Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

du lịch nha trang - đà lạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 168 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN – Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Trở lại quê hương miền thuỳ dương cát trắng
Thăm lại những tháp chàm cổ kính, rêu phong
Về cao nguyên xanh thăm từng con thác đổ
Uống ché rượu cần say khúc nhạc tây nguyên!

Tuyến du lòch này sẽ đưa q du khách qua vùng miền Đông Nam Bộ đến với cao nguyên
vượt qua những ngọn đèo cao để tận hưởng cảm giác mát dòu của núi rừng Nam Tây Nguyên
Hùng vó, ngắm dãy Nam Trường Sơn trùng điệp.
Quê tôi miền Bắc bốn mùa
Miền Nam xanh ngát điệu hò ca dao
Miền Trung vàng nắng ban mai
Cao Nguyên se lạnh chốn nao nhớ hoài.
  
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Tuyến I : TP. HỒ CHÍ MINH – ĐỒNG NAI – KHÁNH HOÀ
Đồng Nai là một tỉnh ở miền Đông Nam bộ, có diện tích 7. 585km2, dân số 2 triệu người,
tốc độ tăng dân số là 4,64/ năm ; mật độ dân số là 265 người/ km2 ( 1989 ). Tỉnh lỵ Biên Hòa
nằm trên sông Đồng Nai, cách thành phố Hồ Chí Minh 30km. Phần lớn diện tích của tỉnh là
vùng đất cao, đòa thế mấp mô, nối tiếp cao nguyên miền Nam Trung bộ. Đất đai là lọai phù sa cổ
chen lấn những vùng đất đỏ mầu mỡ nằm quanh các ngọn núi lửa cổ và vùng phù sa thấp phẳng
ven sông Đồng Nai, con sông quan trọng nhất của tỉnh do hai sông Đa Dung và Đa Nhim phát
nguyên từ cao nguyên Lâm Viên hợp thành. Đập thủy điện Đa Nhim được xây dựng trên con
sông cùng tên đã đưa một phần quan trọng nước của con sông này đến Krông Pha làm quay các


turbine của nhà máy phát điện, tạo ra công suất 160.000kw trước khi tưới bón cho đồng bằng
Phan Rang.
Nằm trên đòa phận tỉnh Đồng Nai, sông Đồng Nai nhận thêm nước của một phụ lưu bên tả
ngạn (sông La Ngà) rồi đổ ào ào qua thác Trò An trước khi bình lặng chảy trên vùng đất thấp bằng
bẳng ngày càng mở rộng của đồng bằng do chính nó bồi đắp nên. Trước khi chảy đến thành phố
Biên Hòa, sông Đồng Nai còn có một phụ lưu bên hữu ngạn là Sông Bé. Tại Nhà Bè, sông Đồng
Nai nhận thêm nước của sông Sài Gòn trước khi chia ra nhiều phân lưu chảy qua vùng rừng Sác
rồi đổ ra biển ở cửa Soài Rạp cùng với sông Vàm Cỏ.
Ngày 01/ 05/ 1985, công trình thủy điện quan trọng trên sông Đồng Nai được khởi công
xây dựng ở Trò An. Đây là công trình hợp tác hữu nghò giữa Việt Nam và Liên Xô cũ. Một hồ chứa
lớn có dung tích đến 2,7 tỷ mét khối nước được hình thành. Bốn tổ máy của nhà máy thủy điện
có tổng công suất 400MW đã vận hành từ đầu năm 1989, cung cấp một lượng điện năng quan
trọng cho miền Nam.
Trò An là thác nước cuối cùng trên sông Đồng Nai trước khi chảy vào vùng đồng bằng. Vào
mùa nước cạn, trên một khỏang sông rộng, nổi lên hàng trăm hàng ngàn tảng đá đen lô nhô như
bầy trâu nước đang tắm giữa những thác nước nhỏ nối tiếp nhau. Mùa nước, thác đổ cuồn cuộn
bọt trắng xóa trên một đọan sông hàng trăm mét, tạo nên một phong cảnh hùng vó. Từ bao đời
nay, sức mạnh của dòng sông chỉ làm tung những bọt nước trắng xóa không mang lại lợi ích thiết
thực.
Thủy điện Trò An là công trình thủy điện thứ hai trong cả nước, chỉ sau công trình thủy
điện Hòa Bình trên sông Đà. Các tỉnh miền Nam tham gia việc tiếp tế, miền Bắc gởi những cán
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
2
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
cộ công nhân giỏi, cán bộ kỹ thuật nhiều kinh nghiệm. Phần đóng góp quan trọng nhất do tỉnh

Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh gánh vác. Nhân dân 16 tỉnh , thành phố miền Nam đã
đóng góp trên 51 tỷ đồng, Liên Xô cũ cho vay hơn 150 triệu rúp và cung cấp máy móc, thiết bò
xây dựng công trình. Đập chính chắn ngang sông Đồng Nai được xây dựng phía thượng nguồn
của thác Trò An, tạo nên một hồ nước rộng 232km2, chứa gần 3 tỷ m3 nước. Nước từ hồ chính
được đưa qua hồ phụ rồi chảy qua nhà máy thủy điện làm quay 4 tổ máy có công suất tổng cộng
là 400MW. Sản lượng điện hàng năm có thể đạt 1,7 tỷ Kwh.
Sau 5 năm lao động cật lực của công nhân, cán bộ trên công trường xây dựng, tổ máy số 1
và số 2 của nhà máy đã họat động vào năm 1988. Đến tháng 09/ 1989, cả 4 tổ máy đã được vận
hành sản xuất điện.
Hồ Trò An là một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, một đòa điểm du lòch.
Đồng Nai là vùng đất con người cư trú rất sớm, những di chỉ khảo cổ ở Hang Gòn, cầu Sắt
(Xuân Lộc) có các công cụ đá của người tiền sử, ở Dốc Chùa, những khuôn đúc đồng cách đây
trên 3.000 năm.
Vùng Bà Ròa của tỉnh Đồng Nai cũng là nơi người Việt vào khai phá đất hoang sớm nhất
trong cả Nam Bộ, từ đầu thế kỷ 17. Năm 1679, một nhóm người Hoa đã đến cư trú cùng với
người Việt tại vùng Biên Hòa lập nên một khu vực chợ quan trọng nhất Nam Bộ trong thế kỷ 18 :
Cù Lao Phố (cù lao nằm trên sông Đồng Nai thuộc thành phố Biên Hòa ngày nay). Sách sử ghi lại
đây là một nơi phố chợ sầm uất : phố xá, mái ngói, tường vôi, lầu cao quán rộng dọc theo bờ sông
suốt năm dặm và phân ra ba phố : đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong,
đường phố nhỏ lót đá xanh. Thuềyn buôn các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Dương, Đồ Bàn
(Java, Mãi Lai) đến buôn bán tấp nập.
Đến khoảng năm 1776 - 17777, trong cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với họ Nguyễn, Cù
Lao Phố bò tàn phá và suy sụp hẳn. Thương gia ở đây dời về vùng Sài Gòn và lập nên Chợ Lớn
ngày nay.
Cách thành phố Biên Hòa 3km về phía Đông Bắc là khu Thiên Chúa giáo Hố Nai, chiếm
diện tích khoảng 2.100ha. Trước năm 1954, vùng này còn hoang sơ thuộc xã Bình Tước, quận
Đức Tu. Năm 1954, hơn 40.000 giáo dân thuộc 25 họ đạo ở miền Bắc Việt Nam vào đònh cư theo
quyết đònh của Ngô Đình Diệm ban hành tháng 08/ 1954. Ngày nay, Hố Nai gồm Hố Nai 1, Hố
Nai 2, Hố Nai 3 và Hố Nai 4 thuộc huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Hố Nai có đến 29 nhà thờ
được mang tên làng quê ở miền Bắc như : Kẻ Sặt, Nam Đònh. Xưa, vùng đất này có nhiều hố,

trãng cỏ mọc xanh tươi và có nhiều nai ra ăn cỏ. Các thợ săn bí mật bao vây đẩy nai vào hố để
bắt, từ đó có tên Hố Nai.
Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài lúa ở vùng đất thấp, các lọai đậu, khoai củ ở vùng đất
cao, nhân dân Đồng Nai còn trồng nhiều các lọai cây trái, thuốc lá, cao su Các lọai đặc sản nổi
tiếng ở Đồng Nai có mít tố nữ Bà Ròa, sứa Nghóa An, chôm chôm Long Khánh và đặc biệt là bưởi
Biên Hòa :
“Bưởi Biên Hòa vò ngọt mùi thơm”.
Vào mùa bưởi ( Tháng 10, 11, 12 ) vào thăm một vùng chuyên trồng bưởi như ở cù lao Tân
Triều trên sông Đồng Nai chẳng hạn, du khách sẽ choáng ngợp trước hàng vạn trái bưởi lủng
lẳng trên cây. Có hàng chục giống bưởi được trồng ở vùng Biên Hòa, mỗi giống có một hương vò
riêng. Hiện nay, các giống được trồng nhiều là bưởi đường núm, bưởi thanh, bưởi xiêm, bưởi bà
giăng, bưởi ổi
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
3
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Trong họat động công nghiệp, tỉnh Đồng Nai có khu Công nghiệp Biên Hòa, gọi là khu “Kỹ
nghệ Biên Hòa” được thành lập năm 1963. Sau năm 1975, khu Công nghiệp Biên Hòa đã được
mở rộng thêm với khoảng 65 nhà máy ; chiếm diện tích 330 ha ; sản xuất thép, hóa chất, thức ăn
gia súc, điện tử, máy nông ngư cơ v.v thu hút một lực lượng lao động đáng kể, khoảng trên
20.000 người.
Đối diện với khu công nghiệp Biên Hòa ( cũ ) này, một khu công nghiệp mới được hình
thành - khu công nghiệp Biên Hòa II - gồm một phần diện tích kho Long Bình xưa, là khu công
nghiệp sạch, tập trung những ngành công nghiệp không gây ô nhiễm môi trường.
Khu công nghiệp Biên Hòa là một trong những khu công nghiệp lớn nhất của cả nước với
tổng số vốn đầu tư lên đến hàng tỷ đô la.

Hiện nay, một khu công nghiệp nữa đang hình thành. Tại thành Tuy Hạ (Long Thành),
nhà máy lọc dầu công suất 6 triệu tấn/ năm đang được khẩn trương xây dựng. Cùng với nhà máy
lọc dầu, nơi đây sẽ hình thành khu hóa dầu đầu tiên của nước ta.
Tỉnh Đồng Nai có một thành phố (thành phố Biên Hòa) và 8 huyện ( Xuân Lộc, Thống
Nhất, Tân Phú, Vónh Cửu, Châu Thành, Long Thành, Xuyên Mộc, Long Đất ).
ĐỒNG NAI TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG XÂM LƯC.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vùng đất Biên Hòa đã nổi danh với chiến khu Đ
( nằm một phần ở Đồng Nai và một phần ở tỉnh Sông Bé ), với những trận phục kích quân Pháp
trên đường 20 ( 07/ 03/ 1948, tiêu diệt 60 xe và 150 quân đòch ) với đòa danh Đất Đỏ (Bà Ròa) là
quê hương của liệt só Võ Thò Sáu ( hy sinh ở Côn Đảo năm 1952 ).
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Đồng Nai nổi danh với chiến thắng Bình Góa (tháng 12/
1964). Đây là lần đầu tiên quân giải phóng mở đợt tấn công lớn và dài ngày vào quân chủ lực
ngụy. Trong 6 ngày chiến đấu liên tục, quân giải phóng đã tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn cơ động và
một chi đoàn bọc thép M.113, bắn rơi, bắn hỏng 37 máy bay của Mỹ ngụy. Chiến thắng này đã
đánh dấu sự trưởng thành của quân giải phóg miền Nam.
Ở Biên Hòa còn có kho đạn Long Bình là kho đạn khổng lồ là của quân đội Sài Gòn trước
năm 1975.Nằm ở góc đông bắc ngã ba xa lộ Biên Hòa, quốc lộ 15, thuộc đòa phận thành phố
Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. Trước năm 1964, đây còn là vùng đồi trọc hoang vu, đặc biệt khô cằn
trong mùa nắng.
Trong cuộc chiến tranh vừa qua, đế quốc Mỹ đã chọn đòa bàn này để xây dựng căn cứ -
kho quân sự. Căn cứ này được khởi công xây dựng vào năm 1964, rộng 6 km2, dùng làm kho
chứa các dụng cụ chiến tranh (thuốc nổ, bom, đạn, xe tăng, pháp v.v ). Ngay từ khi được xây
dựng, căn cứ này đã có tên gọi “Kho Long Bình”, là trung tâm cung cấp vũ khí cho quân ngụy
trên chiến trường.
Tháng 04/ 1965, sau khi kiểm tra tình hình ở miền Nam Việt Nam, phái đòan quân sự Mỹ
Mac Namara và Taylor khẩn báo về Hoa Thònh Đốn : Quân đội Việt Nam cộng hòa không đủ sức
đương đầu với việt cộng. Tương quan lực lượng ở mức báo động. Quyền làm chủ đã về tay cộng
sản. Nhà cầm quyền Mỹ họp bàn và quyết đònh tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở
miền Nam Việt Nam, chọn miền Đông Nam Bộ là chiến trường chủ yếu.
Qui mô chiến tranh mới đòi hỏi phải có hệ thống thiết bò chiến trường mới và tổ chức hậu

