Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

kinh nghiệm nuôi trồng phong lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.37 KB, 25 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM
TRỒNG, NUÔI PHONG LAN RỪNG

Mở đầu
Hiện nay, do nhiều yếu tố thuận lợi về kinh tế và xã hội mà phong trào trồng
lan đang phát triển, không chỉ ở các thành phố, thị xã mà ngay cả ở một số vùng
nông thôn, các bản làng, người dân cũng trồng ít giò lan chơi. Câu nói “vua chơi
lan, quan chơi trà” không còn phù hợp nữa. Chính vì lẽ đó mà việc kinh doanh lan
cũng rất phát triển. Thú chơi tao nhã này không phải không tốn kém và vì vậy người
kinh doanh lan cũng khá thành đạt. Không chỉ có các cá nhân chơi lan dạng nhỏ, lẻ
mà ngay cả một số công ty lớn, một số trung tâm nghiên cứu cũng đã và đang hình
thành việc nuôi trồng và kinh doanh lan. Tuy nhiên, những cơ sở lớn thường nuôi
Lan Công Nghiệp (là các loài lan được tạo ra bởi công nghệ sinh học, biến đổi gien,
lai tạo… từ các loài lan có trong tự nhiên) với mục đích kinh doanh cả trong và
ngoài nước. Những cơ sở này hàng năm hốt bạc tỷ. So với các cơ sở nuôi trồng lan
công nghiệp thì các cơ sở nuôi trồng Lan Rừng còn rất khiêm tốn, chủ yếu là ở quy
mô gia đình. Lan Rừng trước dây thường chỉ khai thác tại tại rừng Việt Nam, ngày
nay đã khai thác từ rừng của Lào, Campuchia và còn nhập từ nước ngoài về.
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, phong trào chơi lan ở Thành phố Hồ Chí
Minh đã phát triển, người ta không chỉ trồng chơi mà đã trồng để kinh doanh và đã
xuất khẩu. Nhưng lan được trồng chủ yếu là các giống Lan Công Nghiệp đa số nhập
từ Thái Lan và có cả của Đài Loan và một số nước khác. Các loài lan này thường ra
hoa nhiều lần trong năm, phụ thuộc vào cách chăm bón và khí hậu trong năm. Lan
công nghiệp thường có hoa to, màu sặc sỡ và khá bền, nhưng rất ít loài lan trong số
này có mùi thơm như Lan Rừng.
Khái niệm Lan Rừng dùng trong bài viết này được chỉ các loài lan có sẵn trong
tự nhiên trên khắp thế giới. Đa số các loài Lan Rừng chỉ ra hoa một lần trong năm.
Ở nước ta, phần lớn Lan Rừng ra hoa khoảng từ tháng 2 đến tháng 5 nhất là ở Miền
Bắc. Số ít ra hoa vào các tháng khác trong năm. Do vậy, nếu trồng nhiều loài thì
trong vườn của ta lúc nào cũng có hoa, tuy nhiên, nhiều nhất vẫn là vào Tháng 2
đến Tháng 5.


Lan Rừng có ưu điểm: khoẻ, nhiều loài dễ sống, dễ nhân giống, chống sâu,
bệnh tốt, ra hoa đều theo mùa vụ, màu sắc hài hoà, duyên dáng, đặc biệt nhiều loài
hoa có hương thơm rất đặc trưng. Nhưng có nhược điểm là hoa nhỏ, ít bền hơn Lan
Công nghiệp. Lan Rừng cho hoa theo mùa nên trong vườn sẽ không có nhiều giò ra
hoa cùng lúc nhưng quanh năm trong vườn lúc nào cũng có hoa.
Theo các nhà nghiên cứu, ở nước ta có khoảng 900 loài lan tự nhiên. Do phong
trào chơi lan phát triển nên tốc độ khai thác cũng trở nên ồ ạt và hậu quả là nguồn
lan ngày càng cạn kiệt. Nguồn Lan Rừng bán ở nhiều chợ hiện nay phần lớn được
khai thác từ Lào và Campuchia đưa về.
Cho đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu cho xuất bản nhiều ấn phẩm về kỹ
thuật trồng phong lan. Các tác phẩm này hướng dẫn khá tỷ mỷ về kỹ thuật trồng,
nhân giống và thậm chí cả phương pháp kinh doanh lan. Tuy nhiên, đa số kiến thức
trong các ấn phẩm này thiên về kỹ thuật trồng Lan Công Nghiệp và ở quy mô công
nghiệp. Trong khi nhu cầu nuôi Lan Rừng với quy mô gia đình ngày càng phát
triển, việc khai thác Lan Rừng cũng gia tăng. Do việc khai thác Lan Rừng bừa bãi,
người nuôi lan ít kinh nghiệm, việc di chuyển lan khỏi môi trường tự nhiên, thời
gian từ khi khai thác đến khi tới tay ngưồi trồng có khi cả tháng là những yếu tố
quan trọng làm cho hiệu qủa của việc nuôi Lan bị hạn chế. Ước tính số Lan đưa từ
rừng về trồng chỉ có thể tồn tại được vài chục phần trăm. Như vậy, khả năng Lan
Rừng ở nước ta bị cạn kiệt dẫn tới tuyệt chủng là một nguy cơ không xa. Ý thức
được hậu quả của nguy cơ này, Tác giả muốn trao đổi một số kinh nghiệm của một
người làm vườn thu được trong nhiều năm nuôi trồng Lan Rừng nhằm mục đích
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả nuôi Lan Rừng, bảo vệ nguồn tài nguyên quý
giá này của đất nước và bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
I. Một số khái niệm chung
Lan: Nhiều chỗ trong bài viết này để ngắn gọn chỉ dùng từ “Lan” để chỉ
Lan Rừng. Trường hợp từ “lan” (không viết hoa) là để chỉ Phong Lan nói chung,
bao gồm cả Lan Rừng và Lan Công nghiệp.
Giả hành: Chỉ thân cây lan của những loài lan đa thân như Hoàng Yến,
các loài Hoàng Thảo, Lan Kiếm Giả hành có nhiều hình dáng và cấu trúc khác

nhau. Có loài phình to và trên đó mọc lá như Hoàng Yến, Vảy Rồng. Có loài gốc
phình to, trên đó là đoạn thân mọc thẳng có nhiều đốt và lá mọc ra từ các đốt đó
như Bạch Câu, Mai Trúc Lan Có loài thân đốt dài tới cả mét như các loài Phy
Điệp. Có loài có hình thù đặc biệt như Hoàng Thảo Đùi Gà: các đốt lan phình ra và
thắt nhỏ lại như đùi gà, hoặc Hoàng Thảo Trúc Lồi/ U Lồi: thân mập, đốt dày, các
mắt phình to giống như Trúc Phật Tử. Các loài Lan đa thân, chồi non được mọc ra
chủ yếu từ căn hành (phần thân cây cho ra rễ), và đôi khi mọc ra từ các mắt của các
đốt và phát triển rễ tại các gốc chồi non, các chồi này gọi là keiki.
Các loài Lan đơn thân như Phượng Vỹ, Đai Châu có thân mọc thẳng.
Lá so le theo hai hướng trên cùng mặt phẳng. Các loài Lan này có chồi non mọc ra
từ các mắt tại các đốt của thân cây
Rễ gió: Là loại rễ to, khoẻ (Phượng Vỹ , Đai Châu ). Không được phủ
kín rễ khi trồng Lan. Rễ gió là loại rễ đặc trưng của lan đơn thân được mọc ra từ
thân cây Lan, có hướng vuông góc với mặt phẳng mọc lá. Nhìn chung, các loài lan
rễ gió, khi trồng nên ghép vào gỗ chắc, riêng một số loài có bộ rễ phát triển nhanh
như Quế Lan Hương, Van Đa, Hồng Quế ta có thể ghép vào gỗ xốp, sau ba bốn
năm, gỗ mục rũa, rơi mất để lại bộ rễ dày đặc, chính bộ rễ này là giá thể tự nhiên rất
đẹp và giò lan sẽ nhẹ nhàng hơn.
2
Bán rễ gió: Rễ nhỏ hơn, là loại rễ của lan đa thân (như Phi Điệp, Hoàng
Thảo Đùi gà ) có thể che một lớp xơ mỏng trên rễ khi Lan mới được trồng, trong
trường hợp mảnh Lan ít rễ.
Theo một số chuyên gia, việc phân biệt các loại rễ như trên để chỉ ra Lan Rừng
có bộ rễ khác nhau sẽ có sinh thái khác nhau. Hiểu được đặc điểm sinh thái đó ta sẽ
có cách trồng và nuôi lan phù hợp.
Giò lan: Là một hoặc nhiều khóm lan được trồng trên một giá thể. Giò lan
có thể gồm nhiều loài lan tuỳ thuộc người trồng lan.
Giá thể: Là vật ghép cây lan vào để tạo thành giò lan. Giá thể chỉ để rễ
lan bám chắc vào đó giữ cho cây lan vững vàng chứ không phải là nơi cây lan hút
dinh dưỡng để sống. Do vậy, giá thể có thể là chậu gốm, chậu nhựa, rễ, cành, thân

