BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
TIỂU LUẬN MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM II
Đề tài: “NỖ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH
GIA NHẬP ASEAN 1986-1995”
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Minh CT36D (Nhóm trưởng)
Bùi Thị Tươi CT36D
Mai Thị Hải Yến CT36D
Trần Thị Vân Anh CT36D
Lê Thị Nhung CT36C
Hà Nội, tháng 03 năm 2011
1
MỤC LỤC
Trang
I. LỜI MỞ ĐẦU
Giới thiệu về ASEAN 1
II. NỘI DUNG
1. Bối cảnh chính sách 2
a. Tình hình quốc tế và khu vực 2
b. Tình hình trong nước 3
2. Nội dung và triển khai chính sách 4
3. Kết quả và đánh giá 8
4. Bài học kinh nghiệm rút ra 11
a. Luôn giữ vững và tăng cường sự 11
lãnh đạo của Đảng trong quá trình
Việt Nam hội nhậpvà phát triển
cùng ASEAN
b. Giữ vững tinh thần chủ động hội 12
nhập và phát triển trong ASEAN
c. lấy hội nhập vào ASEAN là cơ sở 12
để đẩy mạnh quan hệ hợp tác với
các nước trên thế giới
III. KẾT LUẬN 12
IV. PHỤ LỤC VÀ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
1. Các thành viên của ASEAN 13
Bản đồ khu vực Đông Nam Á 14
2. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 15
Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN 16
3. Danh mục tài liệu tham khảo 17
I. Lời mở đầu
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of
Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh
tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức
2
này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là
Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn
kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình
trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm
1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các hợp tác bị
thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành công lại khi Thái
Lan đề nghị khu vực thương mại tự do năm 1991. Hàng năm, các nước thành
viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi hợp tác.
Đến nay, ASEAN gồm 10 thành viên.
28 năm sau khi ASEAN được thành lập (1967-1995) và 20 năm sau khi
cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975-1995), nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thống nhất đã trở thành thành viên chính thức thứ 7 của
ASEAN. Tuy vậy, ngay cả sau khi Việt Nam đã là thành viên của ASEAN
(tháng 7 năm 1995) vẫn còn những thắc mắc từ bên ngoài như: tại sao Việt
Nam lại đi nhanh như vậy trong quan hệ với ASEAN, và một sự chuyển biến
nhanh như vậy phải chăng nhằm phục vụ cho ý đồ chiến lược của Việt Nam
nhằm chống một bên nào đó? Ngoài những thắc mắc từ bên ngoài ASEAN,
ngay trong một số nước ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng
của Việt Nam - một nước có trình độ kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so
với các nước ASEAN có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt - tham gia vào
hợp tác ASEAN, và việc Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ
vốn có với Trung Quốc có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN -
Trung Quốc.
Trên cả chặng đường lịch sử, quan hệ Việt Nam và ASEAN mang
những nét thăng trầm nhất định, có những giai đoạn tưởng như đã tiến rất gần
đến nhau nhưng do những bất đồng, biến động khu vực mà Việt Nam-
ASEAN chưa thể là bạn. Quá trình Việt Nam đến với ASEAN không khó
khăn và trường kì như những cuộc kháng chiến trong lịch sử nhưng để dung
hòa mối quan hệ này cần rất nhiều nỗ lực của cả hai bên. Nỗ lực để vượt qua
những hoài nghi, khúc mắc để có thể đến với nhau và cùng hướng tới một
tương lai tốt đẹp hơn của đại gia đình Đông Nam Á.
Quá trình Việt Nam đến với ASEAN đã diễn ra như thế nào? Việt Nam
đã trăn trở, đã thay đổi chính sách đối ngoại của mình ra sao để tự hoàn thiện
và để đáp ứng được với những đòi hỏi của tình hình thế giới, khu vực? Cùng
nhìn lại thập kỷ mang tính lịch sử đó.
3
II. Nội dung
1. Bối cảnh chính sách:
a. Tình hình quốc tế và khu vực
Nửa cuối những năm 80 tình hình quốc tế biến động sấu sắc trên mọi
lĩnh vực.
Cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, có tính
bước ngoặt. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, đẩy mạnh hòa hoãn tạo mối
quan hệ hòa dịu để hợp tác. Năm 1989, mâu thuẫn giữa Liên Xô và Hoa Kỳ
lắng dần xuống, cũng từ năm 1989 cuộc khủng hoảng trầm trọng diễn ra ở các
nước xã hội chủ nghĩa khiến các thiết chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần
lượt sụp đổ, đến năm 1991 Liên Xô tan rã. Khối quân sự VACSAVA không
còn tồn tại. Như vậy cuộc cờ quốc tế hoàn toàn biến đổi, mâu thuẫn Đông-
Tây đã mất đi, đồng nghĩa với trật tự hai cực Yalta chấm dứt. Nhưng chính trị
thế giới vẫn chưa đi vào giai đoạn ổn định, mà tiếp tục với diễn biến gay gắt
dưới hình thức mới là “diễn biến hòa bình” và chống diễn biến hòa bình.
Nhiều mẫu thuẫn cũ vẫn tồn động, xuất hiện thêm những xung đột mới trong
vấn đề an ninh chính trị quốc tế cũng như trong nội bộ các quốc gia như: xung
đột sắc tộc, tôn giáo, nội chiến đẫm máu ở nhiều nơi, lái buôn vũ khí, chiến
tranh cục bộ, mâu thuẫn khu vực, cùng với các vấn đề toàn cầu về môi
trường, dân số, bệnh tật, tội phạm, ma túy…. là những ung nhọt đang đe dọa
hòa bình, an ninh của nhiều dân tộc.
Còn dưới góc độ kinh tế, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đã thúc
đẩy sản xuất vật chất với khối lượng lớn, tạo ra những bước nhảy vọt đáng kể,
đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế của hầu hết các quốc gia. Giai đoạn này,
trong chính sách của các quốc gia lợi ích quốc gia đã được đặt lên hàng đầu
cao hơn so với ý thức hệ. Do đó, các nước chuyển hướng điều chỉnh chiến
lược thay vì chạy đua vũ trang là tập trung phát triển nội lực, tăng cường cạnh
tranh và chạy đua kinh tế, “chấn chỉnh kinh tế”, “cải tổ”, “cải cách mở cửa”
và “ bốn hiện đại hóa” là bốn chương trình được các nước vận dụng tích cực.
Những thay đổi to lớn và cơ bản trong đời sống chính trị, kinh tế dẫn
tới tập hợp những lực lượng mới trên thế giới. Kết thúc cục diện thế giới hai
4
cực, thế giới nổi lên nhiều xu thế mới, trong đó chủ đạo là: xu hướng đa dạng
hóa, đa phương hóa, toàn cầu hóa và cả khu vực hóa, vừa đối đầu vừa đối
thoại, vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Những quốc gia không có cùng chế độ
chính trị cũng hợp tác với nhau cùng tồn tại hòa bình.
Riêng khu vực Đông Nam Á trải qua một thập niên phát triển năng
động đầy hứa hẹn. Vấn đề Campuchia được giải quyết bằng Hiệp đinh Paris
1991 đã mở ra giai đoạn bình thường hóa quan hệ và hợp tác giải quyết các
vấn đề khu vực, những hoài nghi, đối đầu căng thẳng của hai nhóm nước
Đông Dương và ASEAN được xoa dịu, bắt đầu chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
b. Tình hình trong nước
Từ năm 1986, trước yêu cầu bức bách của tình hình trong nước: khủng
hoảng kinh tế trầm trọng, mục tiêu tổng thể của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985
thất bại: Việt Nam không chỉ thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn về quản lý
kinh tế nói chung mà còn chịu sức ép hết sức phức tạp về môi trường phát
triển kinh tế: Các nguồn viện trợ cho “Việt Nam đánh Mỹ” đã bị cắt giảm đột
ngột, các vụ bạo loạn, kích động và quấy phá cách mạng nổi lên ở nhiều nơi,
nhất là ở hai khu vực biên giới phía Tây Nam và phía Bắc; nhu cầu chi ngân
sách đột ngột tăng lên - nhất là chi chính sách xã hội và chi xây dựng cơ bản;
đời sống vốn khó khăn nhưng lại phải chi viện cả sức người, sức của giúp
nhân dân Campuchia. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong nền kinh tế
nói chung, do đã bị kéo dài quá lâu và không còn hợp với thời kỳ phát triển
kinh tế - xã hội trong thời bình gây ra mất lòng tin trong nhân dân vào nhà
nước giảm sút. Bên cạnh đó, Mỹ và phương Tây tiếp tục duy trì bao vây, cấm
vận đối với VN.
