Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

LÔ HỘI (ALOE VERA) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.43 KB, 19 trang )

LÔ HỘI (ALOE VERA)

Cây thuốc vượt khỏi sự phân cách giữa Đông và Tây Y
Một trong những dược-thảo đã vượt được hàng rào ngăn cách giữa
Đông và Tây Y, để được mọi ngành Y-học cùng xử dụng là Lô-hội. Ngay cả
Hoa-Kỳ, vốn được xem là một nước chậm tiến trong việc dùng thảo mộc để
chữa bệnh, cũng đã dùng Lô-hội trong nhiều dược phẩm và mỹ phẩm. Hơn
nữa nhiều Nhà nghiên cứu Mỹ đã phải khuyên dân Mỹ là mỗi nhà nên
trồng một cây để vừa làm cảnh và vừa làm thuốc dùng khi cần cấp cứu vì
phỏng !
TÊN KHOA HỌC :
Aloe vera hoặc Aloe barbadensis thuộc Họ Thực vật Aloeaceae
(Liliaceae). Tên Aloe vera được chính thức công nhận bởi Quy ước Quốc tế
về Danh xưng thực vật (International Rules of Botanical Nomenclature), và
A. barbadensis được xem là một tên đồng nghĩa.
Tuy nhiên trong Danh Mục Cây thuốc của WHO, Aloe được xem là
tên chung của khá nhiều loài khác nhau như Aloe chinensis, A.elongata,
A.indica, A.officinalis ngoài ra một loài Aloe khác Aloe ferox cũng được
chấp nhận là một cây cung cấp nhựa Aloe.
Mỹ gọi cây Aloe vera dưới tên Curacao Aloes, còn Aloe ferox dưới
tên Cape Aloes .
Pháp gọi dưới những tên : Aloe de Curacao, Aloe du Cap
Đông y gọi là Lư-hôi (Lu-hui)
Tổ chức WHO cũng liệt kê tên gọi của Lư-Hôi tại các nước với 78
danh xưng khác nhau
Tại Việt Nam, cây được gọi là Lô-hội hoặc Nha đam, Lưỡi hổ
LỊCH SỬ và ĐẶC TÍNH THỰC VẬT :
Lư hôi đã được dùng làm thuốc trị bệnh từ khi chưa có lịch sử. Sách
thuốc cổ Ai-cập (3500 năm trước Tây lịch) đã chỉ dẫn cách dùng Lư-hôi để
trị nhiễm trùng, các bệnh ngoài da và làm thuốc nhuận trường, trị táo bón.
Lư-hôi đã được vẽ và mô tả trên các bản văn làm bằng đất sét tại