cây hoặc làm hộp, cũi bằng gỗ, tre
Để tạo một giò lan đẹp nên chọn giá thể hài hoà với dáng cây lan. Ta chọn
cành, gốc, rễ cây có hình dáng đẹp để ghép lan. Cành, gốc, rễ cây có thể là loại khô,
tươi hoặc đã chớm mục của tất cả các loại gỗ đều có thể trồng lan được, chỉ trừ gỗ
lim, xà cừ do có độc tố chứa trong gỗ. Gỗ của những cây sống trong vùng nước
mặn cũng không thể trồng lan được. Các loại gỗ này nếu muốn trồng lan phải đốt
sâu vào thân khoảng một vài milimét hoặc ngâm trong nước trong nhiều năm. Gốc
tre già cắt cụt bộ rễ cũng là giá thể trồng lan tốt, đẹp.
Muốn có giá thể đẹp có thể chọn rễ cây, cành cây có hình dạng ưng ý hoặc
ghép chúng lại bằng nhiều mẩu cành hoặc rễ cây.
Chọn và tạo giá thể đẹp tuỳ thuộc vào thẩm mỹ, sự sáng tạo và sự khéo léo của
người trồng lan.
Lan Rừng hoặc Lan Công nghiệp đều có thể trồng trong các giá thể nêu trên.
Vật liệu trồng lan: Trường hợp trồng lan trong chậu cần phải có vật liệu
trồng lan. Vật liệu trồng lan rất đa dạng, có thể là than củi, các mẩu gỗ chắc, xỉ than
loại đã cháy hết tạo thành loại gần như sành, cứng, xốp, các mảnh xốp chèn hàng,
xơ dừa, rong biển, vỏ lạc, vỏ hạt cà phê Có thể dùng một trong số các vật liệu trên
nhưng tốt nhất là nên dùng hỗn hợp các loại trên. Ví dụ, phía đáy chậu lan có thể là
xốp được bẻ nhỏ, bên trên và xung quanh gốc lan nên là than củi, cây lan mới (loài
bán rễ gió) được đặt vào đó, có thể phủ một ít xơ dừa hoặc rong biển để giữ ẩm thời
gian đầu, sau phải bỏ đi.
Ở phần sau, khi nói tới kinh nghiệm trồng từng loài Lan cụ thể chỉ nói tới
loại gỗ chắc hoặc xốp để ghép lan. Với những trường hợp đó ta nên hiểu là nếu
trồng Lan trong chậu thì cũng nên chọn vật liệu tương tự. Với Lan rễ gió, nếu trồng
trong chậu cần chọn vật liệu thô, to và phải xếp rất thoáng mới phù hợp.
Thời gian: Thời gian dùng trong bài viết này tính theo Âm lịch.
3
Ánh sáng trực tiếp: Chỉ mức độ ánh sáng bức xạ 100%. Giá trị tuyệt đối
trước đó (ví dụ 50% ) chỉ là giá trị tương đối để chỉ mức độ chịu ánh sáng trực tiếp
của một loài Lan và để so sánh mức độ chịu nắng giữa các loài Lan.

Từ trong ngoặc đơn sau tên Lan: Chỉ nơi sưu tầm Lan của tác giả. Ví
dụ: Phi Công Thiên (Cao Bằng) là Lan Phi Công Thiên, Tác giả sưu tầm ở Cao
Bằng.
Trường hợp không có từ trong ngoặc đơn sau tên Lan là Loài mà Tác giả sưu
tầm tại Hà Nội (chủ yếu tại Chợ Hoàng Hoa Thám).
II. Gọi tên Phong Lan ở nước ta
Phong trào chơi lan hiện nay rất phát triển. Hầu hết các tỉnh đều có Hội Sinh -
Vật - Cảnh trong đó có Chi Hội Lan. Có nơi Hội những người chơi lan là hội độc
lập. Đã xuất hiện nhiều người chơi lan có tính chuyên nghiệp, đồng thời xuất hiện
nhiều vườn lan nổi tiếng. Các nhà khoa học khi tìm hoặc tạo ra một loài lan mới
thường đặt tên theo quy chế chặt chẽ của khoa học thực vật, tạm gọi là tên khoa
học.
Những loài Lan được nuôi trồng lâu đời đã có tên từ xa xưa. Ngày nay, hầu
như tất cả các loài Lan có trong rừng đều được nuôi trồng nên những loài mới
được trồng sẽ được người trồng hoặc người khai thác Lan từ rừng về đặt tên để
phân biệt các loài khác nhau. Tập hợp nhiều loài Lan tại các địa phương khác nhau
ta có thể hiểu được một số nguyên tắc gọi tên Lan (tên dân dã). Cách gọi này xuất
phát từ một đặc tính nổi bật hoặc kết hợp các đặc tính đó của cây Lan với nhau,
được thể hiện bằng ngôn ngữ đẹp, giàu hình tượng:
- Gọi tên theo mùa ra hoa như Nghinh Xuân, Báo Hỉ…;
- Gọi tên theo hình dáng của giả hành như Hoàng Thảo Đùi gà, Hạt Cườm ;
- Gọi tên theo đặc điểm hình dáng của hoa như Hoàng Thảo Xoắn, Môi Tơ ;
- Gọi tên theo màu sắc của hoa như Cẩm Nhung, Hoa Đào ;
- Gọi tên theo trang trí của hoa như Nhất Điểm Hồng, Hoàng Thảo Mặt
Mèo ;
- Gọi tên theo hương thơm của hoa như Quế Lan Hương, Hương Vany ;
- Kết hợp những đặc tính trên để gọi tên lan như Hoàng Trúc Hương, Bạch
Câu ;
Ngoài ra, ngay cả với các loài Lan Công nghiệp được nhập về cũng được
người ta dịch hoặc đặt cho những tên rất đẹp theo phương pháp trên như Hồ Điệp,

Nữ Hoàng, Vữ Nữ
Cách gọi tên dân giã như trên thể hiện tư duy phong phú, thâm thúy, giàu óc
tưởng tượng. Một nét đẹp văn hoá của dân tộc ta nói chung và của người chơi lan
nói riêng.
4
Trong tác phẩm này, tác giả chỉ nêu tên gọi dân giã các loài lan đã được nuôi
trồng trong vườn Lan để tham khảo. Kèm theo là ảnh chụp cây, hoa để dễ nhận
dạng và phân biệt.
III. Kinh nghiệm trồng và nuôi Lan Rừng
Chọn vị trí trồng, nuôi Lan Rừng
Rất nhiều người thích trồng, nuôi lan nói chung và Lan Rừng nói riêng. Nhưng
đa số cho rằng Phong Lan rất khó nuôi và không có chỗ trồng nhất là ở thành phố.
Thực tế Phong Lan sống rất kham khổ nhưng đòi hỏi điều kiện khá khắt khe và rất
nhạy cảm với môi trường. Ba yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển của cây lan là
ánh sáng, độ ẩm và thoáng khí đồng thời tác động vào đời sống cây lan. Phải tạo
được môi trường đảm bảo cả ba yếu tố này thì việc trồng và nuôi lan mới thành
công. Nếu hiểu và nắm bắt được các đặc điểm này thì việc nuôi lan lại trở nên dễ
dàng.
Những nơi có đất có vườn, gần cánh đồng, gần nơi có sông, hồ, ao là môi
trường trồng lan lý tưởng. Tuy nhiên, ở thành phố có ban công hoặc sân thượng
cũng nuôi được lan nói chung và Lan Rừng nói riêng.
Tác giả bài viết này đã có trên chục năm thành công trong việc nuôi trồng Lan
Rừng trên sân thượng nhà ở mặt phố với những Giò Lan sống và phát triển từ ngày
đầu tới nay. Với kinh nghiệm nuôi trồng Lan của mình, có tham khảo, học hỏi qua
các bạn chơi, có thể kết luận được rằng Lan Rừng có thể nuôi trồng được ở các vị
trí khác nhau: dưới bóng cây, nuôi thành vườn, dưới mái hiên, sân thượng khi ta
đảm bảo chế độ ánh sáng, độ ẩm và thoáng gió phù hợp với mỗi loài Lan.
Lan Rừng thường được ghép thành giò và treo tại nơi nuôi Lan, hoặc ghép thẳng
vào thân cây lâu năm
5

Tạo giàn trồng Lan
Muốn trồng nhiều Lan phải tạo giàn trồng Lan, gọi tắt là giàn lan. Do nhiều
loài Lan Rừng có bộ rễ rất đẹp như Quế Lan Hương, Đai Châu, Đuôi Sóc hoặc giả
hành dài rủ xuống như Phy Điệp, Hương Vany nên phải tạo giàn lan. Giàn lan cần
có mái che để điều chỉnh chế độ ánh sáng như đã miêu tả ở trên, phải có chỗ để treo
các giò lan. Mái che cần cách giò lan ít nhất 1m nếu mái làm bằng tấm nhựa. Có thể
tạo ô vuông 40cm X 40cm bằng giây thép. Góc của các ô này chính là chỗ treo giò
lan. Để tạo các ô này có thể dùng giây thép mạ kẽm hoặc thép không gỉ căng vào
những vị trí cố định như vít đinh vào tường, làm khung thép, khung bêtông Tuỳ
thuộc kích cỡ của giàn, chất lượng thép mà ta chọn đường kính giây thép cho phù
hợp. Ví dụ: với giàn có kích thước 3m X 5m, ta chọn thép không gỉ đường kính
2mm cho chiều rộng giàn và đường kính 3mm cho chiều dài giàn. Nên chọn thép
không gỉ để làm giàn, tuy gía vật liệu đắt gấp khoảng 3 lần nhưng ta sẽ có giàn vĩnh
cửu, chắc khỏe lại không bị giãn khi treo nặng và không có gỉ sắt rơi xuống Lan.
Cần lưu ý là nước của gỉ sắt rơi xuống sẽ làm chết Lan.
Giàn lan phải thoáng gió, mát vào mùa hè và tránh Gió Bắc vào mùa đông,
nhất là đối với các giàn lan trên sân thượng.
Chọn giống lan
Người ta thường khai thác Lan Rừng về bán tại các chợ lớn của các tỉnh miền
núi, đặc biệt là tại các thành phố, thị xã. Riêng tại Hà Nội nhiều nhất tại “Chợ
Hoàng Hoa Thám” (dọc đường Hoàng Hoa Thám kéo dài khoảng 500m kể từ nơi
giao nhau giữa Phố Hoàng Hoa Thám – Phố Lạc Long Quân và Đường Bưởi). Tại
đây, Lan đựơc bày bán ở ven đường, các quầy hàng trong tất cả các ngày trong
tháng, đặc biệt là các ngày Mồng Bốn, Mồng Chín, Mười Bồn, Mười Chín, Hai Bốn
và Hai Chín hàng tháng, là các Phiên của Chợ Bưởi, ở gần đó. Đôi khi người ta chở
đi bán trên xe đạp dọc một số tuyến phố. Chọn các ngọn Lan to, khoẻ, nhiều lá, lá
còn tươi, không có biểu hiện bệnh, về ghép vào các giá thể tuỳ chọn. Tốt nhất là
chọn các cây lan còn bám vào cành cây được mang từ nguồn về. Tại các chợ, thị xã,
thành phố các tỉnh miền núi, đồng bào dân tộc thường bán lan tại các điiểm nhất
định vào buổi sáng theo thói quen. Có nơi bán vào 5 - 6 giờ sáng trong khi đó có

nơi lại bắt đầu lúc 8 – 9 giờ sáng (như ở Huế). Gần đây, do nhu cầu chơi Lan tăng
lên, nên dọc theo các đường giao thông đặc biệt là tại các tỉnh miền núi, người ta
cũng có bán Lan. Ngoài ra, tại các khu du lịch ở các tỉnh miền núi cũng có những
điểm bán Lan.

