Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kỹ thuật sản xuất giống Ốc Hương pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.94 KB, 12 trang )

Kỹ thuật sản xuất giống Ốc Hương
a) Nuôi ốc bố mẹ
- Nguồn Ốc bố mẹ: Ốc bố mẹ có thể được thu mua từ
các vùng phân bố tự nhiên thuộc các tỉnh ven biển từ
Quảng Ninh đến Kiên Giang. Mặc dù có khác nhau về kích
cỡ, môi trường sống nhưng các quần thể Ốc Hương có đặc
tính di truyền tương tự nhau (Mai Duy Minh, 2004). Chọn
những con có thước lớn hơn 60 mm chiều cao vỏ (20-30
kg/con), khoẻ mạnh, vận chuyển về trại giống và thả nuôi
trong bể xi măng. Mật độ nuôi 15-20 con/m
2
, cũng có thể
nuôi mật độ cao hơn (20-40 con/m
2
). Cần lưu ý tránh
trường hợp ốc bị sốc khi thả vào bể nuôi sau quá trình vận
chuyển.
- Chuẩn bị bể nuôi: Bể xi măng có phủ một lớp cát
sạch để Ốc vùi kín mình (khoảng 3-5 cm). Lớp cát tạo môi
trường tự nhiên cho Ốc và là các giá bám cho các bọc
trứng. Bể được đặt ngoài trời có mái che nắng. Bố trí sục
khí đều khắp trong bể để đảm bảo cung cấp đủ oxy. Bể có
lỗ thoát nước lớn, đáy bể dốc để rút ngắn thời gian thay
nước và có thể tháo sạch các chất bẩn, cặn bã khi làm vệ
sinh đáy. Sử dụng nguồn nước biển sạch với pH: 7,5-8,5;
độ mặn 30-35‰.
- Chăm sóc, quản lý
Cá, Ghẹ. Trai, Tôm là các loại thức ăn được phối hợp
sử dụng thường xuyên để nuôi vỗ bố mẹ. Khối lượng thức
ăn dao động từ 3-7% khối lượng Ốc tuỳ thuộc vào loại thức
ăn và mức độ sử dụng thức ăn của Ốc. Cho ăn 1 lần/ngày


vào buổi tối. Thay nước, loại bỏ thức ăn thừa hàng ngày;
vệ sinh đáy 2 ngày/lần nhằm đảm bảo môi trường trong
sạch.
b) Ấp trứng
Ốc thường đẻ vào ban đêm nên trứng được thu vào buổi
sáng hôm sau để hạn chế mầm bệnh ký sinh lên bọc trứng.
Các bọc trứng bám trên đáy cát được lấy nhẹ nhàng đưa
vào các khay ấp trứng. Trước khi ấp nên loại bỏ các bọc
trứng không còn nguyên vẹn và ngâm trứng trong dung
dịch thuốc tím 10 ppm trong 5-10 phút. Trứng được ấp
trong môi trường nước biển đã được xử lý EDTA 1-2 ppm
và cung cấp đầy đủ oxy, Trong quá trình ấp cần loại bỏ kịp
thời các bọc trứng có màu trắng đục (trứng đã bị hỏng) để
tránh sự phan huỷ gây ô nhiễm môi trường ắp trứng. Nhiệt
độ trong môi trường ấp là 27-30
o
C, sau 5-7 ngày trứng bắt
đầu nở ra ấu trùng veliger bơi lội tự do trong nước, ấu trùng
Veliger có tính hướng quang nên thường bơi ở cột nước
phía trên.
c) Ương nuôi ấu trùng nổi
Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng nổi (Veliger) là phức tạp
nhất trong quy trình sản xuất giống. Dưới đây sẽ giới thiệu
những nội dung cơ bản đã được trình bày trong công trình
sản xuất của Nguyễn Thị Xuân Thu, 2001 và cải tiến công
nghệ sản xuất của Mai Duy Minh, 2007:
- Chuẩn bị bể ương: Bể ương nuôi ấu trùng nổi có thể
tích từ 120L, 1m
3
hoặc 5-6 m