Cộng thêm những biến động quốc tế và khu vực (như đã nói trên) là
những nguyên nhân buộc Việt Nam chỉ có lựa chọn duy nhất đó là: Đổi mới
toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy đối ngoại để giải quyết những
vấn đề quốc tế bất lợi cho đất nước và có được một vị trí vững chắc hơn trên
trường quốc tế và Công cuộc đổi mới đó được đánh dấu bằng Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12/1986,
thông qua các nghị quyết của Bộ chính trị. Và các văn kiện tại các kỳ Đại hội
kế tiếp cũng đều đề cập đến vấn đề chiến lược trong chính sách đối ngoại.
5
Đặc biệt, vấn đề Campuchia dần được giải quyết bằng thương lượng chính trị,
mở ra cho Việt Nam một vị thế mới trong khu vực, nới lỏng những bất đồng
và thắt chặt thêm quan hệ hợp tác cùng phát triển.
2. Nội dung và triển khai chính sách
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, do chủ quan,
nóng vội, duy ý chí và sự yếu kém của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp (vốn có tác dụng trong thời chiến), đất nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã
(774,7% năm 1986). Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, trong khi đất nước
rơi vào tình thế bị bao vây, cấm vận nặng nề. Trên cơ sở phân tích một cách
khoa học tình hình thế giới với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VI của
Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích một cách khách quan những sai lầm,
khuyết điểm và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và đi đến quyết định lịch
sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện.Về đối ngoại, Đại hội VI
nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “ tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “cần hoà bình
để phát triển kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung
ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hoà bình
để phát triển, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung
của thế giới.
Trong quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đảng ta chỉ
rõ: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại
hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp
tác”. Đây là những quyết nghị hết sức đúng đắn, sáng tạo của Đảng về chính
sách đối ngoại trong giai đoạn cách mạng mới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia
nhập ASEAN của Việt Nam.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI đề ra, trên các diễn
đàn quốc tế và khu vực, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng
6
định lập trường của Việt Nam là được chung sống hòa bình với các nước
trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực
hòa bình, ổn định và phát triển. Trả lời phỏng vấn Tạp chí Quan hệ Quốc tế
(tháng 10-1991), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã nêu rõ
chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các nước trong khu vực, trong đó
khẳng định: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mà trước hết là Đông Nam
Á và Đông Á, giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam…”. Tháng 1-1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á - Thái Bình
Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: Việt Nam sẵn sàng phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực. Cũng tại
Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: Việt Nam
sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Những phát biểu trên một
lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề gia nhập ASEAN: “Việt Nam nỗ lực gia nhập ASEAN”. Để hiểu
hơn về vấn đề này chúng ta sẽ điểm qua vài vấn đề trong tiến trình Việt Nam
nỗ lực gia nhập ASEAN - những khó khăn cũng như thử thách.
Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam
đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước
ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia). Vào những năm 1970, quan hệ
Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển cùng với thắng lợi của
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, và đặc biệt qua
chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng
năm 1978, sau khi Việt Nam thống nhất và trở thành Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Các bên đã bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh
chính trị như khả năng ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Tuy nhiên các
sự kiện tiếp theo liên quan đến Campuchia đã làm quan hệ hai bên trở nên xấu
đi, thậm chí đối đầu vào những năm 80. Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam,
đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó Việt Nam chủ trương chính sách
đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Thực hiện đường lối này Việt
Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ giữa 2
bên đang dần được gỡ bỏ, vấn đề Campuchia đang đi dần vào giải pháp hòa
bình. Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết (23/10/1991), vị thế của Việt
7
Nam trên trường quốc tế được cải thiện, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới
được thúc đẩy nhanh, mạnh hơn. Trên tinh thần “Biến Đông Dương từ chiến
trường thành thị trường” của các nước ASEAN hoà nhập với quan điểm của
Việt Nam là “lợi ích của Việt Nam gắn liền với lợi ích của khu vực”, sự cải
thiện tích cực quan hệ Việt Nam - ASEAN đã tạo điều kiện cho Việt Nam ký
hiệp ước Bali (1992) trở thành quan sát viên của tổ chức này. Cụ thể hoá Nghị
quyết ĐH VII xác định công tác đối ngoại giữ vị trí quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết Trung ương
3 khoá VII (29/6/1992) đã chủ trương “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương
hoá quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật,
cả về Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ,
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát
triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của
nền văn hoá dân tộc”.