Mesopotamia từ năm 1750 trước Tây lịch như một cây thuốc.
Tên "Aloe" có thể phát xuất từ chữ Ả-rập "Alloeh" với ý nghĩa là một
chất đắng và óng ánh. Lư-hôi là một cây thuốc, không thuc loại ma-túy,
nhưng đã gây ra cả một cuộc chiến tranh : Khi Đại đế Alexander chinh phục
Ai cập vào năm 332 trước Tây lịch, Ông đã nghe nói đến một cây thuốc có
khả năng trị vết thương thần kỳ tại một hòn đảo tên là Socotra, ngoài khơi
Somalia, và để lấy cây này về làm thuốc cho quân của mình, đồng thời ngăn
chặn địch quân không cho họ chiếm được cây thuốc này, Ông đã gửi hẳn
một đoàn quân đi chiếm hòn đảo ( có lẽ là Madagascar.ngày nay) và cây này
chính là Lư-hôi.
Cũng nên ghi nhận là tên của dược chất ‘Aloe’ được ghi trong Phúc
Âm Thánh Gioan (19 : 39-40) dùng để ướp xác Chúa Jesus không phải từ
Lư-hôi, nhưng từ một cây khác gọi là Aloewood. (Cây này được Người Việt
Nam gọi là Cây Gió bầu cung cấp 2 hương liệu quý : Trầm Hương và Kỳ
Nam)
Y-sĩ trứ danh người Hy-lạp, Ông Dioscorides đã dùng Lư-hôi để trị
vết thương ngoài da, bệnh trĩ, vết ung loét và cả rụng tóc. Y sĩ La-mã Pliny
đã biết dùng Lư-hôi để trị táo bón.
Các nhà buôn Ả rập đã đem Lư-hôi từ Tây Ban Nha sang các nước Á
đông trong khoảng Thế kỷ thứ 6 và từ đó Y-học Ayuravedic biết dùng Lư-
hôi để trị bệnh ngoài da, ký sinh trùng đường ruột và cả đau bụng khi có
kinh.
Tuy Lư-hôi có nguồn gốc từ Phi châu, nhưng sau đó đã được đưa sang
trồng tại Mỹ châu, nhất là vùng West-Indies và dọc bờ biển Venezuela.
Trong Thế kỷ 19, đa số Aloe xuất cảng sang Âu châu đều từ các đồn điền tại
West-Indies thuộc địa của Hòa Lan (tại các đảo Aruba và Barbados), qua hải
cảng Curacao, nên được gọi là Curacao Aloe, Barbados Aloe. Các Aloe của
Phi châu như Cape Aloe, Uganda Aloe, Natal Aloe. được gọi chung dưới tên
thương mãi Zanzibar Aloe.
Trong những năm gần đây Hoa Kỳ đã trồng khá nhiều Aloe vera tại

Florida, Texas và Arizona do ở nhu cầu chất nhày (gel) trích từ Aloe để làm
mỹ phẩm tăng cao.
Lư-hôi thuộc loại cây nhỏ, gốc thân hóa gỗ, ngắn. Lá không có cuống,
mọc vòng rất sát nhau, màu từ xanh nhạt đến xanh đậm, hẹp nhưng mập
mọng chứa nước; mép lá có răng cưa thô như gai nhọn, mặt trên lõm có
nhiều đốm không đều dài từ 30-60 cm. Cụm hoa dài đến 1m , mọc dạng
chùm dài manh nhiều hoa, lúc non mọc đứng sau rủ xuống, hoa màu vàng
dài cỡ 3-4 cm. Quả hình trứng khi non màu xanh, đổi thành nâu khi già.
Cây Lư-hôi rất dễ trồng trong nhà vì cây ít cần nước và ít cần chăm
sóc. Cây tuy thích ánh sáng mặt trời nhưng cũng chịu được bóng mát và đất
cằn cỗi. Cây không chịu được úng nước và nhiệt độ lạnh dưới 40 độF, do đó
tại Vùng Tây-Bắc Hoa Kỳ nên đem cây vào trong nhà khi mùa Đông đến.
Aloe có thể trồng bằng chồi non rất dễ dàng. Trong số hơn 300 loài Aloe,
ngoài Aloe vera , Aloe ferox dùng làm thuốc, còn môt loài được dùng làm
cây cảnh rất đẹp như Aloe variegata (Lô-hi mỏ két) , hoa màu đỏ ; Aloe
macu lata (Lô-hi vằn) , hoa màu da cam
THÀNH PHẦN HÓA HỌC :
Lư-hôi (Aloe vera) là nguồn cung cấp 2 dược liệu khác hẳn nhau.
1- Dược liệu thứ nhất là một chất nhựa (Latex)
Ngay dưới lớp biểu bì hay ‘da’ mỏng của là cây Lư-hôi có những tế-
bào đặc biệt gọi là pericyclic cells, chứa một chất nước cốt (juice) , sau khi
chảy ra, tự cô đặc lại ở nhiệt độ bình thường, màu vàng rất đắng. Chất nước
cốt tự khô này chứa các hoạt chất hydroanthrone :
- Các chuyển hóa chất Hydroanthracene, mà những chất quan trọng
nhất là Aloin A và B (từ 25 đến 40 %) ( Hỗn hợp Aloin A và B còn được gọi
là Barbaloin); Hydroxy- Aloin A và B (từ 3 đến 4 %); một ít Aloe-emodin
và Chrysophanol.
- Các chuyển hóa chất Chromones gồm 8-C-Glycosyl chromone ( hay
Aloeisin) ( khoảng 30 %) và các Aloeresin A và B.
2- Dược liệu thứ 2 là một chất nhày (Gel).