3
tuỳ quy mô sản xuất. Trước
khi ương bể cần được chà rửa sạch sẽ bằng Chlorin. Nước
biển bơm trực tiếp qua hệ thống lọc cơ học sau đó xử lý
bằng Chlorin 10-30 ppm hoặc KMnO
4
5 ppm được cấp vào
bể ương nuôi ấu trùng. Nước ương nuôi ấu trùng phải đảm
bảo các chỉ tiêu: Độ mặn 34-35 ppt; nhiệt độ 26-29
0
C; pH
7,5-8,0 và hàm lượng oxy hoà tan 6,2-8,5 mg/L. Duy trì
hàm lượng EDTA 1-2 ppm trong suốt quá trình ương.
Trong trường hợp ấu trùng hay lắng tụ thành đám ở đáy bể,
xử lý EDTA 4-5 ppm nhằm tạo môi trường ổn định giúp
cho ấu trùng sinh trưởng và phát triển tốt.
- Kỹ thuật ương: Vớt ấu trùng mới nở từ bể ấp sang bể
ương với mật độ 120-150 con/L. Tuy nhiên, cũng không
nên ương ở mật độ quá thấp sẽ gây lãng phí do không tận
dụng hết công suất bể. Cũng có thể nuôi mật độ cao hơn
trong 3-4 ngày đầu sau đó giảm thưa dần đảm bảo mật độ
thích hợp cho ấu trùng ở cuối giai đoạn bơi và chuẩn bị
biến thái sang ấu trùng bò là 100-120 con/L. Ấu trùng
Veliger bắt mồi bằng phương pháp lọc thụ động vì vậy thức
ăn cung cấp cho chúng phải có kích thước nhỏ và có khả
năng trôi nổi trong nước. Các loài tảo đơn bào như
Nannochloropsis sp., Platymonas sp., Skeletonema
costatum, Chaetoceros sp. và một số thức ăn tổng hợp dạng
bột mịn (đường kính nhỏ hơn 180 m) như N
0

, Lansy,
Fripack là thức ăn tốt cho ấu trùng. Mật độ tảo cho ấu trùng
ăn giai đoạn này là từ 3.000-10.000tb/mL, ngày cho ăn 2-3
lần.
Trong các loại thức ăn sử dụng mỗi loài tảo có vai trò
dinh dưỡng khác nhau. Tảo Nannochloropsis sp. Có kích
thước nhỏ, chu kỳ phát triển dài và ổn định, có thể sử dụng
cho ấu trùng trong suốt quá trình nuôi. Tảo Chaetoceros sp.
rất tôt cho giai đoạn đầu của ấu trùng, Ốc nuôi bằng tảo này
giai đoạn đầu thường có sinh trưởng nhanh hơn so với sử
dụng các loài tảo khác, nhưng do chu kỳ nuôi ngắn nên dễ
bị tàn gây ô nhiễm môi trường bể nuôi nếu quản lý thức ăn
trong bể không chặt chẽ. Tảo Platymonas sp. có kích thước
lớn hơn và thích hợp cho giai đoạn sau của ấu trùng. Việc
kết hợp cho ăn các loài tảo trên sẽ cho kết quả tốt hơn, giai
đoạn đầu có thể sử dụng Nannochloropsis sp. Kết hợp với
Chaetoceros sp. Giai đoạn sau kết hợp giữa các loài
Nannochloropsis sp., Skeletonema costatum và Platymonas
sp.
Lượng thức ăn công nghiệp thích hợp được xác định là
từ 0,3-2,5 g/lần, cho ăn 4 lần/ngày cho mỗi bể nuôi số
lượng 400.000-500.000 ấu trùng, tuỳ thuộc vào giai đoạn
phát triển và tình trạng sức khoẻ của Ốc
Thay nước: Thay nước là một trong những khâu quan trọng
bởi vì trong môi trường bể ương, bên cạnh các sản phẩm
tiêu hoá, ốc còn tiết ra dịch nhầy làm ô nhiễm môi trường
nuôi. Mặt khác ấu trùng Veliger rất mẫn cảm với những
thay đổi nhỏ của yếu tố môi trường, vì vậy việc thay nước
phải đảm bảo tính trong sạch và ổn định môi trường. Thay
nước được tiến hành vào ngày thứ 3 hoặc 4 và thay hàng

