình vận
chuyển.
- Chuẩn bị bể nuôi: Bể xi măng có phủ một lớp cát
sạch để Ốc vùi kín mình (khoảng 3-5 cm). Lớp cát tạo môi
trường tự nhiên cho Ốc và là các giá bám cho các bọc

trứng. Bể được đặt ngoài trời có mái che nắng. Bố trí sục
khí đều khắp trong bể để đảm bảo cung cấp đủ oxy. Bể có
lỗ thoát nước lớn, đáy bể dốc để rút ngắn thời gian thay
nước và có thể tháo sạch các chất bẩn, cặn bã khi làm vệ
sinh đáy. Sử dụng nguồn nước biển sạch với pH: 7,5-8,5;
độ mặn 30-35‰.
- Chăm sóc, quản lý
Cá, Ghẹ. Trai, Tôm là các loại thức ăn được phối hợp
sử dụng thường xuyên để nuôi vỗ bố mẹ. Khối lượng thức
ăn dao động từ 3-7% khối lượng Ốc tuỳ thuộc vào loại thức
ăn và mức độ sử dụng thức ăn của Ốc. Cho ăn 1 lần/ngày
vào buổi tối. Thay nước, loại bỏ thức ăn thừa hàng ngày;
vệ sinh đáy 2 ngày/lần nhằm đảm bảo môi trường trong
sạch.
b) Ấp trứng
Ốc thường đẻ vào ban đêm nên trứng được thu vào buổi
sáng hôm sau để hạn chế mầm bệnh ký sinh lên bọc trứng.
Các bọc trứng bám trên đáy cát được lấy nhẹ nhàng đưa
vào các khay ấp trứng. Trước khi ấp nên loại bỏ các bọc
trứng không còn nguyên vẹn và ngâm trứng trong dung
dịch thuốc tím 10 ppm trong 5-10 phút. Trứng được ấp
trong môi trường nước biển đã được xử lý EDTA 1-2 ppm
và cung cấp đầy đủ oxy, Trong quá trình ấp cần loại bỏ kịp
thời các bọc trứng có màu trắng đục (trứng đã bị hỏng) để
tránh sự phan huỷ gây ô nhiễm môi trường ắp trứng. Nhiệt
độ trong môi trường ấp là 27-30
o
C, sau 5-7 ngày trứng bắt
đầu nở ra ấu trùng veliger bơi lội tự do trong nước, ấu trùng
Veliger có tính hướng quang nên thường bơi ở cột nước

phía trên.
c) Ương nuôi ấu trùng nổi
Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng nổi (Veliger) là phức tạp
nhất trong quy trình sản xuất giống. Dưới đây sẽ giới thiệu
những nội dung cơ bản đã được trình bày trong công trình
sản xuất của Nguyễn Thị Xuân Thu, 2001 và cải tiến công
nghệ sản xuất của Mai Duy Minh, 2007:
- Chuẩn bị bể ương: Bể ương nuôi ấu trùng nổi có thể
tích từ 120L, 1m
3
hoặc 5-6 m
3
tuỳ quy mô sản xuất. Trước
khi ương bể cần được chà rửa sạch sẽ bằng Chlorin. Nước
biển bơm trực tiếp qua hệ thống lọc cơ học sau đó xử lý
bằng Chlorin 10-30 ppm hoặc KMnO
4
5 ppm được cấp vào
bể ương nuôi ấu trùng. Nước ương nuôi ấu trùng phải đảm
bảo các chỉ tiêu: Độ mặn 34-35 ppt; nhiệt độ 26-29
0
C; pH
7,5-8,0 và hàm lượng oxy hoà tan 6,2-8,5 mg/L. Duy trì
hàm lượng EDTA 1-2 ppm trong suốt quá trình ương.
Trong trường hợp ấu trùng hay lắng tụ thành đám ở đáy bể,
xử lý EDTA 4-5 ppm nhằm tạo môi trường ổn định giúp
cho ấu trùng sinh trưởng và phát triển tốt.
- Kỹ thuật ương: Vớt ấu trùng mới nở từ bể ấp sang bể
ương với mật độ 120-150 con/L. Tuy nhiên, cũng không
nên ương ở mật độ quá thấp sẽ gây lãng phí do không tận