Với tư cách quan sát viên, Việt Nam đã thúc đẩy các quan hệ đa
phương với cả tổ chức ASEAN. Từ đầu năm 1994 Việt Nam đã tham dự với
tư cách quan sát viên các cuộc họp của sáu ủy ban hợp tác chuyên ngành
ASEAN là khoa học công nghệ, môi trường, văn hóa thông tin, phát triển xã
hội, phòng chống ma túy và các vấn đề công vụ. ASEAN đã mời Việt Nam
tham gia với tư cách là quan sát viên của nhiều cuộc họp các cấp khác nhau
như hội nghị thường niên ngoại trưởng ASEAN, ủy ban thường trực ASEAN,
… để làm quen dần với cơ chế hoạt động của tổ chức này. Tại Hội nghị ngoại
trưởng ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc(7/1994) các nước ASEAN đã nhất trí
tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Việt Nam là thành viên của ASEAN. Sau một
loạt các tham khảo và thỏa luận ý kiến giữa Việt Nam ngày 17/10/1994 Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam đã gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Brunay,
chủ tịch đương nhiệm ủy ban thường trực ASEAN, chính thức đặt vấn đề Việt
Nam muốn trở thành thành viên đầy đủ của hội nghị. ASEAN hoan nghênh
quyết định quan trọng này của Việt Nam.
Về phần mình Việt Nam luôn bày tỏ lòng mong muốn phát triển quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN, sự xích lại gần nhau giữa Việt
8
Nam và ASEAN có thêm những nhân tố thúc đẩy mới sau việc Trung Quốc
sử dụng vũ lực đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa (Việt Nam)
và thái độ của Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh
chấp về lãnh thổ cùng với việc Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết quân khỏi
Campuchia trước thời hạn vào năm 1988, mặc dù lúc đó chưa đạt được giải
pháp về vấn đề Campuchia. Điều đó cũng tạo dựng được lòng tin vào thiện
chí của Việt Nam trong chính sách tăng cường hợp tác khu vực.
Bên cạnh những thay đổi sâu sắc diễn ra trên thế giới và ở khu vực từ
năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA, về sự liên kết cùng nhau
phát triển đã đưa đến sự thông cảm hơn giữa Việt Nam và ASEAN về lợi ích
an ninh của nhau, để tiến tới cùng chia xẻ một số phận chung của các dân tộc
Đông Nam Á. Ngoài những thắc mắc từ bên ngoài ASEAN, ngay trong một
số nước ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng của Việt Nam -
một nước có trình độ kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước
ASEAN có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt - tham gia vào hợp tác
ASEAN, và việc Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ vốn có
với Trung Quốc có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN - Trung
Quốc.
Nghị quyết 13 Bộ Chính trị là cơ sở để phát triển và nâng cao đường lối
đối ngoại đổi mới thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ như ngày nay. Triển khai thực hiện tư duy đó, Việt Nam
đã rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia trước thời hạn (1989), sau đó
cùng các bên liên quan ký Hiệp định Paris về một giải pháp cho vấn đề
Campuchia (1991), bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (1991) và từng
bước cải thiện quan hệ với từng nước ASEAN.
Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam tích cực
tham gia vào các hoạt động của tổ chức này trên mọi phương diện hợp tác và
được dư luận các nước ĐNA và quốc tế đánh giá cao. Những sự kiện trong
năm 1995 đã được nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu:
“Cùng với việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký hiệp định hợp tác với
liên minh châu Âu và Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, lần
đầu tiên kể từ khi giành được độc lập 50 năm trước đây, nước ta có quan hệ
với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Đây
9
là kết quả, biểu hiện, đồng thời là sự khẳng định tính đúng đắn của chính sách
ngoại giao rộng mở của chúng ta”.