ngày vào buổi sáng. Lượng nước thay từ 40 - 60% thể tích
nước trong bể. Trong quá trình thay nước đề phòng trường
hợp ấu trùng chết do ép vào lưới thay nước. Trước khi ấu
trùng chuyển sang giai đoạn biến thái (8 -10 ngày), tiến
hành chuyển ấu trùng sang bể mới và cung cấp 1-2 kg
cát/m
2
đáy bể nhằm tạo môi trường đáy thích hợp cho giai
đoạn ấu trùng bò. Cát phải được ngâm trong dung dịch
thuốc tím 10 ppm trong 10 -15 phút, sau đó rửa sạch trước
khi cho vào bể. Khi chuyển ấu trùng sang bể mới, cần chú ý
các yếu tố môi trường để tránh sự khác biệt lớn giữa bể cũ
và bể mới làm ảnh hưởng đến ấu trùng.
- Một số hiện tượng trong quá trình ương nuôi ấu
trùng:
Hiện tượng ấu trùng co cánh, bể nuôi bị nhầy, trùng
loa kén, nấm phát triển mạnh trong bể là những vấn đề
thường gặp trong quá trình sản xuất giống. Trong giai đoạn
đầu, các dấu hiệu bệnh lý của ấu trùng là hiện tượng ấu
trùng lắng hàng loạt trong khoảng thời gian 1-2 giờ, hiện
tượng ấu trùng bị co cánh, chết dần trong thời gian 3-4
ngày. Hiện tượng này vẫn còn bắt gặp và thường xảy ra vào
giai đoạn gần xuống đáy. Nguyên nhân của hiện tượng này
là do các chất độc hại (chất phèn, độc tố từ tảo) có hàm
lượng vượt quá giới hạn sinh thái của ấu trùng hoặc là do
chế độ quản lý ấu trùng chưa chặt chẽ (dư thừa thức ăn
hoặc sử dụng bừa bãi các chất kháng sinh) làm cho môi
trường nuôi không còn phù hợp với ấu trùng Ốc. Biện pháp
để khắc phục là chuyển ấu trùng sang bể mới, định kỳ làm
lại bể lọc sau 2 tháng sử dụng kết hợp cho ăn đủ, tránh dư

thừa.
Một số hiện tượng như ấu trùng bỏ ăn, nước bị vẫn
đục, bể nuoi nhầy, ấu trùng bị co cánh và chết hàng loạt là
do vi khuẩn. Để ngăn chặn có thể dùng CuSo
4
nồng độ 0,1
ppm, Oxytetraciline 1-2 ppm, virkont 0,1-0,3 ppm, Shrimp
favour 1-2 ppm tuỳ vào giai đoạn phát triển của ốc; cho
trực tiếp vào bể nuôicó thể làm sạch môi trường và tăng tr
lệ sống cho ấu trùng.
d) Kỹ thuật ương ấu trùng bò và ốc con
- Chuẩn bị đáy cho ấu trùng bò: Ở thời kỳ biến thái
chuyển từ giai đoạn bơi sang giai đoạn bò, ấu trùng cần có
nền đáy để vùi mình. Vì vậy, trong bể ương nuôi cần tạo ra
môi trường đáy phù hợp với đặc tính sinh thái tự nhiên của
Ốc. Cát sạch được sử dụng làm chất đáy cho Ốc con vùi
mình. Trước khi đưa vào bể ương, cát phải được sàng qua
lưới loại bỏ cát lớn, ngâm thuốc tím 100 ppm để khử trùng
và rửa sạch trước khi đưa vào bể ương.
- Quản lý, chăm sóc: Kiểm tra số lượng ấu trùng biến
thái chuyển thành Ốc con. Xác định và kiểm tra mật độ ấu
trùng còn trôi nổi trong nước để cung cấp thức ăn cho phù
hợp. Thay nước hàng ngày, từ 1/2-2/3 thể tích bể. Duy trì
chế độ sục khí thường xuyên. Thay nước cẩn thận, tránh
không gây tác động mạnh làm ảnh hưởng đến ấu trùng.
Cho ăn tảo đơn bào đối với ấu trùng nổi 2 lần/ngày với
mật độ tảo cần cho ăn từ 60.000 –100.000 tb/ml và thịt
tôm, cá băm nhỏ đối với ấu trùng bò và Ốc con. Cũng có
thể sử dụng artemia nuôi ấu trùng giai đoạn mới sống đáy,
vì artemia có hàm lượng dinh dưỡng cao và ít làm ô nhiễm