dụng hết công suất bể. Cũng có thể nuôi mật độ cao hơn
trong 3-4 ngày đầu sau đó giảm thưa dần đảm bảo mật độ
thích hợp cho ấu trùng ở cuối giai đoạn bơi và chuẩn bị
biến thái sang ấu trùng bò là 100-120 con/L. Ấu trùng
Veliger bắt mồi bằng phương pháp lọc thụ động vì vậy thức
ăn cung cấp cho chúng phải có kích thước nhỏ và có khả
năng trôi nổi trong nước. Các loài tảo đơn bào như
Nannochloropsis sp., Platymonas sp., Skeletonema
costatum, Chaetoceros sp. và một số thức ăn tổng hợp dạng
bột mịn (đường kính nhỏ hơn 180 m) như N
0
, Lansy,
Fripack là thức ăn tốt cho ấu trùng. Mật độ tảo cho ấu trùng
ăn giai đoạn này là từ 3.000-10.000tb/mL, ngày cho ăn 2-3
lần.
Trong các loại thức ăn sử dụng mỗi loài tảo có vai trò
dinh dưỡng khác nhau. Tảo Nannochloropsis sp. Có kích
thước nhỏ, chu kỳ phát triển dài và ổn định, có thể sử dụng
cho ấu trùng trong suốt quá trình nuôi. Tảo Chaetoceros sp.
rất tôt cho giai đoạn đầu của ấu trùng, Ốc nuôi bằng tảo này
giai đoạn đầu thường có sinh trưởng nhanh hơn so với sử
dụng các loài tảo khác, nhưng do chu kỳ nuôi ngắn nên dễ
bị tàn gây ô nhiễm môi trường bể nuôi nếu quản lý thức ăn
trong bể không chặt chẽ. Tảo Platymonas sp. có kích thước
lớn hơn và thích hợp cho giai đoạn sau của ấu trùng. Việc
kết hợp cho ăn các loài tảo trên sẽ cho kết quả tốt hơn, giai
đoạn đầu có thể sử dụng Nannochloropsis sp. Kết hợp với
Chaetoceros sp. Giai đoạn sau kết hợp giữa các loài
Nannochloropsis sp., Skeletonema costatum và Platymonas
sp.

Lượng thức ăn công nghiệp thích hợp được xác định là
từ 0,3-2,5 g/lần, cho ăn 4 lần/ngày cho mỗi bể nuôi số
lượng 400.000-500.000 ấu trùng, tuỳ thuộc vào giai đoạn
phát triển và tình trạng sức khoẻ của Ốc
Thay nước: Thay nước là một trong những khâu quan trọng
bởi vì trong môi trường bể ương, bên cạnh các sản phẩm
tiêu hoá, ốc còn tiết ra dịch nhầy làm ô nhiễm môi trường
nuôi. Mặt khác ấu trùng Veliger rất mẫn cảm với những
thay đổi nhỏ của yếu tố môi trường, vì vậy việc thay nước
phải đảm bảo tính trong sạch và ổn định môi trường. Thay
nước được tiến hành vào ngày thứ 3 hoặc 4 và thay hàng
ngày vào buổi sáng. Lượng nước thay từ 40 - 60% thể tích
nước trong bể. Trong quá trình thay nước đề phòng trường
hợp ấu trùng chết do ép vào lưới thay nước. Trước khi ấu
trùng chuyển sang giai đoạn biến thái (8 -10 ngày), tiến
hành chuyển ấu trùng sang bể mới và cung cấp 1-2 kg
cát/m
2
đáy bể nhằm tạo môi trường đáy thích hợp cho giai
đoạn ấu trùng bò. Cát phải được ngâm trong dung dịch
thuốc tím 10 ppm trong 10 -15 phút, sau đó rửa sạch trước
khi cho vào bể. Khi chuyển ấu trùng sang bể mới, cần chú ý
các yếu tố môi trường để tránh sự khác biệt lớn giữa bể cũ
và bể mới làm ảnh hưởng đến ấu trùng.
- Một số hiện tượng trong quá trình ương nuôi ấu
trùng:
Hiện tượng ấu trùng co cánh, bể nuôi bị nhầy, trùng
loa kén, nấm phát triển mạnh trong bể là những vấn đề
thường gặp trong quá trình sản xuất giống. Trong giai đoạn
đầu, các dấu hiệu bệnh lý của ấu trùng là hiện tượng ấu