Thời điểm trồng Lan
Với Lan Rừng, chọn thời điểm trồng thích hợp sẽ quyết định sự phát triển của
cây Lan. Muốn xác định được thời điểm này cần phải biết đặc điểm, chu kỳ phát
triển của từng giống Lan. Tất cả các loài Lan Rừng đều có chu kỳ phát triển gồm 3
giai đoạn: Phong Lan đặc biệt là Lan Rừng có chu kỳ sinh trưởng rất rõ. Một chu kỳ
sinh trưởng bắt đầu từ khi chồi non ra đời (đối với loại đẻ giả hành hàng năm như
6
các loài Hoàng Thảo), hoặc sau khi hoa tàn (đối với loài Lan đẻ nhánh Như Quế
Lan Hương, Đai Châu ), thời kỳ sau đó là Thời kỳ trưởng thành và cuối cùng là
Thời kỳ ra hoa. Có một số loài Lan như các loài Hoàng Thảo kết thúc Thời kỳ phát
triển (rụng hết lá) là Thời kỳ nghỉ ngơi, rễ, lá không phát triển, thậm chí rễ khô đi.
Thời điểm trồng Lan tốt nhất đối với các loài này là trồng trước mùa ra hoa, khi
chồi non mới chưa xuất hiện, rễ mới chưa phát triển. Với các loài sau khi ra hoa
mới phát triển bộ rễ và ra lá mới, đôi khi nảy chồi mới như Đai Châu, Quế Lan
Hương thì thời điểm trồng tốt nhất là sau khi ra hoa hoặc vào Tháng 2 - Tháng 3
ở Miền Bắc và Tháng 4 - Tháng 5 ở Miền Nam là thời gian ấm áp, độ ẩm cao trong
năm thích hợp cho thực vật nói chung phát triển. Tuy nhiên, vào các thời điểm khác
cũng có thể trồng lan được nhưng hiệu quả sẽ kém hơn.
Ghép lan vào giá thể
Trước khi ghép Lan vào giá thể cần cắt tỉa hết những phần đã chết (rễ, thân, lá)
trên cây Lan. Để cho cây phát triển nhanh nên ngâm Lan vào một số dung dịch
thường là phân bón tổng hợp khoảng 20-30 phút, tốt nhất là Bimix. Lựa thế đẹp,
phù hợp với dáng vẻ của giá thể và cây Lan để ghép. Nên ướm thử trước khi ghép
sao cho tạo được Giò Lan đẹp, ưng ý.
Cố định Lan vào giá thể (trường hợp ghép vào gỗ) có nhiều cách và nhiều vật

liệu khác nhau. Có thể dùng đinh không gỉ; dùng các loại giây buộc (trừ giây thép bị
gỉ) để cố định cây Lan vào giá thể. Khi cố định Lan vào giá thể nếu dùng giây buộc
phải buộc chặt vừa phải, không làm thắt nghẹn cây Lan nhưng cũng không để gió
lay làm rễ Lan mới nhú không bám vào giá thể được, thậm chí làm thui rễ và tránh
để giây buộc đè vào các mắt Lan sẽ nảy mầm trong tương lai. Nếu dùng đinh để cố
định cây Lan vào giá thể phải tránh đóng đinh vào phần thân Lan còn tươi.
Với loại giá thể gỗ, chủ yếu là gỗ khô, có thể để cả vỏ hoặc lột vỏ. Nếu để cả
vỏ, giá thể sẽ có dáng vẻ tự nhiên, đẹp hơn là lột bỏ vỏ. Những loài Lan rễ gió, giá
thể nên để cả vỏ, vì khi vỏ mục, rễ Lan đã bám chắc vào phần gỗ ở bên trong, do
các loài Lan này rễ ít nhưng khoẻ và bám chắc hơn. Để cả vỏ, giữ ẩm tốt nhưng sẽ
làm giá thể nhanh mục hơn. Ngược lại, đối với những loài Lan bán rễ gío thì nên
bóc vỏ. Các Loài Lan này lúc mới ghép, có thể dùng vật liệu xốp như xơ dừa, rong
biển phủ một lớp mỏng, thoáng lên trên để giữ ẩm tốt hơn. Khi bộ rễ đã phát triển
cũng là lúc các vật liệu này đã mục và tự rơi đi mất. Cần lưu ý chỉ áp dụng cách này
khi cây giống có ít rễ. Nếu cây giống là một mảnh có lớp rễ dày thì không được phủ
bất cứ vật gì lên trên rễ Lan.
Một Giò Lan được trồng đã nhiều năm, nhiều lớp rễ chết tạo thành một giá thể
tự nhiên. Giá thể gỗ nếu bị mục rỗng có thể rơi hết phần gỗ mục, trường hợp này
không cần thay giá thể. Như vậy, cây Lan vẫn phát triển tốt, không bị chột do phải
thay giá thể.
Chăm sóc Lan
Phong Lan rất nhạy cảm với môi trường sống nên Lan Rừng được đưa về trồng
trong nhà (vườn, sân thượng ) phải có thời gian thích nghi với môi trường sống
7
mới, thường phải mất 1 đến 2 năm. Điều kiện thích hợp để Lan nói chung và Lan
Rừng nói riêng sống và phát triển gồm 3 yếu tố: Ánh sáng, độ ẩm và thoáng gió.
Cả 3 yếu tố này song song quyết định đời sống của cây lan. Ngoài ra, đối với Lan
Rừng, việc chăm bón và chữa bệnh cũng là những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng
tới đời sống cây Lan và đặc biệt là chất lượng hoa Lan.
Ánh sáng: Các loài Lan Rừng khác nhau có nhu cầu ánh sáng khác nhau.

Người trồng Lan phải biết được nhu cầu này của cây Lan để chọn vị trí treo giò lan
phù hợp nếu muốn trồng nhiều loài Lan tại cùng một giàn. Ví dụ: những loài Lan ưa
ánh sáng nhiều hơn thì treo giò lan ở tầng cao hoặc ở ngoài cùng của giàn; tầng thấp
và khu vực giữa giàn ta treo loại lan ít ánh sáng hơn.
Chỉ có một vài loài Lan Rừng như Phượng Vỹ, Hồ Điệp Cành Dao ưa ánh
sáng bức xạ. Số còn lại ưa ánh sáng tán xạ (bóng râm) nhưng mức độ khác nhau. Do
vậy, để bảo đảm ánh sáng phù hợp nên làm giàn có mái che bằng lưới hoặc tốt nhất
là bằng tấm nhựa màu xanh, loại giảm cường độ ánh sáng 40% - 50%. Che bằng
lưới có nhược điểm là lưới giữ bụi trong Mùa Thu - Đông ở Miền Bắc, Mùa Khô ở
Miền Nam (nhất là ở thành phố). Bụi theo nước mưa rơi và đọng lại tại nụ hoa và kẽ
lá non của chồi cây trong mùa xuân ở Miền Bắc, đầu mùa mưa ở Miền Nam – mùa
nhiều Lan Rừng ra hoa, sẽ làm thui cây và nụ hoa. Mái bằng tấm nhựa sẽ làm cho
cây ít được tiếp xúc với nước mưa, nhưng nó lại giúp ta khắc phục được nhược
điểm của lưới và đặc biệt giúp ta chủ động điều chỉnh chế độ tưới nước thích hợp.
Đây cũng là một kinh nghiệm được Hội Lan Hà Nội phổ biến.
Lưới che ánh sáng thường được dùng ở các trại, vườn lan lớn, xa nơi có nhiều
bụi.
Độ ẩm: Để tạo độ ẩm cho Lan trồng trên sân thượng hoặc sân đã lát bằng
gạch, beton nên đặt trên sân ít chậu cây được tưới nước thường xuyên hoặc bể
nước Chú ý chọn các loại cây ưa nước, chịu cớm nắng. Ngoài ra, những ngày nắng
nóng phải tăng số lần tưới nước thậm chí phải phun nước ướt sân nhiều giờ.
Tưới nước: Người nuôi Lan phải biết rằng lan chỉ chết khi bị “úng nước” chứ
không bị chết vì khô hạn. Khái niệm úng nước ở đây được hiểu là đọng nước, giữ
nước ở nơi có rễ cây. Tất nhiên, nếu cây lan thiếu nước sẽ không phát triển được.
Nếu nuôi Lan Công nghiệp hoặc Lan Rừng được nhân giống theo phương pháp cấy
mô thì có thể làm giàn tưới, còn với Lan Rừng được khai thác từ rừng về là không
nên. Vì khi khai thác về chúng có độ dày bộ rễ khác nhau, ta lại ghép vào giá thể có
độ giữ nước khác nhau. Vì vậy, khi tưới nước phải chú ý điều chỉnh lượng nước
tưới hợp với mỗi loài Lan và mỗi giò lan. Tưới nước cho Lan tốt nhất là vào khoảng
8 - 9 giờ sáng hoặc 4 - 5 giờ chiều. Khi tưới nước nên tưới ướt cả lá, thân và rễ. Nên