Sau khi Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, “nút thắt” đầu
tiên trong quan hệ của ta với các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm phán
giữa ta và các nước ASEAN về việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được đẩy
nhanh. Ngày 28-7-1995, chúng ta đã gia nhập ASEAN và trở thành thành
viên chính thức thứ bảy của tổ chức tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN lần thứ 18. Sự kiện trọng đại này thể hiện rõ nét chính sách chủ động
hội nhập khu vực và quốc tế của ta. Đánh giá thắng lợi đó, Báo Sài gòn Giải
phóng số ra ngày 20-9-1995 viết: Lịch sử đã thực sự sang trang mới ở khu
vực này. Nhân tố Việt Nam trong ASEAN không chỉ đưa lại tác động tích cực
về hợp tác kinh tế với một thị trường hơn 70 triệu dân đầy sức hấp dẫn mà
còn có ý nghĩa chính trị sâu rộng.
3. Kết quả và đánh giá
Ngày 12/1/1995, Bộ trưởng Ngoại giao Brunei đã gửi thư cho nhà nước
ta thông báo lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN sẽ được tiến hành trong dịp
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Brunei (tháng 7/1955). Lễ kết nạp trọng
thể đã diễn ra tại Cung hội nghị quốc tế Brunei, một ngày trước khi hội nghị
ngoại trưởng chính thức khai mạc và Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 7
của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất
nước Brunei Darussalam tươi đẹp, trong tiếng Quốc ca hùng tráng, Quốc Kỳ
Việt Nam đã tung bay phấp phới cùng cờ của 6 thành viên ASEAN khác, mở
ra một trang sử mới của khu vực: Việt Nam chính thức là thành viên thứ 7 của
ASEAN. Sự kiện này là một dấu son trên con đường hội nhập khu vực và thế
giới, đưa nước ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây cũng là nguyện vọng của những người sáng lập ra ASEAN và nhân dân
trong khu vực về một hiệp hội bao gồm 10 nước trong khu vực, một ASEAN
của Đông Nam Á, do Đông Nam Á, và vì Đông Nam Á, trong đó các quốc
gia thành viên cùng nhau hợp tác vì hoà bình, ổn định, phát triển, phồn vinh,
góp phần vào sự nghiệp hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
10
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tổ chức
này đã có những chuyển biến quan trọng về cả lượng và chất, trở thành nhân
tố thiết yếu cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở Đông Nam Á, Đông
Á Thái Bình Dương và thế giới. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng là kết
quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương
hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế giới mà Đảng và Nhà nước ta
đã vạch ra.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự phát triển quan trọng ở khu
vực. Nó đã chấm dứt hơn nửa thế kỉ Đông Nam Á bị chia ra làm 2 trận tuyến
đối nghịch nhau, mở ra một thời kì mới trong khu vực, thời kì các bên tăng
cường hợp tác cùng phát triển, vì lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung của
toàn khu vực.
Việc ASEAN kết nạp thêm Việt Nam đã làm tăng uy tín và vị thế của
ASEAN trên trường quốc tế, mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ tổ chức này
trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, nó khẳng định xu thế mở rộng của ASEAN bao
gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, một ý tưởng mà ASEAN đã dự định
ngay từ khi thành lập.
Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định chủ trương gia nhập ASEAN là
quyết sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng.
Tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan
trọng và thiết thực về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và đối ngoại,
mà bao trùm là giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng như hỗ trợ cho Việt Nam hội nhập khu vực và
quốc tế.
Điều quan trọng hàng đầu là tham gia ASEAN đã giúp duy trì môi
trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác và phát triển ở
khu vực Đông Nam Á, thông qua việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN
thống nhất, liên kết chặt chẽ và có vai trò ngày càng quan trọng ở khu vực
cũng như hình thành các mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên.
Hội nhập và tham gia vào các hoạt động hợp tác của ASEAN cũng giúp
Việt Nam tranh thủ được những lợi ích thiết thực về kinh tế - thương mại và
văn hóa - xã hội, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tham gia liên kết kinh tế nội khối ASEAN cũng như các thỏa thuận Thương
11
mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác một mặt giúp Việt Nam thu hút được
ngày càng tăng đầu tư và kinh doanh từ bên ngoài, mặt khác, cũng là cầu nối
để Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực. Hơn
nữa, Việt Nam cũng tiếp nhận được thông tin, khoa học - công nghệ, kinh
nghiệm quản lý hiện đại và nguồn lực; nâng cao năng lực thể chế và khả năng
xử lý các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi
khí hậu,…
Là thành viên ASEAN cũng tạo thế cho Việt Nam mở rộng và tăng
cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như
tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực
rộng lớn hơn như ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn hợp tác Châu
Á-Thái Bình Dương (APEC), Tiến trình hợp tác Á-Âu (ASEM), Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO),…; qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế
quốc tế của Việt Nam.