Chất nhầy này có thể lấy bằng cách nghiền các tế bào nhày nằm phía
trong của lá Lư-hôi tươi. Chất nhày này chứa một loại Polysaccharide gồm :
Pectin, Hemicellulose, Gluco mannan, Acemannan và các chuyển hoá chất
mannose.
3- Trong Lư-hôi còn có thêm những chất khác như :
- Phân hóa tố: Bradykinase.
- Các amino-acids, Lipids, Sterols (Lupeol, Campesterol Beta-
sitosterol).
- Tannins
- Hợp chất hữu cơ loại Magnesium lactate,
- Một chất kháng-prostaglandins.
DƯỢC TÍNH và CÁCH XỬ DỤNG
A- Lư hôi trong Đông Y
Đông Y cổ truyền dùng Lư-hội dưới dạng chất chất nhựa từ lá cô-đặc.
Dược liệu được lấy từ các loài Aloe vera var chinensis hay A. ferox trồng tại
các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Theo Đông Y thì Lư hi có vị đắng, tính hàn
tác dụng vào các kinh mạch thuộc Can, Vị và Đại trường.
- Lư-hôi có tác dụng hạ Hỏa, tống ứ : dùng để trị táo bón, chóng mặt,
mắt đỏ và tinh thần cáu kỉnh do ở ‘Nhiệt’ ứ Đông dược dùng chung với Chu-
sa (Cinnabaris =zhu sha) để trị táo bón kinh niên do ở nhiệt ứ.
- Lư-hôi diệt được ký-sinh trùng, và bổ được Vị : trị được trẻ em
chậm phát triển vì sán lãi.
- Lư-hôi ‘thanh nhiệt’ và làm mát Gan : trị các chứng đau hạ vị, chóng
mặt, nhức đầu, ù tai, cáu bực, bón và sốt nóng do ở Nhiệt tại Can kinh . Lư-
hôi được dùng chung với Rễ Long-đởm ( Radix Gentianae Longdan cao
=long-dan-cao) và Hoàng cầm (Radix Scutellariae Baicalensis)
- Liều dùng trong Đông Y : từ 0.3-1.5 gram dưới dạng viên , hoàn
hoặc bột ( không công hiệu khi dùng dưới dạng thuốc sắc)
B- Lư-hôi trong TÂY Y
Tây-Y xử dụng Lư hôi như hai loại dược phẩm khác hẳn nhau : Aloe

gel và Nhựa Aloe.
1- Khả năng trị liệu của Aloe gel :
Tác dụng trị Phỏng và giúp làm lành vết thương :
Khả năng của Aloe gel trong việc giúp trị lành các vết thương đã được
ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1935 khi Tạp chí Y khoa Mỹ công bố trường
hợp một phụ nữ bị phỏng vì tia X được trị lành bằng cách đắp chất nhày lấy
trực tiếp từ một cành lá Aloe.
Sau đó các tác dụng của Aloe gel trên vết thương và vết bỏng đã được
nghiên cứu rất kỹ tại khắp nơi trên thế giới, riêng công trình nghiên-cứu tại
ĐH Texas (Galverton) đã ghi nhận : Aloe gel có thể :
- đi sâu vào mô tế bào.
- có tác dụng làm tê tế bào.
- diệt vi-khuẩn, siêu vi-khuẩn và ngăn sự phát triển của nấm gây bệnh.
- chống sưng.
- làm giãn nở các vi mạch máu , giúp đưa máu về nuôi dưỡng các tế
bào bị hư-hại.
Tác dụng chống sưng của Aloe gel đã được giải thích bằng 3 cơ-chế
sinh học (Journal of the American Pediatric Medical Association No 84-
1994)
- Phân hóa tố Bradykinase (loại Carboxypeptidase) trong Aloe gel có
thể ức chế tác dụng gây đau nhức của Bradykinin.
- Magnesium lactate có khả năng ngăn cản tiến trình tạo Histamin.
- Khi có sự hiện diện của Aloe gel, các chất Thromboxane B2 và
Prostaglandin F2 ( các chất gây ra sưng và đau nhức) đều giảm bớt.
- Hợp chất loại Sterol (Lupeol) trong Aloe gel có tác dụng chống sưng
rất mạnh.
Aloe gel đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn được sự phát
triển của các vi trùng Mycobacterium tuberculosis ( bệnh lao) ,
Staphyloccoccus aureus, Strepto coccus pyogenes (gây mụn nhọt),
Salmonella paratyphi, Pseudomonas, Escherichia coli và các loại nấm gây