dùng vòi phun phun mạnh vào mặt trên của lá để rửa sạch bụi, tan các loại phân bón
còn dư do cây chưa hút hết, tất nhiên không làm giập lá. Không nên tưới nước cho
Lan vào buổi tối và những ngày ẩm ướt, vì nước bám vào vào lá lâu sẽ tạo môi
trường cho các loài nấm, vi khuẩn gây bệnh phát triển. Đồng thời cũng tránh làm
ướt hoa khi tưới vì sẽ làm hoa nhanh tàn và không đậu quả.
8
Vào Mùa Khô ở Miền Nam và Thu - Đông ở Miền Bắc với các loài Lan rụng
lá, rễ không phát triển nữa, ta có thể giảm nước tưới và phân bón để Lan nghỉ,
chuẩn bị cho mùa phát triển mới.
Để tránh nước đọng tại Giò Lan cần chú ý: treo giá thể sao cho dễ thoát nước
nhất; với giá thể là gốc, rễ cây ta phải đục thủng các hốc để không có chỗ cho nước
đọng; với giá thể là chậu, vài tháng ta phải nghiêng chậu và phun nước vào đáy
chậu để rửa sạch vùng đáy chậu. Khi chọn chậu trồng Lan cũng cần chọn chậu có
nhiều lỗ ở đáy hoặc chậu dễ thoát nước và phải thoát hết nước. Nước tưới đọng lại ở
đáy chậu đồng thời cũng đọng lại bụi bẩn là nơi sẽ gây mầm bệnh cho cây trồng
trong chậu.
Nước tưới: Phong Lan nói chung và Lan Rừng nói riêng có nhu cầu khá khắt
khe về nước tưới. Nước tưới đòi hỏi phải trong, sạch. Tốt nhất là nước mưa, nước
ao, hồ tự nhiên, tất nhiên là nước không bị ô nhiễm. Nếu là nước máy tuyệt đối
không được dùng trực tiếp từ vòi nước. Nước máy phải để trong thùng hoặc bể vài
ba ngày cho bay hơi hết các loại hóa chất mới được dùng để tưới lan.
Thoáng gió: Phong Lan cần sống nơi thoáng gió, không khí trong lành.
Không khí lưu thông sẽ tạo cho môi trường không khí mát mẻ và chính không khí
sẽ mang dinh dưỡng tới để cây Lan hấp thụ, nuôi cơ thể. Tuy nhiên, do nhiều loài
Lan có khả năng chịu rét kém nên vào mùa rét (ở Miền Bắc) ta phải che kín hướng
Gió Bắc. Không được nuôi Phong Lan gần nơi đun nấu. Muối, mỡ, gia vị, khí
độc từ bếp nhất là bếp than, bếp dầu bay lên làm ô nhiễm không khí hoặc bám
vào Lan sẽ làm Lan không sống được.
Bón phân: Thông thường ta dùng hai loại phân bón vô cơ và hữu cơ để bón
cho Lan

Phân vô cơ: Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại phân bón vô cơ tổng
hợp có đủ thành phần Đạm (N), Lân (P
2
O
5
), Kali (K
2
O) được ký hiệu trên bao bì là
N, P, K, và các vi nguyên tố, vitamin để ta lựa chọn bón cho cây Lan. Ví dụ nếu
trên bao bì ghi 20.20.20 ta hiểu là tỷ lệ N = 20%, P
2
O
5
= 20% và K
2
O = 20%. Các
loại phân bón này thường là phân bón qua lá. Khi bón phân cần pha theo nồng độ
hướng dẫn trên bao bì. Kinh nghiệm cho hay pha theo nồng độ thấp hơn (bằng 50%
nồng độ hướng dẫn ghi trên bao bì) và tăng mật độ bón gấp đôi sẽ cho hiệu quả cao
hơn. Ví dụ: theo hướng dẫn nồng độ phân là 1g/1lit nước và bón 1lần/1tuần, ta bón
theo nồng độ 0,5g/lít và bón 2 lần/1tuần. Ngoài ra, 1 tháng 1 lần nên pha thêm
Vitamin B1 (khoảng 10 viên 0.1/1lit nước) hoặc Vitamin tổng hợp 2 viên/1 lít nước
pha lẫn với phân bón. Ở Miền Bắc vào các tháng 5, 6, 7 và Miền Bam vào các tháng
6, 7 8, 9 hàng năm có thể bón phân với nồng độ cao hơn tới 1,5 lần. Trước khi bón
phân 15 phút nên phun nước tưới cho ướt cả lá thân và rễ cây. Khi bón phân cũng
phun như vậy để cho cả lá, thân và rễ cây đều hấp thụ phân bón. Tốt nhất nên bón
phân vào khoảng 8 - 9 giờ sáng hoặc 3 - 4 giờ chiều. Tránh bón phân vào lúc còn
nắng nóng, hoặc ngày có mưa, hiệu quả hấp thụ sẽ kém.
9
Hiện nay, trên thị trường ta thường gặp nhiều loại phân bón vô cơ có công

thức khác nhau ghi trên bao bì. Tuy nhiên, về cơ bản các loại phân có công thức
sau:
- Loại 30.10.10: Là loại phân bón có tỷ lệ đạm cao, thúc đẩy sự phát triển
của thân, lá rễ.
- Loại 10.55.10: Là loại phân bón có tỷ lệ lân cao, có tác dụng kích thích ra rễ,
ra hoa, giúp cây đề kháng bệnh tật (có thể dùng làm dung dịch ngâm lan trước khi
ghép vào giá thể).
- Loại 12.10.40: Là loại phân có tỷ lệ kali cao, có tác dụng làm cây lan khoẻ
mạnh, chịu khô hạn tốt, làm cho hoa có màu sắc rực rỡ hơn và bền hơn.
- Loại 20.20.20: là Loại phân bón có tỷ lệ Đạm, Lân, Kali ngang nhau.
Cần chú ý là các công thức trên đây chỉ là một số ví dụ thường gặp. Công thức
này có thể thay đổi hoặc viết theo dạng khác, ví dụ 10.10.10 cũng là dạng phân bón
có tỷ lệ Đạm, Lân, Kali ngang nhau. Nồng độ của các loại phân bón tuỳ thuộc vào
nhà sản xuất, nên khi bón phân phải tuân thủ hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên
bao bì.
Phân hữu cơ: Có thể tạo phân hữu cơ bằng cách ngâm cua, ốc hoặc các phần
bỏ đi của động vật sau khi giết mổ sau 5 – 6 tháng cho hết mùi hôi, lấy nước
trong phun vào rễ cây. Tuy nhiên, bón phân hữu cơ rất dễ gây bệnh cho cây. Do
vậy, sau khi bón một vài ngày phải phun thuốc phòng bệnh cho cây. Phân hữu cơ
chỉ nên bón vào thời kỳ phát triển của Lan. Để khử mùi hôi ta nên dùng dung dịch
EM pha vào phân trước khi bón khoảng vài giờ sẽ có hiệu quả.
Điều quan trọng là chọn loại phân nào bón cho cây?
Ta bón phân theo nguyên tắc sau:
- Khi cây phát triển và hồi phục sau ra hoa, bón loại phân có Tỷ lệ Đạm cao;
- Khi cây trưởng thành chuẩn bị ra hoa, bón loại phân có Tỷ lệ Lân cao;
- Khi nụ hoa bắt đầu nhú, bón loại phân có Tỷ lệ Kali cao.
- Lan mới được mang về trồng nên bón loại phân có tỷ lệ Lân cao nhưng với
nồng độ thấp. Có thể ngâm cả cây vào trong dung dịch phân này khoảng 20 – 30
phút trước khi ghép lan vào giá thể. Khi Lan nhú rễ ta sẽ bón loại phân có Tỷ lệ
Đạm cao

Đối với Lan Rừng rụng lá vào cuối năm để nghỉ ngơi và chờ đầu năm sau ra
hoa như Hoàng Thảo Đùi Gà, Phy Điệp thì khi Lan bắt đầu phát triển chậm lại vào
giữa Mùa Thu ta có thể bón phân có Tỷ lệ Lân cao trong khoảng 1 tháng. Sau đó chỉ
tưới nước vừa phải cho tới khi cây bắt dầu nhú chồi mới ta mới bón phân trở lại.
Những loài Lan vừa đâm chồi mới vừa nhú nụ hoa như các loài Hoàng Thảo, Phy
Điệp lúc này tốt nhất là dùng phân bón có công thức cân bằng.
Nhu cầu bón phân như trên sẽ rất phức tạp khi trong vườn ta có hàng chục loài
Lan khác nhau, do chúng có chu kỳ sinh trưởng khác nhau theo thời gian, do vậy,
10
nếu bón cho từng loài ta sẽ phải pha hàng chục công thức phân bón cho một lần bón
phân cho Lan trong vườn. Để đơn giản, ta nên phân loại Lan theo chu kỳ phát triển
trong năm theo nhóm để chọn phân bón phù hợp chung cho cả nhóm. Có thể chia
thành 4 nhóm Lan Rừng, mỗi nhóm có cùng thời kỳ sinh trưởng giống nhau trong
một Quý trong năm, nếu có điều kiện chia nhỏ hơn càng tốt.
Phân hữu cơ chỉ dùng bón cho Lan vào thời kỳ phát triển.
Phòng và chữa bệnh
Đầu tiên, phải nhấn mạnh rằng đây là công việc khó khăn nhất trong quá trình
nuôi Phong Lan nói chung và Lan rừng nói riêng. Phong Lan rất dễ bị bệnh. Việc
phòng và chữa bệnh là một yếu tố quan trọng quyết định việc nuôi Lan thành công.
Có hai nguyên nhân trực tiếp chính gây bệnh cho Lan. Bệnh do nấm như phồng rộp
lá, thối lá non và cây non, khô vằn, đốm gỉ sắt và bệnh do rệp và vi khuẩn. Sau
đây là kinh nghiệm chữa một số bệnh thường gặp:
Bệnh phồng rộp lá: Khi phát hiện trên lá xuất hiện các mảng phồng rộp, mềm
nhũn như vết bỏng, màu lá từ xanh tươi chuyển màu úa và đụng vào thì lá rũa ra, ổ
bệnh loang nhanh nhanh. Bệnh thường gặp ở các loài Lan có lá dày, chứa nhiều
nước như Đai Châu, Da Báo, Đuôi Cáo Bệnh dễ phát sinh nhất là khi cây Lan mới
được mang về trồng đặc biệt là những ngày có mưa nhiều, trời âm u, không khí có
độ ẩm cao. Bệnh bị lây và phát triển nhanh, chỉ sau vài ngày cây lan có thể bị chết.
Tuy nhiên, đây là bệnh dễ chữa nhất nhưng phải phát hiện và chữa kịp thời. Khi
phát hiện ổ bệnh, ngay lập tức dùng dao sạch, sắc khoét hoặc cắt bỏ ổ bệnh (nếu ổ