cần cùng với cơ cấu chỉ huy quân sự thích hợp, “Kho Long Bình” được quyết đònh xây dựng lại
vào năm 1966, được mở rộng gấp bốn lần so với trước (24km2). Từ đây căn cứ này còn có tên gọi
“Tổng kho Long Bình”, kho này lấy hàng từ cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu, sân bay Biên Hòa
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
4
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
v.v và trở thành trung tâm cung cấp vũ khí cho quân đội Mỹ - Ngụy và chư hầu trên một đòa bàn
rộng lớn, từ Đà Nẵng đến Minh Hải.
Trong tổng kho Long Bình có 6 hầm ngầm đủ chứa 150.000 tấn bom đạn. Lực lược thường
trực ở tổng kho Long Bình có : 1 tổng chỉ huy, 1 tiểu đòan công binh, 1 tiểu đòan thông tin, 1
chiến đòan vận tải, 1 trung tâm huấn luyện và 1 trung đòan đặc nhiệm bảo vệ v.v Ngòai những
hàng rào riêng cho từng khu vực bên trong, vành ngòai tổng kho được bao bọc 6 lớp hàng rào và
72 tháp canh. Tuy được xây dựng kiên cố và thường xuyên bố trí lực lượng canh giữ dày đặc mà
căn cứ này vẫn thường bò du kích đòa phương phối hợp với bộ đội đặc công và lực lượng biệt
động quân giải phóng tập kích bất ngờ, gây nhiều thiệt hại. Đặc biệt, vào cuối tháng 04/ 1975,
khu vực này đã diễn ra nhiều trận đánh quan trọng , các lực lượng võ trang Cách mạng đòa
phương cùng bộ đội chủ lực quân đòan 2 quân giải phóng, chọc thủng các chốt bảo vệ, tấn công
và làm chủ tổng kho Long Bình, mở cửa quan trọng phía đông nam Sài Gòn cho đại quân Cách
mạng cùng xe tăng, pháo binh v.v tiến thẳng vào “Dinh Độc Lập”.
Trong chiến dòch Hồ Chí Minh lòch sử, trận đánh quan trọng đã diễn ra ở Xuân Lộc. Xuân
Lộc là khu vực phòng ngự trọng yếu của ngụy quyền để bảo vệ cửa ngõ phía Đông thành phố Sài
Gòn. Ngày 09/ 04/ 1975, quân giải phóng tiến đánh Xuân Lộc. Đêm 20/ 04, lực lượng cuối cùng
của đòch ở đây bỏ chạy tán lọan. Chiến thắng Xuân Lộc tác động mạnh đến tình hình quân sự
chính trò của Mỹ ngụy : Nguyễn Văn Thiệu bỏ chức Tổng thống chạy ra nước ngòai, Mỹ bắt đầu
di tản ra hạm đội 7.

Cùng với chiến thắng Xuân Lộc, chiến thắng Nước trong, Long Thành đã mở cửa ngõ cho
lực lượng giải phóng tiến vào Sài Gòn ( 30/ 04/ 1975 ).
Một vùng đất khác có truyền thống chiến đấu anh dũng là vùng Rừng Sác. Trước kia vùng
này thuộc tỉnh Biên Hòa, từ năm 1978 thuộc về thành phố Hồ Chí Minh. Rừng Sác (Sác là tên
dùng để chỉ các lọai cây mọc ở vùng nước mặn như đước, sú, vẹt ) nằm trên vùng đất thấp,
ngập nước như thủy triều lên ở cửa sông Đồng Nai. Trước đây, Rừng Sác rộng đến 40.000 ha,
cung cấp dồi dào cho nhân dân vùng lân cận nhất là thành phố Hồ Chí Minh các lạoi gỗ dùng
làm chất đốt và trong việc xây cất. Rừng Sác còn nhiều lọai thú rừng : nai, mển, chồn, heo rừng,
trăn, rắn đến các lọai thú dữõ như : cọp, beo Đặc sản của sông nước Rừng Sác là tôm, cua,
sò, cá, cá sấu v.v Một câu ca dao ghi lại nỗi lo sợ của người mới đặt chân lên vùng đất này :
“Từ nay tôi tởn đến gìa,
Dưới sông lền sấu, trên là hùm beo”.
Rừng Sác nằm trên con đường thủy quan trọng nối cảng Sài Gòn ra biển nên từ thực dân
Pháp đến đế quốc Mỹ, cả hai đều tìm cách kiểm sóat khống chế khu vực này. Trong những năm
kháng chiến, quân dân huyện Cần Giờ, bộ đội Rừng Sác cùng các chiến só đặc công nước, với
cách đánh sáng tạo, đã đánh thắng quân đòch nhiều trận lớn như : Dùng thủy lôi đánh chìm tàu
Victoria của Mỹ chở xe tăng và phi cơ phản lực trên sông Lòng Tàu ngày 23/ 08/ 1966 ; Dùng
pháo bắn vào lễ đài của Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu tại nhà thờ Đức Bà ngày 01/ 11/
1966 ; Đánh chìm nhiều tàu Mỹ ngụy tại cảng Nhà Bè Một trận đánh rất oanh liệt như đánh
kho bom thành Tuy Hạ ngày 13/ 11/ 1972 phá hủy 200.000 trái bom ; đốt 14 triệu lít xăng tại
kho xăng Nhà Bè ngày 03/ 12/ 197.
Ven quốc lộ 20 trên đường đi Đà Lạt, cách ngã ba Dầu Giây chừng 10km là một cánh
rừng trồng cây gía tỵ (tektora grandis ).
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
5
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails

347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Cây giá tỵ có lá dày, to, nhám và rộng (40 - 60cm). Giống cây này có vỏ trắng, gốc có
nhiều cạnh khía, hoa có chùm màu trắng thường gặp ở nước Lào, Miến Điện và miền Bắc
Thái Lan.
Cây gía tỵ có nhiều công dụng : lá, hoa, hạt đều có thể dùng làm thuốc hạ lợi và lợi tiểu ;
gỗ không vân, dẻo, ít co dãn (gọi là teck toquinon) rất thích hợp vào việc đóng thuyền và làm
báng súng, làm bơi chèo, ván lướt
Rừng cây giá tỵ này được trồng dưới thời Ngô Đình Diệm. Trần Lệ Xuân, vợ cố vấn Ngô
Đình Nhu, là em dâu của Tống thống Ngô Đình Diệm đương thời đã đứng ra tài trợ cho việc trồng
cánh rừng này. ba mươi năm qua, rừng vẫn sòn đó, tuy có bò phá họai ít nhiều. Ngày nay, cơ quan
lâm nghiệp đòa phương đang có kế họach tu bổ và khai thác nó.
Ngã ba Dầu Giây. Đi thẳng sẽ tiếp tục quốc lộ 1 để đi ra các tỉnh miền Trung và miền
Bắc. Rẽ trái theo quốc lộ 20 đến Đà Lạt. Xưa, vùng này có nhiều cây cọ dầu dùng chế sơn gỗ nên
gọi là Dầu Giây. Người Pháp đã cho đốt rừng cọ dầu vì trong rừng có nhiều loại tre gìa, nên cây
cọ dầu đã mai một. Nhưng tên Dầu Giây vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
Vườn cao su Cây cao su có nguồn gốc từ rừng Amazôn - Châu Mỹ., được cư dân ở đây
lấy nhựa trét vào áo lạnh và làm đồ chơi trẻ em. Sau, phát hiện được nhiều công dụng từ mủ cao
su, cư dân bắt đầu trồng để lấy mủ và gọi là cây Ka-ao-choc (nước mắt của cây), sau đó người
Pháp đọc trại thành Caoutchou (cao su). Bác só A. Yersin là người đầu tiên mang cây cao su vào
trồng ở Việt Nam tại Suối Dầu - Nha Trang. Ở Sài Gòn, cây cao su được trồng đầu tiên ở công
viên Gia Đònh. Sau, do điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp, cây cao su được nhân giống và trồng
tập trung ở nhiều nơi. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã mở nhiều đồn điền cao su ở
Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh, mộ phu từ các tỉnh phía Bắc vào. Nổi tiếng nhất là đồn điền cao
su Phú Riềng, bóc lột tàn tệ sức lao động của công nhân : trả lương ít ỏi, đối xử khắc nghiệt, ở
một môi trường lao động độc hại. Gần như mỗi gốc cao su bón một mạng người.
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”.
Diện tích cao su ở Đồng Nai hiện nay là 57.000ha, trong đó 36.000ha đang cho mủ với
27.000 công nhân. Công nhân đi lấy mủ từ 4 giờ 30, vì thời gian này cây cho mủ nhiều nhất.
Sáng sớm, cây cao su phải vận chuyển nhựa từ rễ lên thân cây để lan đều ra các tán, nhánh, lá

chuẩn bò cho quá trình quang hợp khi nhận ánh nắng mặt trời. Thợ lấy mủ cao su 80% là nữ, vì
bàn tay của họ mềm mại, nhẹ nhàng cạo phớt qua phần vỏ mềm, không chạm vào thân cây, nên
mủ lấy được nhiều và nhiều lần. Sức lao động của công nhân được tính dựa theo số thùng mủ lấy
được trong ngày. Mủ tươi được hòa với chất NH3 để chống đông cứng và được phân lọai thành :
CSVSL4, CSVSL20, CSVSL40, chỉ số càng cao thì độ đàn hồi càng giảm. Sau đó, mủ cao su
được đóng thùng theo tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu.
Tiếp Tục Sẽ Đến Ngã Ba Dầu Giây Theo Quốc Lộ 20 Để Đến Đòa Phận Tỉnh Lâm Đồng
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
6
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Núi le trước mặt là ranh giới tự nhiên giữa Đồng Nai và Bình Thuận. Là tỉnh cực nam của
trung bộ. Tháng 11/ 1975 được sát nhập với tỉnh Ninh Thuận để trở thành tỉnh Thuận Hải. Đến
năm 1992, Thuận Hải được tách ra như hiện nay.
Diện tích : 799. 206ha. Chiều dài bờ biển : 192km. Hải đảo : đảo Phú Qúy 2.300ha. Bắc
giáp tỉnh Ninh Thuận, Nam giáp tỉnh Đồng Nai và Bà Ròa - Vũng Tàu, Tây giáp tỉnh Lâm Đồng,
Đông giáp biển Đông. Dân số : 854.000 người. Bình Thuận có khí hậu nhiệt đới gío mùa, nhiệt
độ trung bình 26,6oC.
Là tỉnh duyên hải tiếp nối miền Đông Nam Bộ. Bình Thuận có bờ biển Đông dài gần 200
km, nằm dọc theo quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam.
Bình Thuận gồm thò xã Phan Thiết và 8 huyện : Tuy Phong, Bắc Bình, Mũi Né, Hàm Thuận
Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh và đảo Phú Qúy với diện tích 2.300km2.
Bình Thuận là một đòa phương giàu truyền thống văn hóa mang đậm màu sắc của gần 10
dân tộc có quá trình khai phá và sinh sống lâu đời ở đây. Đáng kể là dân tộc Kinh, Chăm, K’ho,
Rắc Lây. Nền văn hóa đa dạng trên được thể hiện qua các lễ hội, trang phục, điệu múa, lời ca,
nhạc cụ, công cụ lao động v.v do các dân tộc sáng tạo từ ngàn xưa vẫn được lưu truyền đến

ngày nay mà không mất đi những nét độc đáo của từng dân tộc. Dân ca Nam Trung Bộ, dân ca
Chăm, múa Chàm, cồng chiêng Rắc Lây là những lọai hình có giá trò, đã trở thành di sản qúy
báu của nền văn hóa Việt Nam.
Chùa Hang, chùa Núi, dinh Thầy Thím, tháp Chàm Posanu, khu Bảo tàng Hòang tộc
Chăm, trường Dục Thanh, Bảo tàng Hồ Chí Minh là những công trình kiến trúc, không chỉ có giá
trò về mặt nghệ thuật mà còn có giá trò về mặt lòch sử.
Biển Bình Thuận có diện tích 52.000km2 , là một trong ba ngư trường lớn nhất Việt Nam.
Nhờ có môi trường thích hợp vì là nơi gặp nhau của hai dòng hải lưu nóng lạnh, nên đã thu hút
được các loài tôm, cá, mực v.v từ khắp nơi đến cư trú tạo thành một bãi tập trung với mật độ
cao. Về hải sản, nguồn lợi này không chỉ lớn về trữ lượng, phong phú về chủng lọai mà còn có
giá trò cao về mặt kinh tế.
Dọc 192km bờ biển, Bình Thuận có khoảng 4.000 ha diện tích vùng bãi triều, tập trung tại
các khu vực Hàm Tân, Tuy Phong, Bắc Bình, Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, hiện đang là bãi sú
vẹt đất hoang, đầm lầy, đồng muối , có thể sử dụng 1/ 3 diện tích này để cải tạo đưa vào nuôi
tôm thâm canh và bán thâm canh. Ngòai ra, trong đất liền còn có thêm 1.000 ha diện tích mặt
nước ao, hồ, công trình thủy lợi có thể tận dụng để nuôi cá nước ngọt.
Toàn tỉnh có trên 4.700 tàu thuyền có động cơ, sản lượng khai thác trung bình đạt khỏang
75.000 tấn/ năm. Về công nghiệp chế biến thủy sản, tập trung tại Phan Thiết, Hàm Tân và Tuy
Phong.
Nước mắm là một nghề truyền thống đã nổi tiếng khắp nơi với các nhãn hiệu Phan Thiết,
Phan Rí, Hàm Tân sản lượng trung bình đạt khỏang 20 triệu lít/ năm.
- Thủy sản Bình Thuận hiện đang có mặt tại nhiều thò trường trên thế giới như Tây u,
Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, c v.v
- Về nông nghiệp, ngòai lúa các lọai cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày và dài
ngày, cây ăn quả đang được trồng trên một diện tích khá lớn như : đào lộn hột (10.000 ha), các
lọai đậu (20.000 ha), mía (3.000 ha), cao su (1.800 ha), thuốc lá (1.000 ha), dâu tằm (250 ha),
thanh long (500 ha), cà phêâ, tiêu, bông vải v.v
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003


Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
7
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
- Về du lòch, Bình Thuận là một tỉnh Duyên Hải miền Trung, bên cạnh những bãi biển thơ
mộng kéo dài như vô tận là những đồng bằng bát ngát và đồi núi chập chùng được thiên nhiên
sắp xếp một cách hài hòa, hình thành nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, rực rỡ dưới bầu trời
trong xanh, quanh năm hầu như nắng ấm.
Dọc ven biển Bình Thuận với chiều dài gần 200 km, có nhiều điểm du lòch đã nổi tiếng và
quen thuộc với du khách như Cà Ná, Phan Thiết, Mũi Né, Hàm Tân Du khách đến Phan Thiết
sẽ còn được tham quan các di tích văn hóa lòch sử như tháp Posanu, Bảo tàng Hòang tộc Chăm và
nơi ở của vò Công chúa duy nhất còn lại trong Hòang tộc, chùa Hang, núi Cú, dinh Thầy
Thiếm
Núi Chứa Chan.
Nằm trong đòa phận tỉnh Bình Thuận, với độ cao 534m, thường xuyên có mây bao phủ. Sở
dó có tên Chứa Chan vì có một vò linh mục dẫn họ đạo đến đây, đi đường vừa mệt, vừa bệnh tật.
Vì xưa kia đây là vùng đất mới, rừng thiên nước độc, có nhiều thú dữ, người dân đi khai hoang
thường bò cọp vồ hoặc bò sốt rét rừng mà chết ( nên dân gian có câu : “Cọp Khánh Hòa, ma Bình
Thuận” ). Một hôm, vò linh mục tập hợp mọi người lại và hỏi đã chán vùng đất Bình Thuận này
chưa. Mọi người đều trả lời “chưa chán”, từ đó họ đọc chệch âm là “chứa chan”.
Phía trước là ngã ba ông Đồn, cây số 105. Đi thẳng là đường lên núi Chứa Chan. Trên núi
có chùa cổ Gia Lào hàng năm thu hút khách hành hương khá đông. Chùa Gia Lào thờ ông Vàng,
cô Bạc, ông Chì. Chuyện kể rằng, ngày xưa hai nước Champa và Đại Việt có những cuộc giao
tranh. ng Đồn (có tên là Đặng Hùng) là một vò quan của Đại Việt đã bò giam lỏng trên ngọn núi
này. Vợ ông bò Vua Chăm bắt về làm tì thiếp trong lúc đang mang thai. Thời gian sau, bà sinh
được một người con gái đặt tên là Mai Thanh. Khi cô Mai Thanh trưởng thành, trước khi chết bà
mẹ tiết lộ chuyện xưa cho con biết. Mai Thanh đã cùng với một ông quan người Chăm bắt liên
lạc với cha để trả thù, nhưng chuyện bại lộ cả ba người cùng tự vận ở trên núi. Cảm kích trước
tấm lòng của họ, dân đòa phương đã lập miếu thờ rất linh hiển. Đó là chùa Gia Lào ngày nay.

*
* *
- Khu nhà sàn hai bên đường là của người Khmer.
- Khu rừng lá buông : người dân dùng lá buông để lợp nhà, đan gỉo, quạt v.v Lá buông
được lấy khi còn non, hơi xanh ( không quá gìa ) vì khi phơi nắng sẽ mòn hơn, không gãy và sẽ có
màu trắng.
Đường Thiên Lý Bắc - Nam ( Quốc lộ 1A ).
Việt Nam xưa kia là nước nông nghiệp cổ truyền, kinh tế tự cung, tự cấp trong phạm vi
làng xã. Đường giao thông chủ yếu là đường thủy vì Việt Nam có sông ngòi, kênh rạch chằn chòt.
Đường bộ nhỏ, hẹp men theo ven làng xã, ít có đường liên tỉnh rộng lớn nên đi lại rất khó khăn
phải qua nhiều vùng hoang vắng. Trong quá trình Nam Tiến đã hình thành con đường liên tỉnh từ
Bắc xuống Nam, lúc vượt đèo, xuống dốc, lúc bò ngắt quãng bởi sông sâu. Đến đầu triều Nguyễn,
được tu bổ thêm để tiện liên lạc giữa ba miền Bắc - Trung - Nam, nên gọi là đường Thiên Lý (Vạn
dặm). Dưới thời Pháp, đường được lát đá và ngày càng được mở rộng.
Đường Thiên Lý xưa được chia thành nhiều trạm, mỗi trạm có nhà trạm, phu trạm lo việc
truyền tải công văn và khiêng cán kệ, đồ đạc của Vua quan khi đi qua. Để phục vụ cho việc liên
lạc được nhanh nhóng, Vua Minh Mạng cấp cho mỗi trạm 3 con ngựa. Việc phát đệ được phân
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
8
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
lọai như sau : 1/ Phi đệ, 2/ Tối khẩn, 3/ Tứ khẩn, 4/ Thường hành. Chuyển đệ công văn từ Gia
Đònh đến Kinh Thành là 13 ngày, từ Bắc vào kinh thành là 5 ngày. Đúng hạn thì thưởng 3 - 5
quan, nếu chậm không có thưởng và nếu trễ từ 3 - 4 ngày thì bò phạt 30 roi.
Công văn chuyển đệ được niêm phong kỷ. Thời Tự Đức, qui đònh dùng ống tre khô chắc,
một cái lớn, một cái nhỏ. Công văn được cuốn lại bỏ vào ống tre nhỏ dán miệng lại xong cắt giấy

niêm miệng lại 2 - 3 lần, đóng dấu vào chỗ dán, buộc dây đánh dấu rồi bỏ vào ống tre lớn, dán
lại rồi đánh dấu lần nữa và buộc chặt tránh ướt và hư hỏng. Những chiếu, chỉ , sắc, dụ của Vua
đưa đến trạm nào thì trạm đó phải đưa ngay, bất kể ngày đêm, mưa nắng. Nếu ống công văn ghi
“phi đệ” thì phải chuyển nhanh bằng ngựa. Từ Huếø vào Gia Đònh 6 ngày, ra Hà Nội mất 3 ngày.
Nhờ thế mà triều Nguyễn đã kiểm soát cả nước.
Trước, đường Thiên Lý từ Đồng Đăng ( Lạng Sơn ) đến Mộc Bài. Nay được kéo dài đến các
tỉnh đồng bằng sông Mekong, tổng chiều dài là 2.300km tính từ Đồng Đăng đến mũi Cà Mau và
được gọi là quốc lộ 1A.
Ngã ba Hàm Tân - Dinh Thầy Thiếm.
Còn gọi là ngã ba 46, vì ngã ba này cách thò xã Phan Thiết 46km. Rẽ vào 18km sẽ đến
trung tâm thò xã Hàm Tân. Từ đây đi 6km sẽ đến dinh Thầy Thím, nằm gần bãi biển Hàm Tân.
Về dinh Thầy Thím, chuyện kể rằng dưới thời Vua Minh Mạng, có hai vợ chồng ở huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sống bằng nghề bốc thuốc và chữa bệnh cho dân để làm
phước, rất được dân yêu qúy. Nhưng họ lại bò các tên quan nònh thần ghen ghét. Những người
này đã tâu Vua là hai vợ chồng muốn lấy lòng dân, tạo phản lọan. Vua nghe lời, sai quân lính
đến nhà bắt họ về kinh thành trò tội. Nhưng nhờ dân ở đòa phương báo trước, hai vợ chồng đã bỏ
trốn đến làng Tam Hải (trước là làng Tam Tân), huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, ở tại đòa điểm
dinh hiện nay. Bình Thuận lúc bấy giờ là nơi rừng thiêng nước độc, dân ở đây bò nhiễm chướng
khí có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo. Hai vợ chồng ngoài việc đi kiếm củi để sinh
sống còn tìm hái thuốc để điều trò cho dân làng nên được lòng dân. Họ gọi hai vợ chồng một
cách thân mật là “Thầy, thím”. Sau khi hai vợ chồng chết, để tưởng nhớ, dân đòa phương đã xây
dinh để thờ hai người vào năm 1879. Đến đời Vua Thành Thái, năm thứ 18, Vua hiểu được hai vợ
chồngï là người tốt nên đã phong cho họ là Chủ Đức Tiên Sinh và Nương Nương Công Thần.
Dinh đã được tu sửa nhiều lần. Năm 1993, y Ban Nhân Dân tỉnh Bình Thuận quyết đònh
công nhận dinh là một di tích lòch sử. Hằng năm lễ hội được tổ chức vào ngày 15 và 16 tháng 9
m lòch, rất đông khách thập phương đến cúng. Ngày 5/ 01 m lòch là ngày tảo mộ của Thầy,
Thím.
Núi Trà Cú.
Ở Hàm Thuận Nam, cao 700m, trên núi có chùa Linh Sơn Trường Thọ (chùa Trên), do Hòa
Thượng Trần Hữu Đức (người Phú Yên) xây dựng, nay hơn 100 năm. Chùa dưới là chùa Long

Đòan, do học trò của ông lập ra. Chùa được Vua Tự Đức năm thứ 33 phong sắc để đáp ơn nhà sư
đã chỉ bài thuốc trò bệnh cho mẹ Vua là bà Từ Dũ. Nhà sư được phong làm “Đại lão Hòa
Thượng”. Phía sau chùa có tượng Phật nhập niết bàn rất lớn, dài 49m do bà Trần Lệ Xuân (Vợ
Ngô Đình Nhu) cho trực thăng giúp xây dựng để làm dòu phong trào chống Ngô Đình Diệm đàn
áp Phật giáo năm 1962.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
9
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Ngày nay, Trà Cú đã được Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cùng với tỉnh Bình
Thuận quy họach thành khu du lòch sinh thái hấp dẫn, tổng diện tích hơn 831.469ha rừng nguyên
sinh, với nhiều lòai cây đặc biệt và nhiều lọai động vật qúi hiếm. Riêng Trà Cú có 17.400 ha
rừng ở xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam , cách Phan Thiết 30km.
Cây Thanh Long
Chòu được đất khô cằn, được trồng nhiều trong những năm gần đây ở các huyện : Hàm
Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình và vùng ven Phan Thiết. Năm 1991, Bình Thuận chỉ có
500 ha, đến nay diện tích trồng thanh long là 1.200ha, cho sản lượng gần 15.000 tấn trái một
năm. Mùa thanh long bắt đầu khi có gió nam với những cơn mưa đầu tiên ( khoảng tháng 3, tháng
4 m lòch ) và kéo dài từ 4 đến 6 tháng trong năm. Trái lớn nặng khoảng 300 - 400 gram được
xuất khẩu sang Đài Loan, Hồng Kông, Singapore Hiện nay, ở xã Hàm Hiệp - Hàm Thuận Bắc
có xí nghiệp đóng hộp trái thanh long rồi chở vào thành phố Hồ Chí Minh xuất khẩu. Mỗi gốc
cây thanh long cho từ 50 - 60 quả.
*
* *
Ở thượng nguồn sông La Ngà, đập nước thủy điện Hàm Thuận Bắc đã được chính thức
khởi công xây dựng với kinh phí tài trợ của Nhật, dự kiến vào năm 2000 sẽ bắt đầu vận hành,

hòa vào lưới điện quốc gia.
Đảo Phú Qúi.
Diện tích 32km2, cách thò xã Phan Thiết 56 hải lý (mất 8 giờ tàu chạy), với trên 20.000
dân sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy sản. Đảo gồm ba xã : Ngũ Phụng, Tam Thanh và
Long Hải. Trên đảo có núi Cao Cát cao 84m, đỉnh có chùa Linh Sơn với tượng Phật Bà cao 4m. Từ
đây có thể ngắm nhìn tòan cảnh đảo Phú Qúi, nhất là ngắm cảnh hòang hôn trên biển. Về đêm,
hàng trăm chiếc ghe câu mực ngòai khơi với ánh sáng bập bềnh lung linh trên mặt nước trông rất
ngọan mục.
*
* *
PHAN THIẾT
Là trung tâm văn hóa, chính trò của tỉnh Bình Thuận, với diện tích 120km và dân số
165.000 người. Trước kia, đa phần dân ở Phan Thiết sống bằng nghề đánh cá. Thuyền đánh cá
tập trung nhiều nhất là ở khu vực cảng cá Cồn Chà, bên bờ sông Cà Ty, sông chính của thò xã
Phan Thiết. Cồn Cà, Cà Ty cũng là tên bằng tiếng Chăm xưa còn sót lại.
Ngòai nghề đánh cá, dân ở đây còn sống bằng nghề chế biến các lọai thủy hải sản trong
đó có nghề sản xuất nước mắm. Các hãng làm nước mắm đa số đều nằm dọc bờ sông Cà Ty,
nên khi đi ngang qua đây có mùi rất đặc biệt. Nước mắm Phan Thiết rất nổi tiếng như nước mắm
Phú Quốc. Trong nước mắm có nhiều chất dinh dưỡng như acid amin, muối khoáng Ngư dân
để chống lạnh thường uống một ít nước mắm nhỉ (nguyên chất) trước khi lặn xuống biển. Nước
mắm là lọai nước chấm không thể thiếu được trong bữa ăn của người Việt Nam.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
10
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
 Cách làm nước mắm :