môi trường, nếu artemia còn sống có thể giết chết bằng
nước ấm 50-70
0
C trước khi cho ăn. Khi cho ăn tắt sục khí,
rải đều artemia trên đáy bể. Lượng thức ăn cho hàng ngày
khoảng 80-120g/lần. Mỗi ngày cho ăn 2 lần cho 10 vạn Ốc
cỡ 250-300 g/con.
Theo dõi sự tăng trưởng, độ no, tỷ lệ hao hụt của ấu
trùng nổi, ấu trùng bò và ốc con để quyết định việc thay
nước và cho ăn hàng ngày. Định lượng số lượng ốc con
trong mỗi bể khi thu hoạch.
e) Kỹ thuật ương Ốc giống
- Chuẩn bị bể ương: Bể ương có kích thước 10x2x1,2
m, được xây bằng xi măng hoặc composite, có mái che.
Đáy bể phủ một lớp cát mịn dày 3-5 cm. Thành bể cách đáy
50 - 60 cm dán một vòng dây để ngăn không cho Ốc bò lên
khỏi mặt nước. Bố trí sục khí đều khắp trong bể. Nước biển
qua lọc được cung cấp đủ vào bể ương.
- Mật độ ương giống: Mật độ ương không những ảnh
hưởng đến tỷ lệ sống mà còn ảnh hưởng đến khả năng tăng
trưởng của Ốc Hương. Trong sản xuất, để đạt được tỷ lệ
sống cao và rút ngắn thời gian ương, ốc thường xuyên được
phân loại theo kích cỡ và bố trí nuôi riêng. Mật độ nuôi
được xác định theo kích cỡ trọng lượng như sau:

Kích cỡ ốc
(con/kg)
Mật độ nuôi (con/m
2
)

> 10.000 10.000-15.000
7.000-10.000 5.000-7.000
4.000-7000 3.000-5.000
1.000-4.000 1.000-3.000

- Quản lý chăm sóc bể ương:
Thức ăn và cách cho ăn: Thức ăn được sử dụng cho
ương nuôi Ốc giống là ghẹ, Cá, Trai, Sò. Lượng thức ăn
cung cấp từ 10 -15% trọng lượng Ốc mỗi ngày. Cho ăn 2
lần/ ngày. Mức độ sử dụng thức ăn của Ốc phụ thuộc vào
điều kiện môi trường sống, sức khoẻ của Ốc và loại thức ăn
ưa thích. Vì vậy, chúng ta cần theo dõi khả năng dinh
dưỡng của Ốc để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp,
đảm bảo cung cấp đủ thức ăn cho ốc sinh trưởng và phát
triển tốt nhất.
Thay nước: Sử dụng nước biển bơm trực tiếp không qua lọc
hàng ngày thay từ 50-80%. Sau khoảng 1-2 tuần thì thay
100% nước, làm sạch cặn bẩn ở đáy. Khi thay nước chú ý
tạt nước lên thành bể để ốc trên thành bể không bị khô
nước trong thời gian lâu sẽ yếu và chết dần.
Vệ sinh bể ương: Thức ăn thừa, xương, da cá,vỏ ghẹ, Trai
Ốc không ăn được thì vớt ra khỏi bể mỗi ngày để tránh ô
nhiễm nước. Trong quá trình nuôi, sau mỗi lần phân loại
Ốc, cần vệ sinh bể sạch sẽ trước khi thả Ốc vào nuôi tiếp.
- Thu hoạch Ốc giống:
Kích thước Ốc giống có thể đưa ra nuôi thương phẩm
tối thiểu phải là 7000 - 8000 con/kg. Kích cỡ này đảm bảo
cho ốc đủ khả năng chịu sự thay đổi trong quá trình vận
chuyển và thích nghi với môi trường sống mới trong ao,
đăng hoặc lồng.

Quá trình được thu hoạch như sau: tháo cạn nước bể
ương, dùng tấm nhựa phẳng gạt nhẹ để dồn ốc và cát, sau
đó sàng lọc ốc ra khỏi cát và phân loại theo kích cỡ. ốc đủ
kích thước được vận chuyển ra nuôi thương phẩm, ốc nhỏ
đưa vào bể ương nuôi tiếp cho đến khi đạt yêu cầu.
- Vận chuyển ốc giống:
Vận chuyển xa: Vận chuyển kín bằng túi nilon có bơm oxy
hoặc vận chuyển hở dùng máy sục khí pin. Thời gian có thể
vận chuyển là 10 đến 12 giờ.
Vận chuyển gần: Vận chuyển khô bằng cách dùng thùng
xốp, giữ ẩm và làm lạnh không khí trong thùng ở 20-25
0
C.
Thời gian vận chuyển 4 đến 5 giờ.


×