bệnh lớn không thể khoét được). Vết cắt cách ổ bệnh ít nhất 5mm. Vết cắt phải gọn,
sạch không xơ tướp. Dùng vôi tôi bôi vào vết cắt. Song song với việc cắt bỏ dùng
một trong các loại thuốc sau đây phun cho cây, nhớ sau 3 ngày phun lại một lần
nữa: Kasumin 2L; Kasuran 50WP; Viben – C50WP; Kasai 21,2WP. Chú ý cần
phun cho cả các giò lan lân cận.
Bệnh thối lá non và cây con: Thường gặp ở các loài Lan lá mỏng, ra nhiều
chồi non cùng lúc như Hoàng Thảo Thân Tròn, Kiều Thân Vuông Khi thấy các
chồi non có lá úa vàng, phải quan sát kỹ phần gốc của chồi đó, nếu thấy phần giả
hành sát gốc đổi màu (thâm lại) là cây bị bệnh. Cắt bỏ giả hành có bệnh. Có thể
phải cắt bỏ trước và sau giả hành bị bệnh tới 1 - 2 giả hành liền kề. Trường hợp bị
nhiều phải tách Lan khỏi giá thể để có thể làm sạch cho cả giá thể sau mới ghép lại
từ đầu. Gía thể và Lan sau khi tách có thể để khô trong 5-7 ngày sau mới ghép lại.
Vết cắt được bôi bằng vôi tôi hoặc ximăng. Cũng phải phun thuốc trừ nấm như trên.
Bệnh muội đen: Ổ bệnh là các mảng muội đen bám vào thân, di ngón tay vào
sẽ thấy trơn, nhớt và muội đen bám vào ngón tay. Bệnh này thường gặp ở Quế Lan
Hương, Đuôi Cáo, Đai Châu Dùng bàn chải đánh răng loại mềm chà và dội nước
nhiều lần cho tới khi sạch muội. Theo dõi và làm lại trong những ngày tiếp theo cho
tới khi khỏi bệnh, đồng thời phải phun thuốc trừ nấm như trên, giữ giò lan khô ráo.
Bệnh khô vằn: Đây là bệnh tuy không làm cây chết nhưng là bệnh rất khó chữa.
Bệnh thường gặp ở nhiều loài Lan như các loài Hoàng Thảo, các loài Kiều, Vảy
11
Rồng Ổ bệnh là những đốm đen ở giữa hoặc đuôi lá. Những đốm này làm khô
phần lá bị nhiễm bệnh và loang dần, để lại những vằn rõ nét. Khi phát hiện cần cắt
bỏ ngay ổ bệnh, bôi vôi tôi vào vết cắt. Phun thuốc trừ nấm như trên.
Bệnh gỉ sắt: Cũng là bệnh có tính chất như bệnh khô vằn. Ổ bệnh là các đốm
nhỏ màu đen trên lá, giống như miếng bánh đa vừng đen. Bệnh chỉ làm cây yếu đi,
và để lại tỳ vết xấu trên lá. Chữa bệnh như đối với với bệnh khô vằn.
Trừ các loài rệp: Các loài rệp thường gặp là rệp nâu, rệp phấn trắng, rệp gai
màu hồng Nhìn chung rệp dễ trừ. Rệp nâu có màu như hạt vừng nhưng nhỏ hơn,
bám chặt vào mặt trên của lá. Rệp phấn trắng tạo thành các mảng trắng như bột bám

vào lá, vào thân cây tươi và cả thân cây khô thậm chí cả giá thể. Rệp gai trông như
hình quả cầu gai và có màu hồng như quả chôm chôm chín. Khi phát hiện bệnh
dùng Dipterech hoặc Ditech. Để tăng hiệu quả, pha theo nồng độ đậm đặc gấp 2 - 3
lần hướng dẫn trên nhãn; pha thêm 1 thìa nhỏ đường/1lit nước thuốc; phun vào lúc
khô ráo như giữa buổi chiều ngày nắng. Trong cả ngày hôm đó không được tưới
nước. Sau 3 ngày phun lại.
Phòng bệnh: Đây là cách mang lại hiệu quả cao nhất. Một số biện pháp phòng
bệnh có hiệu qủa:
- Giữ cho môi trường khô ráo, thoáng mát, không tưới nước vào buổi tối và
những ngày u ám;
- Phun thuốc trừ nấm và trừ rệp 1 tháng 1 lần. Nên phun xen kẽ để sau 2 tuần
phun thuốc trừ nấm ta phun thuốc trừ rệp và lặp lại liên tục sau đó. Mùa khô có thể
phun thuốc thưa hơn. Khi phun thuốc cần phun đậm cả thân, lá, rễ cây và giá thể.
Nên đổi thuốc phun có cùng công dụng nhưng thành phần khác nhau để tránh nhờn
thuốc.
Nhân giống Lan
Là việc nên làm để tăng kích cỡ của giò lan nhất là Lan Rừng và có thể kinh
doanh nếu muốn. Sau đây là một số kinh nghiệm nhân giống:
Nhân giống hữu tính: Sau khi ra hoa, Lan sẽ đậu quả. Nuôi quả đến khi quả
chín, bình thường vỏ quả sẽ khô và tách ra hạt lan nhỏ li ti được bọc bởi các tơ xốp
như bông bay trong gió và bám vào những vị trí khác nhau. Gặp điều kiện thuận
lợi, hạt Lan sẽ nảy mầm và phát triển thành cây Lan mới. Ta lấy quả già, khô vỏ,
bóc lấy hạt rắc vào xơ dừa đã xé tơi hoặc rong biển xốp đặt trên giá để ở nơi
thoáng, mát, ngày tưới nước 1 lần. Khi hạt nảy mầm sẽ tiến hành bón cho cây con.
Khi cây con mọc rễ ta nhẹ nhàng đặt lên giá thể cho tới khi rễ bám chắc vào giá thể
ta mới treo Lan lên giàn.
Nhân giống vô tính: Là cách làm đơn giản, người trồng lan nào cũng có thể
làm được. Có mấy cách nhân giống vô tính như sau:
Đối với các loài Lan đa thân có chồi non mọc chồi từ căn hành như các loài
Hoàng Thảo, Phy Điệp có thể cắt thành nhiều mảnh, mỗi mảnh phải giữ lại

khoảng 5 giả hành, đem ghép vào giá thể mới.
12
Đối với loại Lan đơn thân có chồi non mọc từ thân cây (Quế Lan Hương,
Phượng Vỹ ) cũng có 2 cách nhân giống: Cắt một đoạn thân từ trước chỗ có ít
nhất 3 tầng rễ đem ghép vào giá thể mới. Cây sẽ sống và phát triển thành giò Lan
mới. Phần còn lại sẽ nảy chồi mới. Tuy nhiên, cách làm này sẽ chậm do bị chột.
Còn có cách thứ 2: Dùng giây đồng nhỏ buộc chặt vào vị trí tương đương vị trí cắt
nêu trên. Mối buộc cần chặt vừa phải chỉ để hạn chế dinh dưỡng lưu thông qua đó.
Chờ khoảng vài tháng cho phần trên mối buộc mọc thêm rễ và phần dưới mối buộc
nảy chồi, cắt tại mối buộc để ghép Giò Lan mới hoặc tháo bỏ mối buộc để Giò Lan
có thêm một ngọn mới, khi ngọn Lan mới có rễ, ta tách ra để ghép vào giá thể mới.
Trường hợp với các thân Lan có Keiki: sau khi hết hoa, tại các mắt Lan không
ra hoa sẽ xuất hiện các keiki. Chờ cho rễ của chúng phát triển, ta ghép gốc keiki
vào giá thể theo ý muốn. Ta có thể treo một giá thể mới ở bên cạnh giò lan để ghép
thành Giò Lan mới hoặc ghép vào chính giá thể giò lan đang sống để tạo giò lan
lớn hơn. Thao tác như sau: uốn vòng giả hành mẹ lại. Uốn sao cho giả hành không
bị gẫy gập. Khi giả hành mới đã khoẻ mạnh ta cắt giả hành mẹ từ sát gốc để hoàn
thành việc tạo giò lan mới. Với cách làm này, giả hành Lan mới sẽ ít bị chột,
nhưng chỉ có thể nhân giống tại chỗ, không mang ngay đi xa được. Trường hợp
muốn mang ngay đi xa có thể cắt sát gốc giả hành mẹ. Ghép cho phần rễ của giả
hành con áp sát giá thể để rễ nhanh chóng bám vào đó. Cả hai trường hợp này cần
để nguyên cả giả hành mẹ ghép vào giá thể. Chính lượng dinh dưỡng tích luỹ trong
giả hành mẹ sẽ góp phần nuôi cây con trong vài năm cho tới khi cạn kiệt mới tự
chết đi. Vết cắt
Chú ý khi cắt phải dùng dao sắc, sạch, vết cắt gọn, vết cắt phải được bôi
ngay bằng vôi tôi hoặc ximăng vào cả phần tách ra và phần còn lại để vừa giữ
nước vừa chống vi khuẩn xâm nhập làm thối giả hành mẹ. Nhìn chung, tiến hành
nhân giống vào trước thời kỳ sinh trưởng là tốt nhất.
Phát hiện một số biểu hiện sức khoẻ của Lan và cách xử lý
Người nuôi Lan cần quan sát để kịp thời phát hiện các biểu hiện sức khỏe