Hội nhập ASEAN đã giúp Việt Nam đào tạo và nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ tham gia các hoạt động đa phương cũng như hội nhập khu vực
và quốc tế; góp phần tạo bước chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và
hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước cho phù hợp hơn với yêu
cầu hội nhập.
Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông
Nam Á chia rẽ thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới
tất cả các nước trong khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp
tác với nhau để mỗi nước phát triển và cả khu vực cùng phát triển, mở ra triển
vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao
gồm tất cả các nước trong khu vực.
Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ
trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước
trong khu vực nhìn nhận về vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình
hình quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần
Việt Nam.
Tuy vậy, gia nhập ASEAN ta cũng có một số khó khăn, thách thức ban
đầu nhất định, như sự đồng thuận xã hội chưa cao, trình độ phát triển kinh tế
còn thấp so với các thành viên khác, do nền kinh tế của ta có xuất phát điểm
12
thấp, lại bị tàn phá nặng nề qua 30 năm chiến tranh liên tục, tiếp đó là cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài; đội ngũ cán bộ của ta còn
thiếu kiến thức và kinh nghiệm hoạt động trong các tổ chức đa phương và
trong hội nhập. Lần đầu tiên, trong ASEAN tồn tại các thành viên thuộc các
thể chế chính trị khác nhau. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn
tương đối thấp so với các thành viên khác. Điều này có thể ảnh hưởng đến
tiến trình hợp tác kinh tế ASEAN. Có những băn khoăn, lo ngại về khả năng
hoàn thành các nghĩa vụ thành viên, đóng góp cũng như tham gia đầy đủ và
các hoạt động ASEAN.
Nhưng tóm lại, việc gia nhập ASEAN là một quyết sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước và nó đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới giúp
đất nước ta vươn lên mạnh mẽ. Đó cũng là một sự thắng lợi to lớn về mặt
chính sách đối ngoại của nước ta.
4. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
quá trình Việt Nam hội nhập và phát triển cùng ASEAN. Đây được coi là
nguyên tắc quan trọng hàng đầu, nó không chỉ góp phần cho Việt Nam hội
nhập và phát triển đúng hướng mà còn tạo ra sự thống nhất trong tư tưởng và
hành động khi vị trí, vai trò của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong tổ
chức này. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình này còn thể hiện chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào,
Việt Nam cũng mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
khu vực và trên thế giới. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
là tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, trên tinh thần hợp tác,
bình đẳng cùng có lợi giữa các nước thành viên. Việt Nam luôn lấy mục tiêu
lợi ích chung giữa các quốc gia làm điểm tương đồng trên cơ sở thống nhất
trong sự đa dạng nhằm tạo ra sự đồng cảm và nhất trí cao đối với những vấn
đề có tác động chi phối với các thành viên.
Thứ hai, giữ vững tinh thần chủ động hội nhập và phát triển trong
ASEAN. Việt Nam hoà nhập vào ASEAN nhưng không lệ thuộc, không trông
chờ, ỷ lại, thụ động. Chúng ta tôn trọng những gì bè bạn đã hợp tác, giúp đỡ,
nhưng đồng thời phải khẳng định có tính nguyên tắc: hợp tác trên tinh thần tự
lực, tự cường, giữ vững độc lập chủ quyền về các mặt. Đẩy mạnh hội nhập và
13
phát triển cùng ASEAN là nhằm để bảo vệ nền sản xuất trong nước, khai thác
có hiệu quả tài nguyên quốc gia, góp phần củng cố độc lập dân tộc, đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu; giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu tổng
quát là nhằm tạo ra những lợi thế để Việt Nam sớm khẳng định vị trí và vai
trò của mình với tư cách là đối tác bình đẳng cùng có lợi với các nước trong
ASEAN và trên thế giới.
