Tải bản đầy đủ (.ppt) (16 trang)

Một số hình ảnh, tư liệu về Lăng Tự Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.65 KB, 16 trang )

Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến
trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa
lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng
Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay
là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành
phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn
Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự
Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự
Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh
sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng
tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện
và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát
gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước
Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước
lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần
là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí
của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi
thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá


Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai
tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ
Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm
với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để
nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ
và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ,
đọc sách Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do
Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.
Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua
nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa
Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của
vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và
Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau
điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ
ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ
Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn
Khiêm Đường - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái
điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua
xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất
của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn
Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở
của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn
sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm
Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.
Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái
Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình
với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc
bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có
đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi
nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức

thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài
4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc
đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật
của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch
sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như
hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình
trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.
Tất cả ảnh do Tôn Nữ Bích Vân và con trai chụp ngày mùng 4 Tết Canh Dần 2010
Tất cả ảnh do Tôn Nữ Bích Vân và con trai chụp ngày mùng 4 Tết Canh Dần 2010

×