trùng lắng hàng loạt trong khoảng thời gian 1-2 giờ, hiện
tượng ấu trùng bị co cánh, chết dần trong thời gian 3-4
ngày. Hiện tượng này vẫn còn bắt gặp và thường xảy ra vào
giai đoạn gần xuống đáy. Nguyên nhân của hiện tượng này
là do các chất độc hại (chất phèn, độc tố từ tảo) có hàm
lượng vượt quá giới hạn sinh thái của ấu trùng hoặc là do
chế độ quản lý ấu trùng chưa chặt chẽ (dư thừa thức ăn
hoặc sử dụng bừa bãi các chất kháng sinh) làm cho môi
trường nuôi không còn phù hợp với ấu trùng Ốc. Biện pháp
để khắc phục là chuyển ấu trùng sang bể mới, định kỳ làm
lại bể lọc sau 2 tháng sử dụng kết hợp cho ăn đủ, tránh dư
thừa.
Một số hiện tượng như ấu trùng bỏ ăn, nước bị vẫn
đục, bể nuoi nhầy, ấu trùng bị co cánh và chết hàng loạt là
do vi khuẩn. Để ngăn chặn có thể dùng CuSo
4
nồng độ 0,1
ppm, Oxytetraciline 1-2 ppm, virkont 0,1-0,3 ppm, Shrimp
favour 1-2 ppm tuỳ vào giai đoạn phát triển của ốc; cho
trực tiếp vào bể nuôicó thể làm sạch môi trường và tăng tr
lệ sống cho ấu trùng.
d) Kỹ thuật ương ấu trùng bò và ốc con
- Chuẩn bị đáy cho ấu trùng bò: Ở thời kỳ biến thái
chuyển từ giai đoạn bơi sang giai đoạn bò, ấu trùng cần có
nền đáy để vùi mình. Vì vậy, trong bể ương nuôi cần tạo ra
môi trường đáy phù hợp với đặc tính sinh thái tự nhiên của
Ốc. Cát sạch được sử dụng làm chất đáy cho Ốc con vùi
mình. Trước khi đưa vào bể ương, cát phải được sàng qua
lưới loại bỏ cát lớn, ngâm thuốc tím 100 ppm để khử trùng
và rửa sạch trước khi đưa vào bể ương.

- Quản lý, chăm sóc: Kiểm tra số lượng ấu trùng biến
thái chuyển thành Ốc con. Xác định và kiểm tra mật độ ấu
trùng còn trôi nổi trong nước để cung cấp thức ăn cho phù
hợp. Thay nước hàng ngày, từ 1/2-2/3 thể tích bể. Duy trì
chế độ sục khí thường xuyên. Thay nước cẩn thận, tránh
không gây tác động mạnh làm ảnh hưởng đến ấu trùng.
Cho ăn tảo đơn bào đối với ấu trùng nổi 2 lần/ngày với
mật độ tảo cần cho ăn từ 60.000 –100.000 tb/ml và thịt
tôm, cá băm nhỏ đối với ấu trùng bò và Ốc con. Cũng có
thể sử dụng artemia nuôi ấu trùng giai đoạn mới sống đáy,
vì artemia có hàm lượng dinh dưỡng cao và ít làm ô nhiễm
môi trường, nếu artemia còn sống có thể giết chết bằng
nước ấm 50-70
0
C trước khi cho ăn. Khi cho ăn tắt sục khí,
rải đều artemia trên đáy bể. Lượng thức ăn cho hàng ngày
khoảng 80-120g/lần. Mỗi ngày cho ăn 2 lần cho 10 vạn Ốc
cỡ 250-300 g/con.
Theo dõi sự tăng trưởng, độ no, tỷ lệ hao hụt của ấu
trùng nổi, ấu trùng bò và ốc con để quyết định việc thay
nước và cho ăn hàng ngày. Định lượng số lượng ốc con
trong mỗi bể khi thu hoạch.
e) Kỹ thuật ương Ốc giống
- Chuẩn bị bể ương: Bể ương có kích thước 10x2x1,2
m, được xây bằng xi măng hoặc composite, có mái che.
Đáy bể phủ một lớp cát mịn dày 3-5 cm. Thành bể cách đáy
50 - 60 cm dán một vòng dây để ngăn không cho Ốc bò lên
khỏi mặt nước. Bố trí sục khí đều khắp trong bể. Nước biển
qua lọc được cung cấp đủ vào bể ương.
- Mật độ ương giống: Mật độ ương không những ảnh

hưởng đến tỷ lệ sống mà còn ảnh hưởng đến khả năng tăng
trưởng của Ốc Hương. Trong sản xuất, để đạt được tỷ lệ
sống cao và rút ngắn thời gian ương, ốc thường xuyên được
phân loại theo kích cỡ và bố trí nuôi riêng. Mật độ nuôi
được xác định theo kích cỡ trọng lượng như sau:

Kích cỡ ốc
Mật độ nuôi (con/m
2
)

×