bệnh như Candida albicans, Trichophyton (nấm trên tóc), và cả siêu vi
Herpes.
Các thử nghiệm lâm sàng ghi nhận Aloe gel giúp vết thương mau lành
(International Journal of Dermato logy No 30-1991) : Trong thử nghiệm ‘in
vivo’ Aloe gel tạo mau lành bằng kích hoạt trực tiếp hoạt tính của các thực
bào (macrophages) và fibroblasts. Sự kích hoạt Fibroblast làm gia tăng các
sự tổng hợp collagen và proteoglcan giúp sửa chữa các hư hỏng nơi mô tế
bào Tác dụng này có lẽ do ở các polysaccharides loại mannose : Chất
mannose-6-phosphate có lẽ là chất chính tác dụng bằng cách kết dính nơi
các thụ thể của các yếu tố tăng trưởng trên bề mặt của các fibroblast và do
đó gia tăng họat tính của chúng.
Hơn nữa, Acemannan, một hợp chất phức tạp trong lá Aloa cũng cho
thấy có khả năng giúp vết thương chóng lành và giảm được các phản ứng tác
hại của tia phóng xạ trên da (International Journal of Radiation oncology,
biology and physiology Nọ15-1995) Cơ chế tác dụng này gồm 2 mặt : trước
hết Acemannan là một tác nhân kích hoạt thực bào rất mạnh và do đó kích
thích sự phóng thích các cytokines, và thứ đến là các yếu tố tăng trưởng có
thể kết dính trực tiếp với acemannan, tạo sự ổn định và kéo dài khả năng
kích ứng tạo mô tế bào
Tác dụng trị phỏng :
Các vết phỏng cấp 1 và 2 khi được chữa trị bằng Aloe gel cho thấy
thời gian lành vết thương nhanh hơn, đồng thời vết thẹo cũng nhỏ hơn
(Journal of burn care and rehabilitation No 3-1982). Tác dụng này được cho
là do ở Allantoin trong gel. Aloe gel cũng khá hữu hiệu trong các trường hợp
vết thương ngoài da do băng giá (frost bite) và cả cháy da vì phơi nắng quá
độ: khi phân tách tác dụng trên vết thương cho thấy Aloe gel tác dụng như
một chất ức chế Thromboxane A2, một chất trung gian gây tiến trình hư hại
mô tế bào
- Trong trường hợp Phỏng thông thường, vấn đề quan trọng nhất là
phải chữa ngay, càng sớm càng tốt, và điều tốt nhất là dùng ngay một lá Lư-