- Khạp gỗ rửa sạch.
- Cá cơm được chọn kỹ rửa để ráo.
- Muối trắng
Trước hết, bỏ vào khạp một lớp cá, một lớp muối. Dưới đáy khạp có vòi để nước mắm
chảy ra sau khi ủ từ 7 - 8 tháng đến một năm. Nước đầu tiên gọi là nước mắm nhỉ, rất ngon và
thơm.
Hiện nay, con đường dẫn vào thò xã được mở rộng vì nằm trên quốc lộ 1A.
Phan Thiết có rất nhiều bãi biển đẹp như : Vónh Thủy, Đồi Dương, bãi Sa Ghềnh, bãi đá
ng Đòa và bãi tắm ở khu vực Mũi Né v.v Những nơi có thể tham quan : trường Dục Thanh,
Mũi Né, Tháp Posanư.
Trường Dục Thanh.
Vào thò xã Phan Thiết, đến cầu Trần Hưng Đạo bắc qua sông Cà Ti rẽ trái sẽ vào trường
Dục Thanh, nơi Bác Hồ đã từng dạy học từ năm 1908 - 1910, trước khi vào Sài Gòn rời Bến Nhà
Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Bên phải cầu là cảng Cá Cồn Chà, nơi Bác Hồ đã cùng học trò
thường hay ra chơi biển vào những buổi chiều cuối tuần.
Trường Dục Thanh là một trường tư thục tiến bộ do hai người con của cụ Nguyễn Thông là
Nguyễn Trọng Lợi và Nguyễn Qúy Anh, đã vận động quyên góp tiền để xây dựng vào năm 1908
ngay trên khu đất bằng phẳng của gia đình trên bờ sông Phan Thiết. Dục Thanh có nghóa là giáo
dục thanh niên. Lúc đó trường có 4 lớp, trên 100 học sinh và 7 giáo viên chủ yếu dạy quốc ngữ,
chữ Hán và tiếng Pháp nhằm mục đích mở mang kiến thức, rèn luyện cho học sinh lòng yêu
nứớc và sẵn sàng cứu nước khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Năm 1908, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành trên đường vào Nam đã dừng chân tại
đây. Do đưọc sự gởi gấm của thân sinh là cụ Nguyễn Sinh Sắc, anh được cụ Nghè Trương Gia Mô
hết lòng giúp đỡ và giới thiệu anh vào dạy học ở trường Dục Thanh. Thầy Thành là giáo viên trẻ
nhất trong số 7 giáo viên của trưòng, thầy phụ trách dạy chữ Quốc ngữ, chữ Hán và cả thể dục.
Thầy đặc biệt chăm chú bồi dưỡng lòng yêu nước cho học sinh và dạy họ rèn luyện thân thể cho
khỏe mạnh để cứu nước. Năm 1911, thầy Thành từ giã trường vào Sài Gòn và tại Bến Nhà Rồng
thầy xuống tàu sang Pháp tìm đường cứu nước. Đó là hình ảnh của Hồ Chủ tòch lúc còn trẻ.
Sau năm 1975, trong khu di tích trường Dục Thanh chỉ còn lại Ngọa Du Sào ( là nơi trước
đây cụ Nguyễn Thông sử dụng để đàm đạo văn thơ, bàn việc nước và sau đó là thư viện trường

Dục Thanh), Nhà Ngư (ngư là cá, là nơi làm cá mắm của cụ Nguyễn Thông ) sau làm nhà nội trú
của thầy giáo và học trò, nhà thờ và ngôi mộ của cụ Nguyễn Thông. Trong nhà Ngọc Du Sào còn
có một cái bàn đọc sách, một rương sách, một tủ sách của thầy Thành và cả bộ ván ba tấm mà
thầy vẫn thường nằm nghỉ trưa ở đấy. Sau đó y Ban Nhân Dân tỉnh Thuận Hải quyết đònh sửa
chữa và khôi phục toàn bộ di tích lòch sử này. Công trình này mất hai năm mới hoàn thành từ
năm 1978 đến năm 1980.
Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Nằm cạnh trường Dục Thanh. Trưng bày hình ảnh và hiện vật với nội dung sau :
- Bối cảnh lòch sử khi Bác ra đời.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
11
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
- Thời niên thiếu và thanh niên của Bác.
- Căn nhà (mô hình thu nhỏ) của gia đình Bác ở quê nhà.
“Quê hương nghóa nặng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.”
Đây là hai câu thơ Bác đã làm sau 30 năm trở lại quê hương với biết bao xúc động.
- Họat động của Bác từ năm 1911 đến năm 1940.
- Chiếc tàu buôn của Pháp đã đưa Bác với cái tên Văn Ba rời Việt Nam đi tìm đường cứu
nước. Tuy đồng lương rất khiêm tốn (10 p), Bác vẫn dành dụm được tiền để mua sách vở.
- Bác làm phục bếp với 300 đầu bếp tại một khách sạn ở Anh. Bếp trưởng lấy làm lạ vì
sao Bác không đổ thức ăn thừa. Hỏi Bác, Bác trả lời “Dành thức ăn này cho những người nghèo
khó”. Cảm kích trước tấm lòng thương người của Bác, bếp trưởng đã dạy Bác làm bếp, làm bánh
hạnh nhân v.v
- Bác dự đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản tại Mascơva năm 1924.

- Năm 1931, Bác họat động tại Hồng kông với tên gọi Tống Văn Sơ, đã bò thực dân Anh ở
đây bắt giam.
- Năm 1932 - 1933, với tài thu phục nhân tâm, Bác đã được vợ chồng luật sư Lô-giơ-bai
hai lần cứu thóat và bí mật bố trí cho Bác sang Liên Xô dự đại hội.
- Phần họat động của Bác ở nước ngòai : Từ năm 1911 - 1940, sau 30 năm xa quê hương
tìm đường cứu nước Bác đã đi qua 29 quốc gia trên thế giới. Tuy sống cuộc sống rất khó khăn,
nhưng Bác đã tự học được 24 thứ tiếng và nói giỏi 8 ngọai ngữ. Hành động của Bác đã trở thành
một gương sáng cho tòan dân với khẩu hiệu “Sống lao động, chiến đấu, học tập theo gương Bác
Hồ vó đại”.
- Ngày 28/ 01/ 1941, Bác về nước ở huyện Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng. Trong suốt thời gian
này phong trào đấu tranh giải phóng đã ra đời tại hang Pắc Bó và Bác đã dự đóan đến năm 1945
đất nước sẽ độc lập. Sau Cách mạng tháng 08/ 1945, tại thủ đô Hà Nội Bác đã đọc tuyên ngôn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
- Qua cuốn “Nhật ký trong tù”, bác đã được thế giới công nhận Danh nhân thế giới, đồng
thời cuốn sách này còn là lời giáo huấn cho hiện nay và cho các thế hệ mai sau.
- Năm 1950, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, vì muốn
thắng Pháp trước hết phải đánh Pháp. Bác đã đặt quan hệ ngọai giao với 11 nước phe XHCN.
- Truyền thống dưỡng sức dân để kháng chiến do ông cha ta ngàn đời để lại đã tác động
rất lớn trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong thời kỳ này có đề ra cuộc cải cách
ruộng đất vào năm 1953 đã tác động rất lớn. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đã giúp Việt
Nam thóat khỏi ách thực dân Pháp.
- Họat động đấu tranh của Bác (1954 - 1969), Bác đã cùng dân tộc thực hiện hai chiến
lược xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Trong khi đất
nước tạm thời bò chia cắt thành hai miền Nam Bắc, Bác từng nói “một ngày miền Nam chưa
hòan tòan giải phóng là một ngày ăn không ngon, ngủ không yên”. Tình cảm của Bác đối với
đồng bào miền Nam thể hiện rõ : năm 1960, khi Quốc hội quyết đònh tặng Bác tấm huân
chương, Bác từ chối không nhận “Huân chương là thưởng cho người có công, khi nào miền Nam
hòan tòan giải phóng, thống nhất đất nước đồng bào miền Nam sẽ trực tiếp trao huân chương cho
tôi, lúc ấy tôi sẽ nhận. Chắc chắn đồng bào miền Nam sẽ hết sức vui mừng.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt

Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
12
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
- Tháng 09/ 1963, đại hội Đảng lần III tiến hành trong dự thảo, mọi người đề nghò Bác tiên
đóan cho cuộc kháng chiến chống Mỹ , Bác đã nói “Chậm nhất năm 1975 sẽ thống nhất nước
nhà và điều đó đã trở thành sự thật.
*
* *
- Cồn Chà Phan Thiết : nơi sản xuất nước mắm.
- Những cánh đồng muối bên phải là nơi cung cấp cho công ty muối 3 để sản xuất muối
iốt.
- Lầu Ôâng Hòang ngự trên một đồi nhỏ bên phải, vuông vức gần tháp cổ, là nơi thực dân
Pháp nhốt vò Hòang đế Châu Phi, vì ông đã chống lại chính quyền Pháp nên đã bò giam lỏng ở
đây.
- Trước khi ra khỏi thò xã Phan Thiết, sẽ nhìn thấy ngọn núi Tà Zone bên tay phải.
*
* *
Tháp Pôsanư - Tháp Phú Hài
Phú Hài là cả một tổng thể kiến trúc đền tháp của người Chăm tại vùng đất cực nam của
vương quốc Chămpa xưa. Sở dó tháp có tên Phú Hài vì tiếng Chăm là Pajai, ở xã Thanh Hải thuộc
thò xã Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận). Thế nhưng, người Chăm hiện nay lại thường gọi khu tháp này
là tháp Pô Sanư. Không phải ngẫu nhiên mà dân đòa phương (cả người Chăm và người Việt) hiện
vẫn đến ngôi tháp chính ở Phú Hài để thờ phụng và gọi ngôi tháp là đền Thiên Mẫu. Trong thần
thọai và truyền thuyết của người Chăm, khi nói tới nữ thần Mẹ Pô Nagar, thường hay nhắc đến
hai người con gái được thờ ở khu tháp Phú Hài. Một trong những câu chuyện huyền thọai về Pô
Nagar như sau : “Thần Pô Inư Nưgar còn có tên là Pô Yan Inư Nưgar Taha (thần mẹ lớn xứ sở), là

nữ thần lớn của nước Chăm. Thần có tên khác là Muk Juk (Bà Đen), thường được gọi là Patao
Kumây (Vua của đàn bà) hoặc Stri Ratjnhi (chúa của phụ nữ). Thần sinh ra từ mây và bọt biển.
Thần có 97 ông chồng. Nổi tiếng nhất là Pô Amư hay Pô Yan Amư (ngài thần Cha). Thần sinh ra
38 cô con gái, trong đó có Pôsanư (Pô Cah Anaih) tức nàng Sạ (Cah) bé. Thần sinh ra lúa gạo.
Thần phù hộ cho những người làm ruộng.
Tiểu tiên nữ Pô Sanư (Po Cah Anaih) - còn được thờ phụng cùng mẹ và các chò em của
mình tại lăng Pô Nagar (đền thờ Pô Nagar chính của người Chăm hiện nay) ở làng Hữu Đức, xã
Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
Trong lăng, bên cạnh những phiến đá thờ có tượng một phụ nữ ngồi trước một tấm bia,
hai tay đặt lên hai đầu gối, đầu đội chiếc mũ hình trụ cong ra phía trước. Pho tượng có tên là Po
Bia Attakan, tức tiểu tiên nữ Pô Cah Anaih (Pơ Sanư), cô con gái thứ bảy của Pô Nagar. Ngòai ra,
trong khu vực lăng còn có hai bức tượng khác đặt cạnh nhau thể hiện nữ thần Pô Nagar và cô con
gái tên Pô Tơh. Pho tượng thứ nhất là một phụ nữ ngồi xếp bằng tròn tựa lưng vào tấm bia, bàn
tay đặt duỗi trên đầu gối, vú to, mặc váy sarông, đội chiếc mũ hình trụ cũng cong ra phía trước.
Đồ trang sức trên pho tượng có hoa tai, ba chiếc vòng đeo cổ, các vòng đeo ở cánh tay. Pho tượng
thứ hai kích thước bé hơn, cũng ngồi xếp bằng và mang các đồ y trang phục như pho tượng thứ
nhất. Cả ba pho tượng trên đều được trát vôi, các nét ở mặt và các núm vú được tô đen.
Tòan bộ khu tháp Phú Hài nằm trên một ngọn đồi cao (khỏang 50m). Quả đồi này chạy
dài theo hướng bắc - nam và kéo dài ra biển. Chắc hẳn xưa kia ở Phú Hài có nhiều kiến trúc khác
nhau, vì ngòai ba ngôi tháp, còn có thể thấy được một vài phế tích đổ nát khác. Ba ngôi tháp
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
13
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
hiện còn được phân bố trên hai tầng đất và đều quay mặt về hướng đông. Ngôi tháp quan trọng
nhất đứng trên một thềm cao hình chữ nhật, có tường thấp bằng đá bao quanh. Cách ngôi tháp