của Lan, trên cơ sở đó có giải pháp xử lý để hồi phục sức khoẻ cây. Sau đây là một
số trường hợp thường gặp:
- Thừa đạm: Rất hay gặp. Người nuôi Lan thiếu kinh nghiệm và thiếu kiên
trì với sự phát triển chậm chạp của Lan thường chọn loại phân có hàm lượng đạm
cao và tăng nồng độ phân bón. Những người nuôi Lan với mục đích kinh doanh
cũng thường bón nhiều đạm cho Lan để tạo cây xanh tốt, dễ bán. Khi quan sát, ta
thấy cây có lá to, xanh mướt, giả hành nhỏ, không cứng cáp. Lan bị thừa đạm sẽ
yếu ớt, khả năng chịu sự thay đổi thời tiết cũng như chịu bệnh kém, ít ra hoa và
hoa nhỏ, màu sắc nhợt nhạt. Khi phát hiện biểu hiện này phải dần dần thay loại
phân bón có hàm lượng đạm thấp bón cho cây. Lưu ý việc thay đổi đột ngột sẽ làm
cho cây không kịp thích nghi với thức ăn mới.
- Thiếu đạm: Cây khô cằn, lá nhỏ, màu lá không xanh bình thường, giả hành
kém phát triển. Khi phát hiện cây thiếu đạm ta làm ngược lại trường hợp thừa đạm.
13
- Thừa lân:
- Thiếu lân:
- Thừa kaly:
- Thiếu kaly:
- Thừa ánh sáng: Thừa ánh sáng quá mức có thể làm cho đa số Lan bị chết
do ánh sáng bức xạ. Thừa ánh sáng làm cho lá bị cháy đen hoặc nhăn nhúm, vàng
và rụng dần, giả hành non bị chết yểu. Khi phát hiện biểu hiện này phải chuyển
ngay giò lan vào chỗ râm.
- Thiếu ánh sáng: Biểu hiện của thiếu ánh sáng gần như biểu hiện thừa đạm
nhưng khác là lá không to. Rất nhiều trường hợp Lan không ra hoa. Khắc phục
bằng cách phải chuyển dần ra chỗ có nhiều ánh sáng hơn. Cần lưu ý chỉ được
chuyển dần, nếu chuyển đột ngột lá Lan sẽ bị cháy nắng.
- Thừa nước: Như trên đã nêu Phong Lan chỉ bị chết vì “úng nước”. Tuy
nhiên, hiện tượng thừa nước mà Lan còn sống được là chưa tới mức bị “úng nước”.
Lan sẽ yếu, hoa nhỏ, nhanh tàn, khả năng chịu bệnh kém. Cần hạn chế cung cấp
nước cho Lan. Ví dụ: Giò lan treo trên bể nước hoặc cạnh bờ ao thì không cần tưới

hàng ngày.
- Thiếu nước: Thiếu nước nếu sảy ra lâu sẽ làm lá nhăn nheo, héo, úa vàng
và rụng; rễ cây quắt lại không phát triển được. Khi lá và rễ đã nhăn nheo nếu cung
cấp đủ nước cũng không khắc phục được, tuy nhiên lá sẽ giữ trên cây lâu hơn sau
đó mới rụng. Khi đủ nước rễ non sẽ xuất hiện sau mới ra lá mới.
- Thiếu không khí: Cây lan sẽ yếu dần và chết. Trong khi đó nếu nuôi Lan
trên sân thượng nơi có nhiều gió phải che bằng lưới thoáng để tránh gió quá mạnh
gây va đập làm giập Lan, đôi khi rơi cả giò lan.
- Thiếu vi nguyên tố: Làm cho cây yếu, không phát triển và dễ bị bệnh. Lá
nhỏ, lá non có màu loang lổ, ít sức sống. Tuy nhiên, ngày nay các loại phân bón vô
cơ đã được nhà sản xuất pha trộn đầy đủ các nguyên tố vi lượng. Nếu cẩn thận có
thể phun phân vi lượng qua lá 1 tháng 1 lần.
Một số điều kiêng kỵ : Từ những vấn đề nêu trên, sau đây xin nhấn mạnh
một số điều tuyệt đối kiêng kỵ (những yếu tố làm chết Lan) đối với việc nuôi
Phong Lan nói chung và Lan Rừng nói riêng
- Đun nấu gần Giàn Lan, nhất là bếp than;
- Tưới Lan bằng nước bẩn; nước giếng có màu (vàng, đen, nước hến )
hoặc có mùi không bình thường; nước máy lấy trực tiếp từ vòi ra còn mùi hoá
chất.
- Để giò lan ẩm ướt, không thoát nước;
- Dao, kéo cắt lan không sạch;
14
- Thiếu kiên trì: Phong Lan phát triển rất chậm, nhất là khi mới mang về
trồng, nên người nuôi Lan phải kiên trì, không được có hành động nóng vội như
tưới nhiều nước; phủ kín rễ; bón phân đậm đặc vượt quá nồng độ hướng dẫn
Thông thường một giò lan mới ghép phải sau 3 năm mới thực sự hồi phục, nếu
chăm sóc tốt thì giả hành mới mới có kích thước bằng giả hành mẹ lúc mới mang
từ rừng về và mới cho hoa bằng hoa ở rừng.
Phong Lan phát triển chậm và chết bởi các yếu tố nêu trên cũng diễn ra
chậm chạp, khi phát hiện thì đã muộn. Có nhiều trường hợp lá còn xanh mơn mởn

nhưng gốc đã chết.
Phong Lan rất nhạy cảm với môi trường nên việc thay đổi chế độ đối với
Lan như ánh sáng, nồng độ phân vô cơ cũng phải dần dần từng bước, không
được quá đột ngột làm Lan không kịp thích nghi.
Tạo một giò lan nở hoa nhiều lần trong một vụ hoa
Đây là một mẹo nhỏ để kéo dài thời gian có hoa trên một giò lan. Việc làm
này rất đơn giản, khắc phục được nhược điểm hoa nhanh tàn của đa số Lan Rừng.
Do cùng một loài Lan nhưng nếu chúng có xuất xứ ở các vùng, miền khác
nhau, thời gian ra hoa cũng khác nhau có khi chênh lệch cả tháng. Mặc dù Lan
được mang về nuôi tại cùng một vị trí, một chế độ nhưng do nhịp sinh học của Lan
rất ít thay đổi nên thời gian ra hoa cũng không thay đổi như Vảy Rồng ở Miền
Trung và Lào (bát diện - giả hành hình thoi có mặt cắt ngang hình bát giác) ra hoa
tháng 3, Vảy Rồng ở Miền Bắc (tứ diện - giả hành hình thoi có mặt cắt ngang cũng
hình thoi) ra hoa tháng 5. Hoặc Kiều có nguồn gốc Miền Trung và Lào ra hoa
tháng 4 trong khi loài này của Miền Bắc ra hoa chậm hơn khoảng một tháng rưỡi
Do vậy ta chỉ việc sưu tầm cùng một loài Lan nhưng ở các vùng miền khác nhau
để ghép thành một Giò Lan. Đôi khi hai khóm Lan khác nhau đem ghép lại một giò
cũng có thể tạo được đặc điểm đó. Điển hình là Đai Châu.
Đa số các loài Lan cùng có ở cả Miền Trung và Miền Bắc thì các loài ở
Miền Trung thường ra hoa sớm hơn.
Riêng Đai Châu không có đặc điểm này. Loài Lan này có đặc tính rất quý là
ra hoa rất đúng hẹn. Mỗi khóm Lan có một thời điểm ra hoa trong năm và luôn giữ
đúng thời điểm đó trong cuộc đời, chỉ chênh nhau một vài ngày nếu thời tiết thay
đổi nhiều. Thời điểm ra hoa rất ít bị ảnh hưởng bởi chế độ chăm bón. Chính đặc
tính này làm cho giá trị của các ngọn Lan Đai Châu rất khác nhau, có khi tới cả
chục lần. Người sành chơi Lan và tin vào điều may rủi sẵn sàng bỏ ra tiền triệu để
có được ngọn Đai Châu nở đúng vào sáng Mồng Một Tết Nguyên Đán. Đối với họ,
còn gì may mắn bằng vào ngày đầu tiên của Năm Mới có được châu ngọc vào nhà,
lại còn có cả hương, sắc nữa chứ (!). Nhưng cần nhớ rằng phải chọn hàng trăm
ngọn Đai Châu mới có được một vài ngọn như vậy. Và muốn mua được nhũng

ngọn Lan này chỉ có đợi đến Tết. Bình thường không ai phân biệt được ngọn nào
ra hoa sớm, ngọn nào ra hoa muộn.
15
Người chơi Lan cũng có thể ghép nhiều giống Lan khác nhau trên một giò
để tạo sự đa dạng. Tuy nhiên, rất ít người chơi Lan theo kiểu “lẩu thập cẩm” thế
này.
Tạo giò lan có bộ rễ đẹp
Muốn giò lan của bạn có bộ rễ đẹp, ta treo giò lan nơi có độ ẩm cao ở phía
dưới. Ban đầu treo thấp sau nâng dần lên theo sự phát triển của bộ rễ, ta sẽ có bộ rễ
dài và thẳng. Mẹo này phù hợp với một số loài Lan Rễ Gió như Đai Châu, các loài
Van Đa, Quế Lan Hương, Tam Bảo Sắc
NHỮNG LOÀI LAN ĐÃ VÀ ĐANG NUÔI TẠI NHÀ TÁC GIẢ

1. Đai Châu, Miền Nam còn gọi là Ngọc Điểm hoặc Nghinh Xuân, có hai
giống:
1.1. Đai Châu Tây Bắc: Có mặt chủ yếu ở các tỉnh Miền núi Phía Bắc; ra
hoa Tháng 12 đến Tháng Giêng. Hoa có nhiều màu tím hơn Đai Châu Lào, hương
thơm đặc trưng. Một bông hoa có thể nở trong khoảng 20-25 ngày. Ưa ẩm. Ưa 50%
ánh sáng trực tiếp. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, ít đẻ nhánh. Đẻ nhánh ở
phần thân cây đã già, rụng hết lá.
1.2. Đai Châu Lào & Miền Trung: Có ở (dọc Trường Sơn), ra hoa chủ
yếu Tháng 11, một số ít cho hoa vào Tháng 12. Đặc điểm sinh thái như trên.
Lan Đai Châu có thể được trồng vào gỗ xốp, chắc hoặc trong chậu với
than Hiện nay người chơi Lan thường chọn các gốc, rễ cây đẹp, chắc để ghép
thành giò lan lớn rất hoành tráng, đẹp mắt. Có giò lan có giá cả chục triệu.
Phân biệt Đai Châu Lào và Đai Châu Tây Bắc khi chưa có hoa: phân biệt
chủ yếu nhờ sự khác nhau của lá. Lá Đai châu Lào có bản to, ngắn, vặn vỏ đỗ và
thường có màu vàng hơn. Đai Châu Tây Bắc lá xanh đen, dài, thẳng và bản lá hẹp.
Ngoài ra còn có loài Đai Châu cho hoa đỏ thẫm và hoa trắng toát đều thơm.
Chúng có hoa nhỏ hơn Đai Châu rừng. Các loài này được tạo bởi công nghệ sinh