Thứ ba, lấy hội nhập vào ASEAN là cơ sở để đẩy mạnh quan hệ hợp
tác với các nước trên thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, cùng với việc đẩy
mạnh hợp tác trong khu vực ASEAN, Đảng ta luôn đẩy mạnh quan hệ hợp tác
với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội.
Hội nhập với ASEAN nhưng không chỉ chú trọng đến ASEAN mà xem nhẹ
các quan hệ khác. Ngược lại, cũng không chỉ chú trọng đối tác với các nước
khác mà xem nhẹ vai trò của ASEAN. Quan hệ và hợp tác nhiều mặt nhưng
vẫn giữ được chủ quyền của mình cả về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội
quốc phòng, an ninh mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một áp lực nào từ
bên ngoài.
III. Phần kết luận
Cho đến nay, ASEAN đã có một quá trình hơn 40 năm hình thành và
phát triển. Đó là quá trình ngày càng kiện toàn về chức năng của một tổ chức
mang tính chất khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa thế giới.
Qúa trình ấy không hoàn toàn tuân theo một con đường thảng mà có nhiều
giai đoạn quanh co phức tạp bởi những biến động to lớn trong khu vực và trên
thế giới. Nhưng vượt qua mọi trở ngại thử thách thậm chí có khi dẫn đến nguy
cơ tan rã, ASEAN hiện nay ngày càng hoàn thiện, trở thành một tổ chức hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, gắn kết các nước thành viên trong khu vực cũng như
giữa khu vực với phần còn lại cảu thế giới.
ASEAN ban đầu chỉ có 5 nước thành viên ( một nữa số quốc gia Đông
Nam Á) nên chưa thể được coi là một tổ chức khu vực theo đúng nghĩa của
nó. Các quan hệ giữa 5 nước này chỉ hạn chế trên lĩnh vực an ninh – chính trị,
đặc biệt là mối quan hệ đối đầu với Việt Nam luôn làm cho tình hình khu vực
luôn luôn căng thẳng, không có lợi cho các nước thành viên cũng như các
nước khác trong khu vực.
14
Đánh giá về quyết định gia nhập ASEAN, Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng đó là một quyết sách
đúng đắn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ông khẳng định: “Việt Nam gia nhập
ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông Nam Á chia rẽ thành 2
khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất cả các nước trong
khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác với nhau để mỗi
nước phát triển và cả khu vực cùng phát triển, mở ra triển vọng hiện thực
hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao gồm tất cả các
nước trong khu vực. Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau
giữa chủ trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của
các nước trong khu vực nhìn nhận về vai trò của Việt Nam trong bối cảnh
mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và
ASEAN cũng cần Việt Nam.”
Rõ ràng là cần một khoảng thời gian dài để có thể vượt qua tất cả
những khó khăn, để hiểu nhau về nhau hơn và cùng nhau xây dựng một cộng
đồng ASEAN hòa bình và phát triển.
IV. Phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
1. Các thành viên của ASEAN
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo
ngày gia nhập:
− Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967):
+ Cộng hoà Indonesia
+ Liên bang Malaysia
+ Cộng hoà Philippines
+ Cộng hòa Singapore
+ Vương quốc Thái Lan
− Các quốc gia gia nhập sau:
+ Vương quốc Brunei (ngày 8 tháng 1 năm 1984)
15
+ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28 tháng 7 năm 1995)
+ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
+ Liên bang Myanma (ngày 23 tháng 7 năm 1997)
+ Vương quốc Campuchia (ngày 30 tháng 4 năm 1999)
− Hai quan sát viên và ứng cử viên:
+ Papua New Guinea : quan sát viên của ASEAN.
+ Đông Timo : ứng cử viên của ASEAN
Hình 1: />2. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN
Tổ chức này tổ chức các cuộc họp, được gọi là Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN, nơi các nguyên thủ quốc gia của mỗi thành viên gặp mặt để thảo
luận và giải quyết các vấn đề khu vực, cũng như để tổ chức các cuộc hội hop
khác với các nước bên ngoài khối với mục đích thúc đẩy quan hệ bên ngoài.