chính chừng vài chục mét về phía đông bắc, có một ngôi tháp nhỏ đã bò hủy họai nặng nề. Ở
phía bắc, trên tầng nền thấp hơn (chừng 2m) là ngôi tháp thứ ba, còn khá nguyên vẹn.
Tuy kích thước khác nhau và nằm ở những vò trí khác nhau, cả ba ngôi tháp đều đïc làm
theo kiểu thống nhất : tháp vuông nhiều tầng, không có trang trí ở góc các tầng, không có các
phiến đá điêu khắc nhô lên ở phía trên các góc tường, không có các hình trang trí áp chân các
cột ốp, không có hệ thống vòm của các cửa ra vào và cửa giả. Vì thế, các tháp ở Phú Hài có
hình dạng gần giống với lọai hình tháp Khmer thời Chân Lạp. Theo quan sát và nghiên cứu, các
tháp Phú Hài có nhiều điểm giống với những ngôi tháp Khmer mới được phát hiện vào cuối
những năm 80 ở vùng Tây Ninh. Điều này chứng tỏ nghệ thuật kiến trúc của Chân Lạp đã có ảnh
hưởng nhất đònh tới Phú Hài, cụm tháp nằm gần khu vực tiếp giáp giữa Chămpa và Chân Lạp
xưa.
Trong ba ngôi tháp hiện còn ở Phú Hài, ngôi tháp phía nam - hay tháp chính - không chỉ
nằm trên tầng nền cao nhất mà còn có kích thước lớn nhất. Trong lòng tháp hiện còn một Linga
liền khối với bệ vuông (Yoni) bên dưới. Quanh các mặt tường bên trong có những ô khám dành
cho việc đặt đèn để chiếu sáng. Mái bên trong rất dốc, vút cao và có hệ thống lỗ mở để đưa ánh
sáng từ bên ngòai vào trong lòng tháp. Khác với thông lệ, đối với các tháp Chăm truyền thống,
đáy lòng tháp chính ở Phú Hài lại thấp hơn so với mặt bằng của tầng nền chung. Sự khác biệt
của ngôi tháp chính Phú Hài còn được biểu lộ ở mặt ngòai của tháp. Như cột tháp không phải
hình khối chữ nhật hoặc vuông mà là hình trụ tròn, ở chân đế, mặt ngòai của tháp không có
hình trang trí v.v
Ngôi điện nhỏ cách tháp chính không xa về phía đông - bắc hầu như đã bò đổ nát hòan
tòan phần trên. Tuy vậy, nhìn vào vẫn có thể nhận ra ở kiến trúc nhỏ bé này hình ảnh thu nhỏ
của ngôi tháp chính bên cạnh.
Về cơ bản, ngôi tháp phía bắc được làm theo kiểu ngôi tháp chính, nhưng nhỏ hơn một
chút. Tuy vậy, ngôi tháp phía bắc cũng có một số nét khá riêng biệt. Gian điện bên trong hình
chữ nhật chạy dài theo hướng đông - tây và có mái vút rất nhọn do các mặt tường cong tạo thành.
Một số chi tiết bên trong tháp thật khó hiểu và khá đặc biệt : khám để đèn nằm cao hơn dấu tích
của trần nhà, các ô khám để đèn phía dưới lại không đủ sâu để làm chức năng đó.
Mặc dầu cả ba ngôi tháp ở Phú Hài có những nét rất khác biệt cả về cấu trúc, hình dáng
lẫn cách trang trí kiến trúc với các tháp Chăm khác và gần với lọai hình tháp Khmer, nhưng vẫn

dễ dàng nhận thấy các tháp Phú Hài là những kiến trúc Chăm. Vẻ dáng và đặc trưng Chăm ở các
tháp Phú Hài chính là nghệ thuật của những công trình được xây dựng hòan tòan bằng gạch. Kỹ
thuật xây gạch và tài nghệ trang trí trên gạch ở Phú Hài hòan tòan là của Chăm : các viên gạch
dường như được dán vào nhau, các hình trang trí được tạc trực tiếp lên gạch chứ không dùng đá.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Pháp Henri Parmentier, đã tìm thấy một đồng bằng cách thò xã
Phan Thiết 2km về phía Bắc, một lò gạch cổ, nay vẫn còn một số rãnh với bề rộng 0,45m, cao
0,5m và dài 3m. Điều này đã chứng minh rằng ngày xưa người Chăm đã nung những viên gạch
trước khi xây tháp. Gần đây, khi phục chế lại ngôi tháp, các chuyên gia Ba Lan công nhận rằng
trước đây người Chăm đã đạt đến một kỹ thuật hòan hảo về cách xây dựng tháp. Những viên
gạch nung có lồi lõm khác nhau, giống như ngói âm dương. Vì vậy, khi đặt chồng lên thì chỗ lồi
và chỗ lõm ăn khớp với nhau, chỉ cần một ít chất kết dính ở giữa và với sức nặng chiều cao của
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
14
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
tháp, những viên gạch này sẽ càng dính chặt với nhau hơn. Do đó, trải qua một thời gian dài mà
kiến trúc tháp vẫn tồn tại
Lầu ng Hòang.
Ở đây trước có một ngôi biệt thự do một ông Hoàng (1 qúy tộc) người Pháp xây dựng từ
năm 1911 - 1917 để làm món quà cho người vợ Việt Nam, nhưng sau đó ông phải trở về Pháp.
Chính quyền bảo hộ Pháp đã lấy lại ngôi biệt thự này để cho Vua Khải Đònh. Đến năm 1933,
Vua Bảo Đại đã sử dụng ngôi biệt thự để nghỉ hè, nghỉ mát. Trước đây, thi só Hàn Mạc Tử khi ra
thăm người yêu của mình là Mộng Cầm, đã cùng người yêu lên lầu ông Hòang để tâm sự và đàm
đạo về thơ.
Ngày nay, tại đòa điểm lầu ông Hoàng chỉ còn lại một lô cốt. Mặc dù đã hoang tàn đổ nát,
lầu ng Hoàng vẫn hấp dẫn sự tò mò của du khách. Đứng trên độ cao hơn 40m so với mực nước

biển, lộng gió, có thể ngắm nhìn biển cả mênh mông. Sau này người con của Mộng Cầm quen
nhạc só Trần Thiện Thanh, đã kể câu chuyện Mộng Cầm và Hàn Mạc Tử, nên nhạc só này đã
sáng tác bài hát Hàn Mạc Tử, trong đó có đề cập đến lầu Ôâng Hòang.
Mũi Né.
Cách thò xã Phan Thiết (thủ phủ tỉnh Bình Thuận ) 22km về hướng đông bắc. Tên gọi Mũi
Né đến nay vẫn tồn tại theo hai cách giải thích :
- Có người cho rằng trước có một làng người Chăm sống xung quanh vũng đầm lầy ở đây,
nên người ta gọi là “Vih ne” - tiếng Chăm có nghóa là đầm lầy, sau này được đọc trại ra thành
Mũi Né.
- Theo sắc phong “Thần hòang” của Vua triều Nguyễn đã ghi : “Vò Né phường, Phan Thiết
thò xã, Bình Thuận tỉnh”. Khi lập bản đồ người Pháp đã ghi : Cap de Né, nghó a là Mũi Né.
- Cách giải thích khác cho rằng là do mũi đất choãi ra biển tạo thành một vònh nhỏ, nên
các tàu thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng vào mùa mưa bão hoặc những ngày thời tiết xấu
thường vào vònh này để tránh bão, vì vậy có tên gọi là Mũi Né.
Mũi Né có đặc sản là món thòt nhông, gỏi cá nai, cá đục với những ngọn đồi cao đầy
cát trắng, cát vàng xếp tầng lượn sóng, với rừng dương, rừng dừa đầy bóng mát. Men theo bờ biển
qua mũi đá ông Đòa, có miếu nhỏ thờ ông Đòa, trước là một hòn đá được bào mòn có hình dáng
giống ông Đòa nhưng sau đã bò hư, vì vậy dân đòa phương mới xây miếu này. Rồi đến khu nghỉ
mát Hải Dương liên doanh với Pháp, dành cho du khách nước ngoài. Chợ Mũi Né xây dựng năm
1965, dân cư đông đúc, nghe hương vò nước mắm ven đường. Phía xa bên phải là khu dân cư
làng chài Phú Hải. Đến đây, khách có thể thuê xe “đặc chủng” chuyên dùng ở vùng Vònh năm
1989, đi thêm 5km để tới một cái ghềnh, bãi sỏi, sa mạc cát di động theo chiều gío, hòn Rơm
(trên hòn Rơm chỉ tòan là cỏ, mùa nắng cỏ vàng úa như rơm) v.v Chung quanh hòn Rơm bãi cát
rất đẹp. sạch và yên tónh. Ở đây có khu du lòch Hòn Rơm của công ty du lòch Bình Thuận gồm
những nhà lá dành cho khách du lòch ở trên bãi biển.
*
* *
Trở về gần đến thò xã Phan Thiết, hai bên đường là những ruộng muối trắng tinh.
Sở muối.
 Cách làm muối :

Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
15
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Vùng này có rất nhiều ruộng muối. Phan Thiết là một tỉnh ven biển, trong năm có nhiều
ngày nắng thuận lợi trong việc làm muối. Người dân đưa nước biển vào những thửa ruộng vuông,
bằng phẳng được làm kỹ để giữ nước cho bốc hơi dần. Tinh hạt muối còn lại sẽ được cào gom lại
thành đống để khô đem nung. Khi cào muối phải kỹ, đừng làm rách da ruộng (lớp đất dưới).
Dọc theo duyên hải, miền Trung cũng có nơi làm muối như : Hàm Tân, Cà Ná, Cam
Ranh
*
* *
Ngã ba Tuy Phong.
Cách thò xã Phan Thiết 90km. Rẽ phải vào 1km sẽ có một ngã ba, rẽ phải khỏang 7km sẽ
đến chợ Bình An. Xe đỗ tại đây, phải đi bộ hoặc đi xe thồ khỏang 1km đường đá rất dốc sẽ lên
chùa Cổ Thạch, ở xã Bình An. Dưới chân chùa là bãi tắm Cổ Thạch, đặc biệt có những đá cuội
nhiều màu sắc. Xã Bình An là nơi máy bay Mỹ khi đi oanh tạc miền Trung và Tây Nguyên đã trút
hết bom đạn xuống trước khi trở về Sài Gòn.
Huyện Tuy Phong, nổi tiếng với nhà máy nước suối Vónh Hảo, nằm trong một thung lũng
cách quốc lộ không đầy 2km. Từ ngã ba Tuy Phong đến suối Vónh Hảo khoảng 11km. Năm
1909, một người Việt Nam trong một chuyến đi săn tê giác đã phát hiện suối nước nóng này.
Người Pháp đã tiến hành thăm dò, khảo sát và kết luận ở đây có nước khoáng chất lượng cao.
Vào năm 1928 - 1930, họ chính thức khai thác nhưng sau đó bỏ không khai thác nữa. Sau năm
1975, việc khai thác này thuộc xí nghiệp nước suối Vónh Hảo, công suất 5 triệu lít một năm.
Trong nước suối Vónh Hảo có chứa những khóang chất trò bệnh đường ruột, cao huyết áp và đặc
biệt là bệnh ngòai da.

Về tên Vónh Hảo, chuyện kể rằng vào năm 1306, Vua Chế Mân người Champa, khi cưới
Công chúa Huyền Trân đã chọn nơi đây để hưởng tuần trăng mật và Công chúa nghỉ đến tình
giao hảo giữa hai nước nên đã đặt tên cho giòng suối này là Vónh Hảo.
Từ Vónh Hảo lên Cà Ná 10km.
Bãi biển Cà Ná.
Là ranh giới tự nhiên giữa Ninh Thuận - Bình Thuận. Theo tiếng người Chăm, Cà Ná có
nghóa là đá ngầm vì ở bãi biển có đá ngầm bên dưới. Từ thế kỷ XV - XVI, đây lànơi nghỉ mát của
các Vua Chăm. Một bên là núi cao, một bên là biển với bãi trắng trải dài, nước xanh trong với
các tảng đá to lớn nằm rải rác đó đây, ở giữa có đường tàu hỏa, đường ô tô song song với nhau
làm cho phong cảnh của Cà Ná càng thêm hấp dẫn.
Cà Ná nổi tiếng với nghề làm muối vì nồng độ muối trong nước biển khá cao. Ở Cà Ná
còn có nước mắm cá cơm và cá cơm khô. Đến mùa, cá cơm phơi thành đống cả một vùng.
Ngay Cà Ná nhìn ra biển sẽ thấy cù lao Cau giống hình hàng không mẫu hạm ( 14km
đường biển ). Trên cù lao Cau có hòn đá mang nhiều hình thù : rùa khổng lồ dựa vách núi - Chim
én bắt đầu làm tổ. Có nhiều cây thuốc nam ở cù lao Cau. Có đền thờ cá ng, hàng năm dân
đánh ca ra đây làm lễ. Hiện có viện nghiên cứu thủy sản cách đảo 3km.
Khỏi khách sạn Cà Ná đi 4km có hợp tác xã muối. Có một con đường bên phải vào
khoảng 4km sẽ đến làng chài Cà Ná.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
16
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Với tỉnh lỵ là thò xã Phan Rang, cách Sài Gòn 355km. Diện tích 3.530km2, dân số
461.000 người. Thò xã nằm bên bờ sông cái, cách biển Ninh Chữ 6km và cách ga tháp Chàm,
tháp Po Klong Gia Rai 7km. Xưa, vùng đất này thuộc vương quốc Chăm Panduranga, nay còn lại
dấu vết là các tháp cổ : Hòa Lai, Pôrômê, Po Klong Gia Rai. Hiện người Chăm chiếm 10% dân số