học và được nhập về từ Đài Loan và Thái Lan. Hình dạng lá và hoa giống Đai Châu
Lào nhiều hơn nhưng màu lá xanh đậm như Đai Châu Tây Bắc.
Do được khai thác sớm, nên hiện tại, đã khó kiếm được một ngọn đai châu
Tây Bắc. Trên thị trường chủ yếu là Đai Châu khai thác từ Lào về.
2. Quế Lan Hương (Quế Tháng Tám): Hoa màu trắng, có cả ở Vùng núi
Miền Bắc và Miền Trung. Ra hoa Tháng 8, hương thơm như hương quế. Ưa ẩm. Ưa
50% ánh sáng trực tiếp. Rất nhạy cảm với ánh sáng, thậm chí chỉ cần xoay giò Lan
ngay tại cùng một vị trí treo giò Lan cũng làm ảnh hưởng cây Lan. Lan đơn thân, rễ
gió, phát triển mạnh, đẻ nhánh ở phần thân cây đã già, rụng hết lá. Lan có bộ rễ đẹp.
Những ngọn Lan ghép vào giá thể sau 4 năm bộ rễ có thể bọc kín giá thể và rủ dài
tới cả mét. Trồng gỗ xốp hoặc gỗ chắc. Tuy nhiên, nên trồng gỗ xốp. Với những giò
16
lan to, lâu năm, nếu giá thể bị mục, ta không cần thay giá thể, bộ rễ tự nó làm thành
giá thể tự nhiên.
3. Tam Bảo Sắc (Quế Tháng Tư): Có cả ở vùng núi Miền Bắc và Miền
Trung. Ra hoa Tháng 4, hoa có màu phớt nâu - vàng nhạt và trắng, hương thơm đặc
trưng. Lan đơn thân, rễ gió, đẻ nhánh sát gốc. Phát triển và sinh thái như Quế Lan
Hương.
4. Hồng Quế: Có nhiều ở Trường Sơn và Lào, ra hoa Tháng 7. Hoa có màu
phớt hồng, vàng hương thơm đặc trưng. Ưa 40% ánh sáng trực tiếp. Ưa ẩm vừa
phải. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Trồng gỗ chắc.
5. Hồng Nhạn: Có nhiều ở Lào ra hoa Tháng 3. Hoa có màu phớt hồng,
hương thơm đặc trưng. Chịu hạn tốt, ánh sáng giảm 40%. Lan đơn thân, rễ gió, phát
triển và sinh thái như Hồng Quế.
6. Bạch Nhạn: Có nhiều ở Lào ra hoa Tháng 3. Hoa có màu trắng, hương
thơm đặc trưng. Ưa khô hạn. Ưa 40% ánh sáng trực tiếp. Lan đơn thân, rễ gió, phát
triển và sinh thái như Hồng Quế.
7. Đuôi Cáo: Chủ yếu ở Cao Bằng, hoa Tháng 5. Lan đơn thân, rễ gió, phát
triển rất chậm. Một ngọn Lan mới ghép phải sau 6 tháng mới ra rễ mới và sau
khoảng 4 năm mới phát triển bình thường, đẻ nhánh sát gốc. Ưa ẩm. Ưa 50% ánh

sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc, xốp.
8. (Cây giống Đuôi Cáo): Có nhiều ở Cao Bằng, ra hoa tháng 7 - 8, hoa
chùm, bông nhỏ, màu trắng. Ưa ẩm. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Lan đơn thân, rễ
gió, phát triển và sinh thái như Đuôi Cáo.
9. Đuôi Sóc Lào (Lào): Có ở Miền Trung và Nam Trường Sơn, Lào, hoa
tháng 6. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở phần thân sát gốc. Chịu
hạn tốt. Ưa 40% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
10. Đuôi Chồn: có cả ở Tây Bắc, Miền Trung và Nam Trường Sơn, Lào,
hoa Tháng 6. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Chịu hạn tốt.
Ưa 40% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
20. Cù Lao Minh: Hoa tháng 7, mới nở màu xanh lục tươi, sau 3-4 ngày
lưỡi chuyển màu trắng, hoa tồn tại khoảng 10 ngày. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển
chậm, đẻ nhánh sát gốc. Ưa ẩm vừa phải. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp . Trồng gỗ
chắc.
11. Hải Âu: Có nhiều ở Miền Trung và Lào, hoa tháng 3, hương thơm, hoa
bền được khoảng 20 ngày. Rễ gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh ở phần thân sát gốc
giả hành. Chịu hạn. Ưa 40% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
12. Cẩm Nhung, có người gọi là Miệng Kín: Có ở vùng núi Phía Bắc, khá
hiếm. Cây có thể ra hoa nhiều đợt từ Tháng 4 đến Tháng 8. Lan đơn thân, bán rễ
gió, phát triển rất chậm, đẻ nhánh sát gốc. Ưa ảm. Ưa ánh 50% sáng trực triếp.
Trồng gỗ chắc.
17
13. Mỹ Dung Dạ Hương (Đắc Lắc): có không nhiều ở Đắc Lắc. Hoa
tháng mùi thơm đặc trưng. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở sát
gốc. Ưa ẩm. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
14. Phượng Vỹ: Đồng Bằng Bắc Bộ còn gọi là Khô Mộc. Có nhiều ở miền
núi Phía Bắc. Hoa Tháng 5, khá bền. ua ẩm vừa phải. Ưa 100% ánh sáng trực tiếp.
Phải có nắng trực tiếp cây mới có hoa. Lan đơn thân, rễ gió, bộ rễ phát triển mạnh
như các loài Van Đa khác. Đẻ nhánh ở thân, phát triển nhanh, cây rất khoẻ. Có thể
trồng vào giá thể, thậm chí chỉ cần treo riêng từng ngọn nơi có nắng trực tiếp, độ

ẩm cao cây cũng phát triển tốt. Có người treo rất nhiều ngọn tạo thành một giò lan
không giá thể, có bộ rễ rủ xuống và cây phát triển rậm rạp. Vào mùa hoa, giò lan
như một mâm hoa đỏ rực rất đẹp mắt.
15. Bò cạp (Đà Lạt): Là loài Lan đặc trưng ở Đà Lạt, hoa tháng 5, khá bền.
Rễ gió, phát triển chậm. Ưa ẩm. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Ít đẻ nhánh. Trồng gỗ
chắc.
16. Phi Công Thiên (Cao Bằng): Có ở vùng núi Phía Bắc Miền Bắc, khá
hiếm. Ra hoa tháng 4. Cần nhiều ánh sáng, Ưa 30% ánh sáng trực tiếp. Chịu hạn tốt.
Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở sát gốc. Trồng gỗ chắc, chỉ cần
giá thể nhỏ.
17. Van Đa Tam Đảo (Tam Đảo): Người Tam Đảo gọi là Quế Tam Đảo.
Cây giống Phượng Vỹ. Hoa Tháng 4, bông nhỏ tạo thành chùm, màu vàng nhạt, khá
bền. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Ưa ẩm. Ưa 60% ánh
sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc, chỉ cần giá thể nhỏ.
18. Bạch Hạc (TP Hồ Chí Minh): Tác giả được biết có ở Bình Thuận, khá
hiếm. Hoa Tháng 4- Tháng 8, một giả hành cho ra hoa nhiều đợt trong năm và trong
nhiều năm. Hoa rất bền, có thể tồn tại tới 3 tháng. Lan đơn thân, bán rễ gió, phát triển
chậm, đẻ nhánh sát gốc giả hành. Ưa khô hạn. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ
chắc.
19. ………… N (TP HCM) chưa có hoa: Lan đơn thân, bán rễ gió, phát
triển nhanh, đẻ nhánh sát gốc và có nhiều keiky. Ưa khô hạn. Ưa 70% ánh sáng trực
tiếp. Trồng gỗ chắc.
20. Van Đa Rừng Trắng có người còn gọi là Hương Duyên: Hoa có màu
trắng, khá bền, hương thơm. Lan đơn thân, rễ gió, bộ rễ đẹp, phát triển nhanh, đẻ
nhánh sát gốc. Ưa ẩm vừa phải. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc, chỉ cần
giá thể nhỏ.
21. Van Đa Rừng Nâu: Giống Van Đa Rừng Trắng, nhưng hoa không có
hương thơm. Nhìn cây không phân biệt được hai loài này.
22. Cù Lao Minh: Hoa tháng 7, lúc mới nở hao có màu xanh lục tươi, sau
3-4 ngày lưỡi chuyển màu trắng, hoa tồn tại khoảng 10 ngày. Lan đơn thân, rễ gió,

phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Ưa 50% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
18
23. Van Đa Tây Nguyên (?): Có ở Tây Nguyên, hiếm, hoa khá bền, ra
hoa Tháng 6-7 hoa có 5 cánh màu nâu có sọc vàng ngang cánh hoa. Lan đơn, rễ
gió, bộ rễ đẹp, cây khoẻ, phát triển nhanh, đẻ nhánh ở thân cây. Dễ thích nghi với
môi trường mới. Ưa ẩm. ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ chắc, giá thể nhỏ.
24. Hoả Hoàng (Buôn Mê Thuật): Có nhiều ở Tây Nguyên và Lào, ra hoa
Tháng 4. Có hai loài: Hoa có màu vàng lửa và đỏ lửa dựng ngược như bó đuốc. Hoa
bền khoảng 20 ngày. Lan đơn thân, rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Chịu
hạn tốt. Ưa 30% ánh sáng trực tiếp. Trồng gỗ chắc.
25. Từ Hoàng (Buôn Mê Thuật): Có ở Tây Nguyên, Lào, hiếm, ra hoa Tháng
lan đơn thân rễ gió, phát triển chậm. Chịu hạn tốt, ánh sáng giảm 30%. Trồng gỗ
chắc.
26. Mang Cá, có người gọi là Bóng Nước hoặc Hoàng Hạc: Ra hoa nhiều
đợt từ Tháng 5 đến Tháng 8 (nụ hoa có hình mang cá, hoa chỉ tồn tại 1 ngày và có
màu vàng hình con hạc). Có ở Vùng núi Tây Bắc, không nhiều. Lan đơn thân, rễ gió,
phát triển nhanh, đẻ nhánh ở thân cây. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.
27. Da Báo (Cao Bằng): Có nhiều ở vùng núi Miền Bắc, hoa Tháng 4, khá
bền. Cánh hoa có nền vàng và vân, đốm như da con báo. Lan đơn thân, rễ gió, phát
triển chậm, đẻ nhánh sát gốc. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ chắc.
28. Cẩm Báo (Cao Bằng): Tương tự như Da Báo nhưng hiếm hơn, do hoa to
hơn và có nhiều màu nâu - tím hơn Da Báo nên gọi là Cẩm Báo. Lan đơn thân, rễ gió,
phát triển chậm. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ chắc.
Phân biệt Da Báo và Cẩm Báo khi chưa có hoa: Da Báo lá ngắn, dày hơn,
cây có đốt dài hơn.
29. Hồ Điệp Da Báo: Có ở Miền núi Phía Bắc, khá hiếm, hoa Tháng 4, có
mùi thơm. Lan đơn thân, cây nhỏ, ngắn, đốt dày, lá giống Hồ Điệp. Lan đơn thân, rễ
gió, phát triển nhanh. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ chắc.
30. Hoàng Yến: Có không nhiều ở Miền núi Phía Bắc. Hoa Tháng 10 tạo
thành chùm dài. Đẻ nhánh ở gốc giả hành. Nhánh phát triển sẽ ra hoa ở ngọn cây con,