hôi tươi làm thuốc và đây là tiến trình cần làm :
- Trước hết làm lạnh ngay vùng bị phỏng bằng cách cách ngâm trong
nước lạnh hoặc nước đá chừng 1 phút ( lạnh có tác dụng làm tê, làm ngưng
cảm giác đau và ngăn chặn sự lan tràn của vết thương).
- Cắt một lá Aloe tươi, thành từng đoạn và khía một đường sâu, bóc
lớp vỏ ngoài và thoa chất nhày ngay vào vết thương, để chất nhày tự khô lại
trên vết thương. Có thể lập lại vài lần nếu cần.
Tác dụng trị Nấm nơi bộ phận sinh-dục :
Tuy những thử nghiệm trong ống nghiệm cho thấy Aloe gel có thể
làm Candida albicans (thủ phạm gây bệnh Nấm nơi bộ phận sinh dục phụ-nữ
= Yeast infection) ngưng tăng trưởng.
Nhưng các kết quả này chưa được FDA chấp nhận.
Khả năng kích thích Hệ Miễn nhiễm và trị một vài loại Ung thư :
- các Nhà nghiên cứu tại Đại-học Y-Khoa Tokyo đã tìm thấy những
lectin trong Aloe gel có khả năng kích thích Hệ Miễn nhiễm gia tăng sự sản
xuất các Thực bào có thể diệt được các vi-khuẩn và tế bào ung thư.
- Các nghiên cứu tại Nhật và Hòa lan cho rằng các hợp chất trong
Aloe gel có thể giúp gia tăng sự hoạt động của Hệ miễn nhiễm bằng cách
trung-hòa được các hóa chất độc hại từ các tế bào hư hỏng và nhờ đó giúp
bảo vệ được các tế bào khác còn nguyên vẹn.
- Một nghiên cứu khác tại Trung Tâm Y-học thuộc Viện ĐH Texas
(San Antonio), khi nghiên cứu tác dụng của trích tinh Aloe trên tế bào ung
thư cũng cho thấy những kết quả khả quan ; tuy nhiên về tác dụng của Aloe-
emodin trên tế bào ung thư leukemia thì chưa được Viện Ung Thư Quốc Gia
Hoa Kỳ chấp nhận vì liều xử dụng tương đối cao, gây độc hại cho người
bệnh.
Aloe gel và Bệnh tiểu đường :
- Một thử nghiệm tại Âu châu cho thấy Aloe gel có khả năng làm hạ
đường trong máu nơi thú vật. Và thử nghiệm tại Thái Lan (1996) trên 72
người tiểu đường, tuổi từ 35 đến 60, uống một dung dịch Aloe gel, sau 1

tuần lễ, lượng đường trong máu giảm rõ rệt, và tiếp tục giảm đều trong 35
ngày sau đó; nồng độ triglycerides cũng giảm theo với nồng độ đường
(Phytomedicine No 3-1996).
Aloe gel trong Mỹ phẩm :
Aloe gel được dùng trong nhiều mỹ-phẩm, nhất là những Kem thoa
ngoài da : Nữ hoàng Cleopâtre đã từng dùng Aloe gel để thoa da cho bóng,
nhưng muốn có một làn da đẹp nên dùng Aloe gel tươi, lấy ngay từ lá, vì đa
số các loại gel ‘ổn định hóa’ (stabilized gel) dùng trên thị trường trong các
Kem thoa và Dầu gội đầu (Shampoo) lại không hề có tác dụng trị liệu . Việc
lựa chọn một loại Mỹ phẩm cho thật tác dụng cũng là một vấn đề khó khăn;
tuy nhiên các thử nghiệm cho thấy, các chất gel ngay sau khi trích khỏi lá
cây sẽ thay đổi phẩm chất rất nhanh, nên phải thêm vào ngay những chất
chống oxy-hóa thích hợp. Nhiệt nóng cũng gây hư hại Gel, nên cần tránh xử
dụng nhiệt ; đồng thời cũng còn phải thêm những chất chống mốc để tránh
việc hư hại do vi-khuẩn, nấm mốc .Thông thường thì một nồng độ 40 % gel
trở lên mới có thể có tác dụng sinh học. (Theo tiêu chuẩn của WHO thì chỉ
có gel ở trạng thái tươi mới có tác dụng, và cách trích gel được làm như sau :
Lấy lá tươi, rửa sạch bằng nước có chứa chlorine loãng. Tách bỏ lớp vỏ
ngoài của lá kể cả các tế bào pericyclic Cần thận trọng đừng đựng đến các
khoang màu xanh, vì có thể làm ô nhiễm gel bới các chất nhực của lá. Có thể
sát trùng gel bằng phương pháp pasteurization ở 75-80°C trong thời-gian ít
là hơn 3 phút)
Một số Nhà sản xuất Mỹ phẩm còn quảng cáo là Lư-hôi có thể ngăn
chặn sự lão hóa của da, nhưng thật ra Aloe gel có khả năng thấm ướt, tạo ẩm
độ (moisturizing) trên da, nên làm da bớt bị nhăn. Aloe gel có thể có tác
dụng kích thích sự tổng hợp các chất collagen và sợi elastin, nên có thể ngăn
chặn sự hủy hoại của da trong tiến trình của sự lão suy.(International Journal
of Dermatology No 30-1991
2- Tác dụng trị liệu của Nhựa Aloe
Tác dụng trị liệu chính thức của Nhựa Aloe được Y-học Tây phương