toàn tỉnh, 60% theo Bà La Môn giáo (Chăm Bà La Môn). Họ sống tập trung thành làng, không
thích trồng cây xung quanh nhà. Nhà không có cửa sổ để tránh ma qủy trú ẩn và vào nhà. Nổi
tiếng ở đây có thổ cẩm Mỹ Nghiệp.
Làng Mỹ Nghiệp.(Huyện Ninh Phước)
Cách trung tâm thò xã khoảng 10 cây số, nổi tiếng khắp nước với mặt hàng vải thổ cẩm dệt
tay. Đặc biệt là cơ sở Inrahani của nghệ nhân Thuận Thò Trụ, người đã từng trình diễn nghề một
cách tinh xảo trước công chúng trong ngày hội thời trang thổ cẩm ở thành phố Hồ Chí Minh.
Làng Mỹ Nghiệp có thể trở thành một điểm tham quan cho du khách. Ở đây còn có các
bậc cao niên trong lónh vực dệt thổ cẩm, những thầy cúng tế, những nghệ só chơi các nhạc cụ
Chăm như trống Baranưng, Kèn Xông là những người giữ được cái hồn của nền văn hóa Chăm
lâu đời.
Làng gốm Phan Hiệp Chợ Lầu.(Bình Thuận)
Thuộc huyện Bắc Bình, làng gốm Phan Hiệp cũng như những làng người Chăm khác được
gọi là Play, trước đây trong khuôn viên mỗi nhà có nhiều nhà nhỏ cho một đại gia đình. Nhà của
người Chăm thường làm bằng những vật liệu sẵn có như đất sét trộn chung với rơm để làm vách,
mái lợp bằng lá hoặc bằng ngói, nền nhà là nền đất. Nhà của người Chăm không có cửa hoặc
cửa sổ rất nhỏ khỏang 20 - 30cm, để tránh ma qủy chui vào nhà. Khuôn viên nhà được bao bọc
bằng một hàng rào cây khô hoặc cây xương rồng để ngăn chận ma qủy. Họ không trồng cây ở
trong sân nhà vì sợ ma qủy ẩn náu dưới bóng cây. Ở Phan Hiệp nay cũng đã có những đổi mới :
có nhà bằng gạch xây dựng theo lối người Kinh.
Ở làng Phan Hiệp có nhiều gia đình sống bằng nghề gốm. Ngày nay, chủ yếu chỉ còn
những người gìa là thạo về nghề này. Người Chăm làm gốm rất đơn giản. Có một bệ để đặt đất
sét, với đôi tay khéo léo và một mảnh khăn, người làm gốm vừa xoay quanh bệ vừa nặn : nồi,
chum, lu, chậu v.v sau đó đem ra phơi nắng trong 1 - 2 giờ. Sau cùng, sản phẩm được tập trung
tại một khu đất trống, dùng rơm, củi để nung. Khi đã chuyển qua màu nâu đỏ, khô cứng, sản
phẩm được lấy ra để rãy nước trái lựu để trang trí với những đốm màu đen chàm. Đặc biệt là tất
cả các gia đình đều đem sản phẩm để nung nhưng mỗi nhà chỉ lấy những thứ của mình và không
bao giờ xảy ra chuyện lấy lộn đồ của nhau. Sau đó họ gánh những đồ vừa nung xong ra chợ bán.
Tuy sản phẩm làm ra không sắc sảo như của người Kinh, nhưng sử dụng cũng tốt và bền.
Người Chăm.

Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
17
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Người Chăm ở Việt Nam có số dân khoảng 76.000 người (ngoài Việt Nam còn có người
Chăm ở Campuchia và một ít ở Thái Lan ). Một bộ phận đông đảo người Chăm sinh sống ở Ninh
Thuận - Bình Thuận thuộc các huyện Bắc Bình, Ninh Phước, Ninh Xuân, Tuy Phong, Phan Rang -
Tháp Chàm v.v ở vùng huyện Phú Châu và Châu Phú tỉnh An Giang có 7 khu vực cư trú của
người Chăm dọc theo sông Hậu, gần với biên giới Việt Nam - Campuchia. Ngòai ra, còn có
khỏang vài ngàn người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Tây Ninh.
Thuận Hải là một vùng đồng bằng hẹp, một bên là biển,một bên là những dãy núi, đôi khi
có những nhánh núi đâm ngay ra biển, nhiều cồn cát. Khí hậu vùng Thuận Hải nơi có người
Chăm cư trú rất nóng bức, khô hanh, ít mưa. Người Chăm ở đây sinh sống bằng nghề nông, gieo
trồng lúa nước, một vài thôn xóm duy trì nghề dệt vải và gốm thủ công như Mỹ Nghiệp, Bàu Trúc.
Để có nước canh tác, người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận đã biết kiến trúc các đập nước
như đập Nha Trònh xây dựng từ thế kỷ 12, đập Ma-rên hòan tất vào thế kỷ 17. Ngòai ra, trong
một số vùng người Chăm còn đắp các đập “Chà bơi” bằng cây bụi, đất đá để ngăn nước suối
chảy vào ruộng. Nghề dệt và làm gốm thủ công của người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận đã
tạo nên nhiều sản phẩm độc đáo mang đậm màu sắc dân tộc truyền thống. Các sản phẩm thủ
công không chỉ cung cấp cho đồng bào Chăm trong vùng mà còn được đưa đến các vùng dân tộc
anh em xa xôi ở Tây Nguyên để trao đổi các vật dụng khác.
Người Chăm ở An Giang vốn là một bộ phận của người Chăm xưa kia sinh sống ở miền
Trung Việt Nam, vì những lý do lòch sử chuyển cư qua Campuchia và trở về đònh cư ở An Giang
vào khoảng thế kỷ 17. Sống ven sông và trên các cù lao sông Hậu, người Chăm An Giang làm
nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, chủ yếu là bán dạo vải vóc khắp các tỉnh đồng
bằng Nam bộ. Người Chăm An Giang theo đạo Hồi và có quan hệ tôn giáo với một số nước theo

Hồi giáo.
*
* *
Dân tộc Chăm vốn có một lòch sử phát triển từ lâu đời. Từ thế kỷ 2 sau công nguyên, các
thư tòch cổ đã nhắc đến việc hình thành một quốc gia Lâm p trên đòa bàn sinh tụ của người
Chăm xa xưa. Trước đó, cũng trên đòa bàn của người Chăm, đã từng xuất hiện một nền văn hóa
cổ , văn hóa Sa Huỳnh có niên đại cách đây từ 2.000 - 4.000 năm. Văn hóa Sa Huỳnh thuộc thời
đại kim khí từ đồng thau đến sắt gớm. Một số tác gỉa cho rằng chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có
thể là người Chăm cổ và họ gọi đó là văn hóa “Tiền Chăm”. Về mặt tộc người, vào khoảng thời
gian đầu công nguyên, ở vùng đất miền Trung Việt Nam đã tồn tại hai bộ lạc cổ : bộ lạc Dừa ở
phía Bắc Trung bộ, từ Thừa Thiên đến Phú Yên ( đèo Cù Mông ) và bộ lạc Cau ở phía Nam đến
vùng Phan Thiết. Cư dân hai bộ lạc này thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô-Pôlynêsiên. Từ hai bộ lạc
này hình thành các tiểu quốc và dần kết hợp lại để đến thế thứ 2 ra đời vương quốc cổ Champa
đầu tiên do Khu Liên đứng đầu.
- Vương triều Gangaraja ( Thế kỷ II đến đầu thế kỷ thứ 8 ). Thời kỳ này trải qua 9 triều Vua.
Sự thống nhất của hai tiểu quốc Nam, Bắc Chăm để ra đời một nhà nước Chămpa. Đây cũng là
thời kỳ Bắc Chăm chiếm ưu thế, văn hóa n Độ ảnh hưởng mạnh mẽ trong kiến trúc, điêu khắc
Chăm. Kinh đô lúc này được đònh đô tại Trà Kiệu ( Quảng Nam ) với tên là Sinhapura ( thành phố
sư tử ). Cách kinh đô Trà Kiệu không xa rẽ phía Tây Nam 28km, các Vua Chăm còn cho xây khu
thánh đòa Mỹ Sơn làm nơi thờ cúng các vò thần tối thượng.
- Vương triều Panduranga ( giữa thế kỷ 8 đến giữa thế kỷ 9 ) vương triều Panduranga trải
qua 6 đời Vua trò vì. Thời kỳ này Nam Chăm có nhiều ưu thế do nhiều biến động ở phía Bắc làm
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
18
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485

Bắc Chăm suy yếu. Kinh đô Chămpa chuyển vào vùng Khánh Hòa ngày nay, tháp Ponagar ở Nha
Trang được xây dựng vào thời kỳ này và là nơi thờ thần của các vương triều.
- Vương triều Indrapura ( giữa thế kỷ 9 đến cuối thế kỷ 10 ). Thời kỳ này kinh đô Chămpa
lại chuyển ra phía Bắc và xây dựng tại vùng Đồng Dương trên một nhánh sông Thu Bồn, cách Trà
Kiệu về phía Bắc 15km. Kinh đô có tên gọi là Indrapura - Kinh đô ánh sáng. Đây là thời kỳ Phật
giáo chiếm ưu thế. Khu vực Đông Dương được các Vua Chăm cho xây dựng nhiều đền tháp, kiến
trúc thờ Phật. Tuy nhiên, Bà La Môn giáo vẫn còn những ảnh hưởng lớn lao và song song tồn tại
vương triều Indrapura trải qua 9 đời Vua.
- Vương triều Vijaya ( thế kỷ 10 đến thế kỷ 15 ). Cuối thế kỷ 10, Vua Vijaya lên ngôi, để
tránh sự đe dọa của phía Bắc Vua quyết đònh dời đô về Vijaya thuộc vùng Bình Đònh ngày nay.
Từ năm 1.000 Vua cho xây dựng tại đây một kinh đô mới mà trong sử sách cũ quen gọi là Đồ
Bàn. Vương quốc Chămpa bắt đầu bò thu hẹp dần, kinh đô nhiều lần bò tấn công, đất nước
Chămpa trải qua nhiều biến động lớn lao và có nhiều dấu hiệu suy sút.
- Vương triều Panduranga II ( giữa thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 17 ). Thành Đồ Bàn thất thủ,
báo hiệu vương quốc Chămpa bước vào giai đọan suy tàn. Vương quốc Chămpa lui về phía Nam
đèo Cù MÔng, kinh đô chuyển dần về Phan Rang. Mặc dù các Vua Chăm có nhiều cố gắng để
duy trì vương quốc Chămpa, nhưng đến cuối thế kỷ 17 các Chúa Nguyễn đã dần dần chinh phục
nhiều miền đất của Chămpa thành một thuộc quốc và vương quốc Chămpa đã chấm dứt sự tồn
tại.
Ngày nay, trên một dọc dãy miền Trung, đó đây du khách vẫn còn bắt gặp những ngôi
tháp rêu phong cổ kính chơ vơ trên các ngọn đồi. Đó là những dấu tích của những công trình
kiến trúc, điêu khắc của dân tộc Chăm ghi dấu những năm tháng huy hoàng của vương quốc
Chămpa, những tháp Chàm đã được nhiều người trong nước và trên thế giới biết đến.
*
* *
Ngôn ngữ Chăm được xếp vào hệ ngôn ngữ Mailaiô Polynesien gần gũi với ngôn ngữ một
số dân tộc Tây Nguyên như người Raglai, đê, Giarai Người Chăm có chữ viết từ khá sớm.
Chữ viết Chăm dựa trên cơ sở của chữ Phạn ( Saucrit ). Một số trí thức và học gỉa đã tiến hành la
tinh hóa chữ Chăm, nhưng trong thực tế có nhiều hạn chế. Người Chăm ở An Giang sử dụng chữ
Ả Rập để ghi chép kinh Koran và phiên âm tiếng Chăm.