16
Hội nghị Thượng đỉnh Chính thức ASEAN
Date Country Chủ nhà
1 23–24 tháng 2 năm 1976 Indonesia Bali
2 4–5 tháng 8 năm 1977 Malaysia Kuala Lumpur
3 14–15 tháng 12 năm 1987 Philippines Manila
4 27‒29 tháng 1 năm 1992 Singapore Singapore
5 14‒15 tháng 12 năm 1995 Thái Lan Bangkok
6 15‒16 tháng 12 năm 1998 Việt Nam Hà Nội
7 5‒6 tháng 11 năm 2001 Brunei Bandar Seri Begawan
8 4‒5 tháng 11 năm 2002 CampuchiaPhnom Penh
9 7‒8 tháng 10 năm 2003 Indonesia Bali
10 29‒30 tháng 11 năm 2004 Lào Vientiane
11 12‒14 tháng 12 năm 2005 Malaysia Kuala Lumpur
12 11‒14 tháng 1 năm 2007 Philippines Cebu
13 18‒22 tháng 11 năm 2007 Singapore Singapore
17
14
27 tháng 2 - 1 tháng 3 năm
2009
10-11 tháng 4 năm 2009
Thái Lan
Cha Am, Hua Hin
Pattaya
15 23 tháng 10 năm 2009 Thái Lan Cha Am, Hua Hin
16 08-09 tháng 4 năm 2010 Việt Nam Hà Nội
17 28-30 tháng 10 năm 2010 Việt Nam Hà Nội
18 19-20 tháng 11 năm 2011 Indonesia Manado
Hình 2: www.vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_hội_các_quốc_gia_Đông_Nam_Á
Hội nghị Thượng đỉnh Không Chính thức ASEAN
Ngày Quốc gia Chủ nhà
1 30 tháng 11 năm 1996 Indonesia Jakarta
2 14‒16 tháng 12 năm 1997 Malaysia Kuala Lumpur
3 27‒28 tháng 11 năm 1999 Philippines Manila
18
4 22‒25 tháng 11 năm 2000 Singapore Singapore
Hình 3: www.vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_hội_các_quốc_gia_Đông_Nam_Á
3. Tài liệu tham khảo:
1. ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia
( 1997)
2. Ngoại Giao Việt Nam 1945-2000 – Nhà xuất bản hành chính quốc gia,
Hà Nội,2005.
3. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN), Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội,1998
4. ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia,
1997
5. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam- HVQHQT- nhà
xuất bản chính trị quốc gia.
6. www.tapchicongsan.org.vn/ truy cập ngày 25/02/2011
7. truy cập
ngày 30/2/2011
8.
truy cập ngày 20/02/2011
9.
3/nr050517173318/ns050525133630) truy cập ngày 23/02/2011
10.www.vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_hội_các_quốc_gia_Đông_Nam_Á
truy cập ngày 23/02/2011
19
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Nhìn chung trong quá trình làm việc cả nhóm đều cố gắng nỗ lực rất
lớn trong việc nghiên cứu tìm kiếm tài liệu. Tất cả các thành viên trong nhóm
có tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, luôn đúng giờ khi tham gia họp nhóm
cũng như nộp bài. Nhưng do đây là lần đầu tiên chúng em làm tiểu luận nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong cô thông cảm và giúp đỡ thêm để
chúng em tiến bộ hơn trong những lần tiếp theo. Em cho điểm các thành viên
trong nhóm là cho điểm tinh thần thái độ tham gia làm việc thôi, còn chất
lượng bài làm thì để cô đánh giá. Cụ thể phân công công việc và cho điểm
từng thành viên trong nhóm như sau:
1. Hoàng Thị Minh: sắp xếp lịch làm việc cho nhóm, phân công
công việc, tổng hợp và chỉnh sửa lại bài cho cả nhóm, làm phần
bài học kinh nghiệm và cùng bạ Tươi làm phần kết quả và đánh
giá. 9 điểm
2. Bùi Thị Tươi: làm phần kết quả và đánh giá. 9 điểm
3. Mai Thị Hải Yến: làm phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và
phụ lục. 9 điểm
20
4. Trần Thị Vân Anh: làm phần bối cảnh chính sách. 9 điểm
5. Lê Thị Nhung: làm phần triển khai chính sách. 9 điểm
Thay mặt cả nhóm:
Nhóm trưởng:
Hoàng Thị Minh
21