chấp nhận là gây xổ, trị táo bón
Tác dụng làm xổ của Nhựa Aloe do ở 1,8-dihydroan thracen
glycosides, Aloin A và B. Sau khi uống Aloin A và B, không bị hấp thu nơi
phần trên của ruột, sẽ bị thủy phân nơi ruột bởi các vi-khuẩn để trở thành các
chất biến dưỡng có hoạt tính ( chất chính là aloe-emodin-9-anthrone). Tác
dụng xổ của Aloe thường xẩy ra 6 giờ sau khi uống, và có khi chậm đến 24
giờ sau.
Cơ chế hoạt động của Nhựa Aloe gồm 2 phần :
- Kích thích nhu động ruột, gia tăng sự tống xuất và thu ngắn thời gian
thực phẩm chuyển qua ruột, và làm giảm bớt sự hấp thu chất lỏng từ khối
lượng phân.
- Gia tăng sự thẩm thấu tế bào qua màng nhày ruột có lẽ nhờ ở ức chế
các ion Na+, K+, Adenosine triphosphatase hoặc ức chế các kênh chloride
đưa đến sự gia tăng lượng nước trong ruột già.
Việc dùng Nhựa Aloe làm thuốc nhuận trường, trị táo bón cũng là một
vấn đề bàn cãi giữa Y học Hoa Kỳ và các nước Âu châu :
- Các nước Âu châu, nhất là Đức, cho phép dùng nhựa Lư-hôi làm
thuốc xổ ( ghi trong German Commission E Mono graph) , với cách dùng là
xử dụng Trích tinh khô đã được tiêu chuẩn hóa= Standardized dry extract
(theo Dược điển Âu châu 2 hoặc Dược điển Anh =BP 1988) để chứa từ 19
đến 21 % các chất Hydro-Anthracen. Trích tinh này có lợi điểm là loại được
các chất nhựa tạp thường gây ra các phản ứng phụ không tốt. Liều đề nghị
dùng để xổ là 0.05 đến 0.1 g trích tinh khô. Tại Châu Âu, Lư hôi là thành
phần của các Dược phẩm như Compound Benzoin Tincture, Opobyl trong
khi đó Aloin là thành phần của các dược phẩm Alophen, Purgoids
- Tại Hoa-Kỳ, Aloe được xem là không nên dùng, nếu không thật cần
thiết để trị táo bón; vì ngoài vị đắng, nhựa Lư-hôi do chứa các hợp chất
anthraquinones là những chất gây xổ bằng cách kích thích nhu động ruột,
còn gây ra những phản ứng đau quặn nơi bụng và gây khó chịu cho ruột.
Nếu dùng quá liều có thể đưa đến xuất huyết đường ruột và cả sạn thận. Phụ