*
* *
Tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng chi phối đời sống của đồng bào Chăm. Người
Chăm ở Thuận Hải theo hai tôn giáo chính. Bộ phận những người Chăm theo đạo Bà La MÔn
được gọi là “Bà Chăm”, bộ phận người Chăm theo đạo Hồi với những biến dạng gọi là “Bà Ni”.
Người Chăm theo Hồi giáo kiêng không ăn thòt heo, bởi trong quan niệm Hồi giáo heo là con vật
bẩn thỉu, xấu xa. Tôn giáo đã có tác động lớn lao đến sự tồn tại và phát triển của xã hội Chăm,
vừa gắn bó cộng đồng Chăm, nhưng mặt khác lại chia rẽ, phân hóa xã hội Chăm. Sự tranh chấp
giữa các tôn giáo đã gây nên những đau thương, có khi dẫn đến các xung đột đổ máu. Con trai,
con gái giữa hai tôn giáo không được kết hôn với nhau. Những làng Chăm có hai tôn giáo tồn tại
bò ngăn cách, chia rẽ nhau. Tầng lớp tu só của các tôn giáo giữ vò trí quan trọng trong quản lý xã
hội Chăm.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
19
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Người Chăm còn duy trì nhiều tín ngưỡng dân gian, thờ cúng các vò thần đất đai, nhà cửa,
nhiều kiêng kỵ, tin ở các thế lực ma qủy vô hình. Người Chăm còn bảo lưu hệ thống lễ nghi nông
nghiệp khá phong phú như lễ cúng ruộng, cúng đập nước v.v
*
* *
Khu vực cư trú của người Chăm được gọi là Palây, giống như làng của người Việt. Các
Palây Chăm gồm khoảng 100 - 200 hộ gia đình. Nếu gia đình Chăm nằm trong một khuôn viên
với các nhà cửa, chung quanh là hàng rào bằng cây khô. Một đôi làng Chăm có lũy tre bao bọc.
Trong các Palây Chăm, ít có cây cổ thụ hoặc cây xanh, người Chăm quan niệm cây cối ở trong
khuôn viên sẽ là nơi trú ngụ của ma qủy và ác thần. Vì vậy làng Chăm có vẻ trơ trụi và cằn cỗi,

tòan là hàng rào cây khô.
Nhà ở của người Chăm được làm bằng tre, gỗ, lợp mái bằng tranh rạ, tường đắp đất sét
trộn với rơm khô. Nhà ở quay mặt về hướng Nam hoặc Tây Nam, vừa để tránh gío Đông Bắc lạnh
lẽo, vừa theo phong tục, quan niệm của người Chăm. Theo đó, hướng Đông là hướng của thần
thánh, hướng Tây là hướng của người chết, hướng Bắc là của ma qủy, hướng Nam là của con
người. Chính vì vậy các tháp, đền của người Chăm đều quay mặt về hướng chính đông. Nhà ở
của người Chăm là nhà nền đất, cấu tạo kèo cột giống như nhà ở của người Việt. Trong khuôn
viên của người Chăm có nhà khách, nhà cho vợ chồng của các con gái, nhà ở của bố mẹ, nhà
bếp và chuồng súc vật riêng biệt.
*
* *
Người Chăm cho đến nay vẫn còn duy trì chế độ mẫu hệ. Trong gia đình và xã hội người
phụ nữ đóng một vai trò quan trọng. Con cái lấy theo họ mẹ và việc thừa kế tài sản chỉ dành
riêng cho con gái. Sau hôn nhân, người con trai phải về ở bên nhà vợ. Trong trường hợp ly dò,
người con trai phải ra đi với một ít tư trang không được chia của cải và con cái của hai vợ chồng.
Người Chăm dành nhiều ưu ái cho con gái so với con trai trong gia đình.
Người Chăm ở An Giang, do ảnh hưởng của Hồi giáo nên chế độ phụ hệ được thiết lập
trong xã hội Chăm. Người đàn ông có quyền nhiều hơn phụ nữ, nhất là trong các quan hệ giao
tiếp xã hội. Các cô gái Chăm ở An Giang phải gìn giữ, tránh tiếp xúc với người lạ, với khách. Tuy
nhiên, trong một số lónh vực những tàn dư mẫu hệ vẫn còn bảo lưu.
*
* *
Người Chăm cho đến nay vẫn còn bảo tồn nhiều phong tục tập quán khác đặc sắc thể
hiện qua sinh họat, trong hôn lễ, tang lễ và các lễ hội dân gian khác.
Tục lễ gã cưới của người Chăm. Đám cưới của người Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận trải
qua nhiều bước lễ, như lễ đi chơi hay lễ trầu cau, lễ này giống lễ dạm của người Việt, nhưng bên
nhà gái chủ động mai mối, rồi đến lễ hỏi. Sau lễ hỏi một thời gian là lễ cưới với nhiều nghi thức
rườm rà. Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái, ngoài cha mẹ, họ hàng, bạn bè hai bên còn có các vò
chức sắc tôn giáo có tham dự, chứng kiến. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng trở lại từ biệt cha mẹ bên
nhà trai.

Đám tang của người Chăm tùy theo tôn giáo có sự khác biệt nhau. Đối với những người
Chăm Hồi giáo, đám tang của người Chăm được tổ chức nhanh gọn và chôn trong các nghóa đòa
của dòng họ gọi là “Khuần”. Việc chôn cất được rửa sạch xác và không có quan tài.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
20
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Đối với người Chăm theo Bà La MÔn, người chết được hỏa táng. Sau đó lấy 9 mảnh xương
sọ bỏ vào một hộp “Klong” và chôn vào “Kút”, một lọai nghóa đòa của dòng họ. Người đàn ông khi
chết phải đem chôn hoặc đem “Klong” về nghóa đòa thuộc dòng mẹ.
Hằng năm, người Chăm có nhiều lễ Tết nhưng đáng chú ý nhất là hai ngày Tết lớn nhất :
một của Chăn Bà La Môn là Tết Katê, một của Chăm Hồi giáo là lễ Ramanda.
Tết Katê tiến hành vào ngày 01/ 07 m lòch Chăm ( khoảng cuối tháng 9 hoặc đầu tháng
10 Dương lòch ). Trong làng vui vẻ chuẩn bò Tết với việc làm các lọai bánh trái, dọn dẹp trang
hoàng nhà cửa, làng xóm. Ngày Tết có tổ chức rước “Ràng Patao” (Mủ Vua), thanh niên nam nữ
và đông đảo bà con Chăm kéo lên các tháp tổ chức lễ “mở cửa tháp” và vui chơi đón mjừng may
mắn, hạnh phúc.
Người Chăm HỒi giáo tổ chức tháng lễ Ramanđan vào khỏang tháng 4. Trong tháng này
mọi người phải nhòn ăn ban ngày và không làm việc, các tu só phải túc trực ở thánh đường đọc
kinh cầu nguyện. Kết thúc tháng Ramanđan là ngày “xả chay” tổ chức vui vẻ và ăn uống thoái
mái công cộng trong cả Palây.
*
* *
Văn học dân gian Chăm rất phong phú về thể lọai và nội dung. Văn học dân gian Chăm
phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống, tâm tư, mong ước của người dân Chăm. Cũng như
nhiều dân tộc khác, những thần thọai truyền thuyết Chăm là một cố gắng để lý giải về nguồn gốc

vũ trụ, cuộc sống con người với một tư duy nguyên thủy, giản dò, chất phác. Truyền thuyết về
Ponagar, người mẹ xứ sở rất phổ biế, nói về một vò thần mà ngày nay còn thờ ở tháp Bà ( Nha
Trang ) đã có công khai sáng dân tộc Chăm. Thơ, truyện dân gian Chăm cũng dành phần lớn ca
ngợi về tình yêu nam nữ Chăm cho những cuộc tình duyên trắc trở, nhất là những mối tình dang
dở của những đôi trai gái yêu nhau nhưng khác nhau về tôn giáo như truyện thơ “Chăm Bàni”. Đó
là một bi kòch, một nỗi đau vónh hằng của cuộc tình trai gái chưa trọn vẹn. Ở đây tiếng khóc của
cuộc tình còn mãi với đời sau :
“Tình thương của con đối với chàng Bàni đẹp lắm
Trời ơi, ai đã đặt ra hai dòng đạo làm gì
Máu của tôi mất đi ”
Đáng chú ý là trong văn học dân gian Chăm từ lâu đã tồn tại các bản trường ca như
Sakykay, Ramayana, Umưrúp v.v phản ánh cuộc sống, đấu tranh của dân tộc Chăm trong lòch
sử. Trường ca Umưrúp phản ảnh khía cạnh của xã hội Chăm trong sự xung đột giữa Hồi giáo với
Bà La Môn giáo.
Người Chăm bảo lưu một kho tàng rất phong phú về âm nhạc, ca múa dân gian. Nhiều
điệu múa Chăm đến nay đã được nhiều người biết đến như “đội nước”, “múa Chăm” m nhạc
Chăm có nhiều giai khúc, nhiều nhạc cụ cổ truyền như đàn Kanhi, đàn tapắp, kèn saranay, kèn
rakle v.v và nhiều lọai trống. m nhạc và ca múa Chăm không chỉ trong sinh họat dân gian mà
còn phục vụ cho các lễ hội và các sinh họat tôn giáo.
Văn học, nghệ thuật dân gian Chăm đã góp phần làm phong phú và đặc sắc cho vườn hoa
muôn màu của văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Tháp Hòa Lai (hay Ba Tháp).
Tọa lạc tại thôn Gò Đền, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải - Ninh Thuận, cạnh quốc lộ 1A.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
21
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails

347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Các tháp Chăm hiện còn đều nằm trên đồi cao. Tháp Hòa Lai được xây trên một khu đất
khá rộng, bằng phẳng giữa vùng đồng bằng. Tháp nguyên thủy gồm 3 tháp chính và một số tháp
phụ, cả hệ thống xây theo hướng nam bắc nhưng không thẳng hàng với nhau. Hiện nay, quần thể
tháp chỉ còn tháp nam và tháp bắc. Tháp giữa đã bò đổ nát, hai tháp còn lại chỉ còn tầng dưới là
nguyên vẹn, các tầng trên xung quanh đều bò đổ lở. Tất cả cửa tháp đều xây về hướng đông. Ba
mặt tường tây - nam - bắc của tầng dưới đều có cửa giả nhô ra khỏi mặt tường.
Nét riêng của các tháp này là :
1. Các mặt tường tây - nam - bắc được trổ lỗ để ánh sáng chiếu vào
2. Tầng trệt của tháp xây lối hình vuông, trong khi các tháp khác xây theo hình chữ nhật.
3. Bên trong tháp không có bệ cao và tượng của Vua Chúa, Thánh Thần do đó không có sự
thờ cúng của người đòa phương.
Dân gian Chăm thì cho rằng tháp này của người Kampuchia xây lở dở nửa chừng phải bỏ
vì thua cuộc thi tài xây tháp với Vua Pô Klaung Garai. Vì vậy, người Chăm không coi tháp đó là
sản phẩm của mình nên không thờ tự.
Theo cụ Bố Thuận, nguyên là chuyên gia về Chăm của trường Bát Cổ Viễn Đông thì vào
năm Sửu của lòch Chăm, Vua Pô Klaung Garai vì muốn kỷ niệm thû hàn vi tại nơi chôn nhau cắt
rốn nên đã vào Panduranga (nay là Phan Rang) tìm đòa thế để xây tháp. Nhưng khi đến đòa phận
Balhuk (Ký hũ, Mỹ Tường) thì bò Chúa Lónh, người Miên tên là Ha Kral cản ngăn. Pô Klaung Garai
không muốn lâm vào trận chiến không cần thiết nên thách đố tướng Miên thi tài xây tháp. Ai
xây xong trước thì thắng. Ai thua thì rút quân về. Kết quả, Vua Pô Klaung Garai đã thắng cuộc.
*
* *
Từ thò xã Phan Rang đi tiếp 110km sẽ đến thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
II/ KHÁNH HÒA - NHA TRANG
Diện tích 4.626km2, dân số 818.850 người. Nằm vào vò trí cực đông của đất nước, bắc
giáp Phú Yên, tây giáp Daklak - Lâm Đồng, nam giáp Ninh Thuận và đông là biển đông.
Bờ biển Khánh Hòa trải dài trên 160km, với những danh lam thắng cảnh kỳ thú và nổi
tiếng như : Vũng Rô, Đại Lãnh, Dốc Lếch, Đầm Vân, Cam Ranh Đây là bờ biển sâu bậc nhất ở
Việt Nam, tiếp giáp rất gần với đại dương. Đáy biển có tốc độ cao, ghồ ghề, bao gồm tầng tầng,

lớp lớp những rặng san hô tạo nên chốn thủy cung muôn hình muôn sắc, nơi cư trú của hàng vạn
sinh linh biển cả. Thủy triều ở đây lên xuống hai lần một ngày.
Núi non Khánh Hòa hùng vó và vươn dài ra tận biển, tạo nên những đòa thế cao khúc
khuỷu và hiểm trở như đèo Cả, Rù Rì, Rọ Tượng Các vùng đồng bằng ven biển là cánh đồng
Ninh Hòa và Diên Khánh được các dãy núi cao bao bọc. Ngòai ra, còn có hàng trăm hòn đảo lớn
nhỏ nằm rải rác ngoài khơi.
Có hai sông chính : sông Cái và sông Dinh.
- Sông Cái (sông Nha Trang) bắt nguồn từ đỉnh Gia Lô, cao 1821m của dãy Trường Sơn
Nam, dài trên 60km chảy qua các vùng Khánh Vónh, Diên Khánh rồi đổ ra biển Nha Trang.
- Sông Dinh bắt nguồn từ đỉnh Chư Mu, cao 2.051m,trải dài 60km qua vùng Ninh Hòa đổ
ra cửa biển Hà Liên.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
22
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Khánh Hòa là nơi rất giàu có về tài nguyên rừng và biển. Rừng Khánh Hòa là nơi có một
trữ lượng lâm sản lớn và đa dạng, nổi tiếng về các lọai gỗ qúy : mun, cẩm lai, trắc, hương, cà te,
vàng hương, kền kền, tếch, bằng lăng đủ lọai sản phẩm qúi của rừng : kỳ nam và trầm, gạc
nai, mật ong, nhựa thông các thảo dược qúi dùng làm dược liệu : mã tiền, sa nhân, hà thủ ô,
sâm nam các lọai thú qúi hiếm : voi, hổ, báo, khỉ, bò tót, nai, sơn dương, gấu, trăn, cá sấu
“Cọp Khánh Hòa” nổi tiếng từ thời xa xưa.
Biển Khánh Hòa rất giàu hải sản qúy và hiếm : cá thu, cá chim, cá ngừ, mực, tôm hùm,
hải sâm, sò huyết, cua biển, ốc biển, ba ba, đồi mồi đủ các lọai san hô đỏ, hồng, đen, trắng,
dạng trúc rong câu đủ lọai. Khánh Hòa là nơi quy tụ một lọai đặc sản đặc biệt với khối lượng,
chất lượng lớn và tốt nhất cả nước là yến sào mang lại một nguồn ngọai tệ đáng kể và ổn đònh
cho ngân sách của tỉnh. Khánh Hòa nổi danh từ xưa về trầm hương và yến sào. Vùng biển Khánh

Hòa có nhiều đảo có yến sào như Hòn Bố, Hòn Đụng, Hòn Mun, Hòn Nội, Hòn Ngọai, Hòn Yến
v.v
Khánh Hòa có nền văn hóa, lòch sử phát triển lâu đời và phong phú. Các nhà khảo cổ học
cho rằng cách đây trên dưới 5.000 năm đã có cư dân sinh sống ở đây. Tại xóm Cồn (Cam Ranh)
đã tìm thấy những cuốc đá có kích thước lớn, rìu tứ giác, lưỡi mài vát hai bên, rìu răng trâu, bàn
nghiền, răng và xương thui có niên đại cách đây khoảng 4.500 năm. Bộ chum Diên Sơn (Diên
Khánh) được tìm thấy tại mộ táng Diên Sơn, nơi còn dấu vết một dòng sông cổ với những triền
ruộng bậc thang dưới chân núi Đại An. Nơi đây đã tìm thấy một số hiện vật thuộc văn hóa Sa
Hùynh.
Những phiến đá Lythophone có niên đại 3.000 - 3.500 năm của bộ đàn đá Khánh Sơn,
được người Raglai lưu giữ như báu vật gia truyền của tổ tiên được tìm thấy tại di chỉ Dốc Gạo.
Đây chính là “xưởng thủ công” sản xuất dụng cụ âm nhạc bằng đá thời nguyên thủy.
Tại làng Phổ Vân, xã Võ Cạnh (Tây Nha Trang) đã phát hiện tấm bia bằng đá hoa cương
thuộc lọai cổ nhất Đông Nam Á khắc chữ Sanskrit, dựng vào đầu thế kỷ III, là bi ký của một
vương quốc với vò Vua tên hiệu là Xri Mara.
Qua phân tích lòch sử phát triển vương quốc Phù Nam, Chămpa, nhất là qua bia ký của
Chămpa có thể khẳng đònh từ thế kỷ thứ I cho đến năm 1653 vùng đất Khánh Khánh Hòa thuộc
về vương quốc Chămpa. Trước đó, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ V, có 3 giả thuyết về sự tồn tại một
vương quốc trên đất Khánh Hòa :
- Các vùng đất Thuận Hải, Khánh Hòa và Phú Yên ngày nay xưa kia là đất đai của vương
quốc Nam Chăm.
- Là vùng đất của vương quốc Chămpa thống nhất ngay từ đầu thế kỷ I cho đến năm 1653.
- Là một vùng đất của vương quốc Phù Nam.
Năm 1653, Vua Chiêm Thành đem quân quấy nhiễu vùng Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc
Tần cử tướng Nùng Lộc đem quân dẹp lọan, đánh thắng, chiếm luôn xứ Kauthara từ chân đèo Cả
đến giáp Phan Rang và lập nên hai phủ mới : Thái Khang và Diên Ninh. Từ đó, lòch sử Khánh
Hòa mở sang trang mới.
Năm 1793, Nguyễn nh cho xây thành Diên Khánh với kiến trúc kiểu vauban để ngăn
chặn quân Tây Sơn. Trước đó 4 năm, vào 1789 thời Tây Sơn, phủ Thái Khang được đổi thành
Trấn Bình Khang. Đến thời Gia Long (1808) đổi lại thành Trấn Bình Hòa. Tên “Trấn Khánh Hòa”

có từ thời Minh Mạng.
*
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
23
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails
347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
* *
NHA TRANG.
Năm 1885, quân Pháp đổ bộ lên Khánh Hòa - Nha Trang chỉ mới bao gồm những xóm
chài nằm rải rác phía cửa sông và ven bờ biển.
Năm 1886, khi Pháp đặt ách đô hộ ở đây, chính quyền Nam Triều đóng trong thành Diên
Khánh.
Năm 1891, khi bác só A. Yersin tìm ra đòa điểm xóm Cồn, dân chài Nha Trang mới tập
trung về đây.
Năm 1924, sau nghò đònh của toàn quyền Đông Dương, Vua Khải Đònh ra chỉ dụ về việc
thiết lập thò trấn Nha Trang.
Năm 1944, tòan quyền Đông Dương ra nghò đònh về việc nâng Nha Trang lên thành thò xã.
Đến năn 1946, các trøng huấn luyện hải quân, không quân, hạ só quan Đồng Đế được thành lập
kéo theo sự di cư và đònh cư mới tới lân cận quân trường. Nha Trang được mở rộng về 2 hướng
Đồng Đế và cầu Đá.
Năm 1954, Xóm Mới tiếp nhận dân di cư vào.
Năm 1956, chính quyền Sài Gòn bãi bỏ chế độ thò xã, chia Nha Trang thành hai xã : Nha
Trang Đông và Nha Trang Tây, thuộc quận Vónh Xương, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1966, cùng với sự hiện diện của quân đội Mỹ, có nhiều nhà thầu nước ngòai. Việc
giao lưu phát triển, Nha Trang có dòp mở rộng tới tận Bình Tân qua ngã ba Đồng Đế, dân số
200.000 người.

Ngày 22/10/ 1970, chính quyền Sài Gòn lại nâng Nha Trang lên thành thò xã với hai
quận.
Nha Trang ngày nay cách thành phố Hồ Chí Minh 450km là thủ phủ tỉnh Khánh Hòa. Dân
số 300.000 người, với diện tích tự nhiên 238km2 nằm gọn trong một thung lũng giữa núi và ven
biển, có khí hậu cận nhiệt đới với gío mùa. Hòn Tre với diện tích 36km2, đứng sừng sửng là yếu
tố góp phần tạo dựng điều kiện khí hậu tuyệt vời cho Nha Trang.
Nha Trang được xem là một trong những thành phố biển đẹp nhất Việt Nam, nhiệt độ
trung bình 26,4oC , có hai mùa : mùa mưa và mùa khô kéo dài suốt 8 tháng đầu năm, mùa nắng
trời luôn xanh ngắt, biển lặng, rất ít khi có mưa và có độ ẩm rất thích hợp cho du khách từ
phương Tây đến. Đường bờ biển của Nha Trang dài gần 7km, với bãi cát trắng tinh như lưỡi liềm
bạc bao bọc lấy phía đông của thành phố, là nơi lý tưởng để nghỉ mát và dưỡng bệnh. Làn nước
xanh ngọc và trong vắt của biển Nha Trang vô cùng thích hợp cho các môn thể thao bơi lội, săn
bắt dưới nước.
Tên Nha Trang có nhiều cách để giải thích :
- Trước đây thành phố là nơi hoang vu, mọc đầy cỏ lác, lau sậy hai bên bờ sông Cái. Hoa
lau trắng xóa cả vùng, người Chăm gọi là Ya-Trang, Sau được đọc trại ra mà thành tên gọi Nha
Trang như ngày nay. Tên Nha Trang chính thức được dùng khi người Việt đặt chủ quyền của
mình trên đất này năm 1653.
- Trước đây, Nha Trang chỉ gồm tòan nhà tranh vách đất, duy nhất có nhà bác só A. Yersin
là xây bằng gạch, mái ngói đỏ tươi và quét vôi trắng. Một hôm có một chiếc tàu buôn ngọai quốc
đi qua cửa biển Cù Huân (cửa lớn Nha Trang), viên chỉ huy hỏi đây là xứ gì ? Người thông ngôn
không hiểu ý, chỉ vào ngôi nhà Yersin và trả lời :”Đây là Nhà Trắng”. Viên chỉ huy liền ghi vào
bản đồ. Tiếng Pháp không có dấu thành Nha Trang.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
24
TRƯỜNG ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ DU LỊCH SÀI GÒN - Du Lòch SaiGon Trails

347A NGUYỄN THƯNG HIỀN,P.11,Q.10,TP.HCM – ĐT: 8344916 – 8344917 - 834485
Nha Trang có nhiều điển tích lạ và hay, người xưa gọi là “Tứ thủy triều quy, tứ thú tụ”. Đó
là 4 mặt có nước bao bọc, còn “tứ thú” là hình ảnh tượng trưng của 4 quả núi hội tụ lại đã giữ gìn
anh khí cảnh sắc, tạo nên một vùng khí hậu Hải Dương tuyệt vời cho thành phố. Bốn quả núi đó
là : núi Cảnh Long, còn có tên là Thanh long hý thủy (rồng xanh giỡn nước) ; hòn Sanh Trung ở
Hà Ra còn có tên là Bạch tượng quyện hồ (voi trắng cuốn hồ) ; núi con dơi, còn gọi là hòn Trại
Thủy ; hòn Một, hay còn gọi là núi Con Rùa, hay hòn Hòa Sơn. Bốn hòn núi này là bốn thắng
cảnh ở Nha Trang.
Những điểm tham quan ở Nha Trang gồm :
Dinh Bảo Đại.
Dọc theo đường Trần Phú có nhiều khách sạn lớn như Hải Yến, Nha Trang-Lodge, khách
sạn Hàng Hải và nhiều khách sạn tư nhân khác. Cuối đường ở phía Nam là con dốc Cầu Đá Trên
đỉnh dốc rẽ bên trái sẽ đi lên một ngọn đồi, nơi có 5 ngôi biệt thự lớn tọa lạc được gọi là Dinh
Bảo Đại, được người Pháp xây dựng từ năm 1923, dành cho Giám đốc Viện Hải Dương Học. Sau
đó, là nơi nghỉ mát cho Vua Bảo Đại và gia đình. Biệt thự đẹp nhất là lầu Nghinh Phong. Sau
Bảo Đại, nơi đây là nơi ở của cố vấn Ngô Đình Nhu. Đến thời đệ II Cộng hòa, là nơi ở của
Nguyễn Cao Kỳ. Hiện nay, có tên là khách sạn Bảo Đại, chia thành 48 phòng để phục vụ khách.
Từ trên đỉnh ngọn đồi này sẽ thấy bao quát tòan cảnh thành phố Nha Trang và vùng biển xung
quanh rất đẹp và hấp dẫn.
Viện nghiên cứu biển.
Viện được hình thành với tên viện Hải dương học vào năm 1923, trên một khu đất cao ráo,
đòa thế rất tốt, quay về hướng đông nam của dãy núi Chụt mà trên đỉnh của nó là khu biệt thự
Bảo Đại, ngay bên cạnh cảng Cầu Đá. Viện nay thuộc diện quản lý của công ty Cung ứng tàu
biển. Đây là vò trí tối ưu để xây dựng một viện nghiên cứu biển ở Việt Nam, bởi biển Việt nam
thuộc loại sâu nhất, lại chứa đựng đầy đủ các tầng, các lớp và loài động thực vật biển của vùng
biển Đông Nam Á.
Trước đây, tầng trệt của khu nhà chính được thiết kế như một hệ thống bể nổi nuôi nhiều
loài cá tôm và thực vật biển qúy, hiếm và lạ. Nó được xem như một phòng thí nghiệm nghiên cứu
khoa học, vừa như một viện bảo tàng sống đón du khách xa gần đến thăm. Sau đó, chính quyền
Sài Gòn cho xây thêm một tầng nữa, các bể chứa không chòu nổi sức nén ép gia tăng, bò rạn nứt

và mất nước. Hàng ngàn sinh vật biển bổng chốc trở thành những xác chết.
Trước khi bước vào phần chính của bảo tàng, phía bên phải có nhiều hồ nuôi các động vật
biển như : đồi mồi, sam, các lòai cá v.v Vào bảo tàng, sẽ gặp các lòai thực vật biển : từ các tảo
hiển vi có tới 500 loài, tảo kim, tảo xanh lam, tảo giáp, tảo silic v.v đến những tảo có kích
thước lớn hơn gọi là rong biển. Tiếp đến là các lòai động vật nguyên thủy - nguyên sinh, hải
miên, xoang tràng và giun. Sau đó là nhóm giáp xác thấp, nhóm giám xác cao, ngành chân đốt
còn có lớp giáp cổ (phần nhiều đã bò tiêu diệt từ lâu, còn lại đại diện là con sam). Tiếp theo là
ngành thân mềm, ngành động vật tay cuốn, ngành động vật hình rêu, ngành hàm tơ, ngành da
gai, ngành động vật có dây sống, loài cá biển, loài bò sát và các chim biển . Đáng chú ý là chim
yến biển, làm tổ trên vách đá cheo leo trong các hang ở các hòn đảo ngòai khơi.
Tuyến Du Lòch Nha Trang - Đà Lạt
Biên Soạn: Trần Quốc Sử 5-2003

Lớp Hướng Dẫn Viên Du Lòch Khoá 46 – Niên Học
1999 - 2001
25

×