nữ có thai và cho con bú không nên dùng thuốc xổ có Aloe vì tác dụng kích
thích tử cung có thể gây ra trụy thai và vì aloe đi qua sữa mẹ có thể gây hại
cho trẻ bú mẹ.
Với các trường hợp táo bón, cơ quan FDA khuyến cáo nên dùng các
loại dược thảo như Muồng (Senne) hoặc Cascara là những dược phẩm có
tính xổ nhẹ hơn và an toàn hơn
Tham khảo :
- Herbal Drugs and Phytopharmaceuticals (N. Bisset)
- The Healing Herbs (M. Castleman)
- The Honest Herbal (V. Tyler)
- Herbal Medicine (Rudolf Weiss)
- Chinese Herbal Medicines Materia Medica (Bensky)
- Natural Medicines Comprehensive Database.
- WHO Monographs on Selected Medicinal Plants
- Các tạp chí : US Pharmacist August 1995 Herbs for Health (Jan-
Feb 1997)
Tác Giả: Tiến Sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng
YDNN đã đọc, chuyển hóa sang Unicode, và phổ biến
>>>back>>>

Vai Trò Kích Thích Tố Nữ Estrogen Trong Kích Thích Tố Trị
Liệu Phụ Nữ Mãn Kinh
Trong bản tường trình vừa đăng trong báo JAMA tuần này April 12,
2006, thì phụ nữ sau khi cắt bỏ tử cung, uống kích thích tố estrogen “dường
như” không tăng cao nguy cơ ung thư vú. Dùng chữ “dường như” là bởi vấn
đề đúng hay sai còn chờ thêm nhiều nghiên cứu khác và thời gian trả lời.
Các tác giả khuyến cáo chất progesterone tổng hợp (synthetic
progesterone) có thể là chất đã tăng cao nguy cơ ung thư vú phụ nữ, khi phối
hợp estrogen vơí progestin trong kích thích tố trị liệu phụ nữ mãn kinh.
Theo Bs Wulf Utian thì tăng cao nguy cơ ung thư vú phụ nữ trong

thơì kỳ mãn kinh có lẽ là ở đúng thơì điểm phân hóa tế bào (mitosis) mà
chính progestin đã đột ngột tác dụng. Hiện tượng chỉ sẩy ra trong phần hai
của chu kỳ kinh nguyệt phụ nữ.
Theo Bs Jacques Rousseau thì có lẽ không phải chỉ do progestin mà là
hợp lực (synergy) của cả 2: progestin và estrogen.
(Trong môt nghiên cứu khác cũng đăng trong báo Archives of Internal
Medicine tuần này thì chỉ dùng estrogen không thôi, tăng cao nguy cơ nghẹt
máu cục tĩnh mạch. Nguy cơ thành lập máu cục trong tĩnh mạch tăng cao
hơn nữa khi phối hợp estrogen với progestin).
Theo Bs Marcia Stefanick thuộc Ðại Học Stanford thì nguy cơ ung
thư vú thấp đối với phụ nữ đã có tiểu sử nguy cơ vú thấp, và nguy cơ ung
thư vú cao hơn đối vơí phụ nữ đã có tiểu sử nguy cơ ung thư vú cao (mẹ bị
ung thư vú). Tuy nhiên còn quá sớm để kết luận phản ứng tương tác giữa
estrogen (lấy từ ngựa) vơí di thể (gene).
Bs Ganet Anderson thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư Fred
Hutchinson tại Ðại Học Seattle hiện đang dự tính nghiên cứu so sánh SNPs
(single Nucleotide Polymorphisms) cho phụ nữ bình thường với phụ nữ ung
thư vú: một bước tiến gần hơn tìm hiểu phản ứng tương tác giữa kích thích
tố và di thể (gene).
Tài Liệu Tham Khảo:
The Scientist, April 12, 2006
Archives of Internal Medicine, April 10, 2006
JAMA, April 12, 2006
Trần Mạnh Ngô

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×