sau khi hoa tàn, cuống hoa khô đi, phần còn lại sẽ phát triển thành giả hành mới. Lan
đa thân, bán rễ gió, phát triển chậm. Ưa ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ xốp.
Các loài Kiều (Miền Nam gọi là Thuỷ Tiên): Là loài lan đa thân, có cả ở
Miền Bắc, Trung, Nam và Lào. Có thể nói đây là các loài lan rừng đẹp nhất. Từng
bông nhỏ ghép lại thành chùm hoa to trông giống như một chiếc đèn lồng nhỏ, đường
kính chùm hoa có thể tới 15cm và dài tới 30cm, màu sắc trang nhã, hài hòa. Hoa đẹp
từ khi có nụ cho tới khi hoa nở. Một giả hành có thể ra nhiều hoa trong nhiều năm.
Hiện tại, có 3 loài với 3 màu chủ yếu: tím -Kiều Tím; vàng - Kiều Vàng và trắng -
Kiều Trắng hoặc Kiều Thân vuông (tiết diện giả hành hình thoi có đủ 4 góc, 4 cạnh).
Chùm hoa của Kiều Tím và Kiều Thân Vuông lớn hơn của Kiều Vàng nhưng Hoa
Kiều vàng dày đặc hơn.
19
Phân biệt Kiều Tím, Kiều Vàng và Kiều Thân Vuông khi chưa có hoa: Kiều
Thân Vuông có giả hành ngắn tiết diện hình thoi, lá to, mỏng. Kiều Tím lá dày nhất,
đuôi tròn hơn đối với loài có nguồn gốc Miền Bắc, giả hành dài, thon, thẳng, mập
hơn và ít nhăn nheo hơn giả hành Kiều Vàng. Lá Kiều Vàng mỏng hơn lá Kiều Tím,
mặt dưới lá có sọc mờ dọc theo cuống lá. Giả hành nhỏ khẳng khiu và nhăn nheo.
Nhìn chung, các loài Kiều ưa khô hạn, dễ bị chết do quá ẩm, dễ mắc bệnh
đốm lá và khô vằn nhất là Kiều Thân Vuông và Kiều Vàng. Bán rễ gió, phát triển
nhanh, một năm có thể mọc chồi tới 2 đợt, đẻ nhánh ở căn hành, rất ít khi có keiky,
khó thích nghi với môi trường mới. Chịu hạn tốt, ánh sáng giảm 40-50%. Trồng gỗ
chắc.
31. Kiều Tím: ra hoa Tháng 5. Loài có nguồn gốc Miền Trung và Tây
Nguyên có hoa sớm hơn khoảng 3 – 4 tuần so với loài có nguồn gốc từ Miền núi Phía
Bắc. Cuống hoa của loài có nguồn gốc Miền Trung có màu tím còn loài có nguồn gốc
Miền Bắc lại có màu xanh.
32. Kiều Vàng: có nhiều ở cả Miền Bắc và Miền Trung, hoa Tháng 4. Bán
rễ gió, phát triển chậm hơn so với các loài Kiều khác, khó thích nghi với môi trường
mới hơn hai loài trên.
33. Kiều Trắng (Kiều Thân vuông): Có nhiều ở Miền Trung và Lào, hoa

cuối Tháng 3, hoa thưa nhưng chùm hoa to.
34. Kiều Hoàng Nạp: có nhiều ở Miền Trung và Lào, hoa Tháng 4. Hoa có
màu vàng và thơm như mùi hoa cải.
35. Kiều Lông Mao (TP. Hồ Chí Minh): có ở Nam Trung Bộ, hoa Tháng 3.
Bán rễ gió, phát triển chậm, ưa khô hạn. Đẻ nhánh sát gốc giả hành, nhiều đợt trong
năm, nếu bị ẩm sẽ mọc nhiều keiky nhưng giả hành nhỏ, yếu. Ánh sáng giảm 40%.
Trồng gỗ chắc
36. Hoàng Thảo Đùi Gà: có nhiều ở Miền núi Phía Bắc. Giả hành rụng hết
lá vào mùa đông lá và ra hoa vào Tháng 2. Bán rễ gió, chịu khô hạn, phát triển
nhanh, mọc chồi mới ở sát gốc giả hành và mọc nhiều đợt trong năm, đôi khi có
keiky. Cây non hay bị bệnh thối rữa. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ xốp,
chắc.
37. Hoàng Thảo Thân Tròn Hoa Tím: có ở Miền núi Phía Bắc, khá hiếm,
hoa Tháng 4, hình dáng và cỡ hoa khá giống Hoàng Thảo Đùi Gà nhưng cánh hoa có
nhiều màu tím hơn. Các đặc điểm khác giống Hoàng Thảo Đùi Gà
38. Hoàng Thảo Thân Tròn Hoa Trắng (?): có ở Miền núi Phía Bắc, rất
hiếm, hoa tháng 5, màu trắng. Đặc điểm sinh thái giống Hoàng Thảo Thân Tròn Hoa
Tím.
39. Hoàng Thảo Đùi Gà Hoa Vàng: chỉ có ở Miền trung, hoa Tháng 4, lúc
mới nở có màu vàng lục, sau chuyển thành màu trăns phớt vàng. Giả hành gần giống
Hoàng Thảo Đùi Gà nhưng các đốt ít thắt lại hơn và to, mập hơn. Bán rễ gió, phát
triển nhanh, chồi mọc sát gốc giả hành và nhiều đợt trong năm. Đôi khi có keiky.
20
Khác với Hoàng Thảo Đùi Gà là lá có thể không rụng hết vào mùa đông thậm chí còn
tồn tại ngay cả khi ra hoa. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ chắc.
40. Hoàng Thảo Xoắn: có ở Miền núi Phía Bắc, rất hiếm, hoa Tháng 4. Bán
rễ gió, phát triển chậm. Chồi mọc sát gốc giả hành và một lần trong năm, hiếm khi có
keiky Giả hành khá giống các loài Hoàng Thảo Thân Tròn nhưng có sọc tím. Sinh
thái giống Hoàng Thảo Thân Tròn.
41. Kim Điệp: có nhiều ở Miền núi Phía Bắc. Giả hành rụng hết lá vào mùa

đông và ra hoa vào Tháng 4, hình dáng gần giống hoa Lan Vảy Rồng nhưng có màu
của vàng 9999, mùi thơm như mùi hoa cải. Bán rễ gió, phát triển chậm. Nhánh mới
chỉ mọc sát gốc giả hành, rất hay bị thối rữa. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 50%. Trồng
gỗ chắc.
42. Duyên dáng (Buôn Mê Thuật): tác giả mới thấy có ở Buôn Mê Thuật,
khá hiếm. Giả hành rụng hết lá vào mùa đông và ra hoa vào Tháng 6. Bán rễ gió, phát
triển rất chậm. Đẻ nhánh sát gốc giả hành. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 70%.
43. Vảy Rồng Bát Diện: có nhiều ở Lào và Miền Trung. hoa tháng 4. Bán rễ
gió, phát triển nhanh. Nhánh mới rất ít khi có keiky. Khoẻ, dễ thích nghi với môi
trường mới. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ chắc.
44. Vảy rồng Tứ diện: khác Vảy Rồng Bát Diện ở chỗ chỉ có ở Miền núi
Phía Bắc và ra hoa Tháng 6. Các Đặc tính khác của 2 loài này giống nhau.
45. Môi Tơ (Sa Pa): có ở Miền núi cao Tây Bắc như Sa Pa, hoa tháng 5. Bán
rễ gió, phát triển chậm, khó thích nghi với môi trường mới. Mọc chồi sát gốc giả
hành, rất hay bị thối rữa. Có nhiều keiky. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ
chắc.
46. Hoa Đào: có nhiều ở Miền núi Phía Bắc. Giả hành rụng hết lá vào mùa
đông và ra hoa một lần vào Tháng 5. Bán rễ gió, phát triển nhanh. Mọc chồi sát gốc
giả hành, đôi khi có keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp, chắc. Trồng gỗ
xốp, chắc.
47. Hoàng Trúc Hương (Hoà Bình): chỉ có ở Miền núi Phía Bắc, hoa Tháng
4, mùi thơm rất đặc trưng. Bán rễ gió, phát triển chậm, chỉ mọc chồi sát gốc giả hành.
Rất ưa khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ chắc.
48. Hoàng Thảo Mặt Mèo/Hoàng Thảo Thái Bình (Lào, Quảng Trị): có
nhiều ở Lào và Quảng Trị. Giả hành rụng hết lá vào mùa đông và ra hoa nhiều năm
vào Tháng 4 loài ở Lào và Tháng 5 loài ở Quảng Trị. Bán rễ gió, phát triển chậm, chỉ
mọc chồi một lần trong năm sau khi ra hoa. Chồi mọc ở sát gốc giả hành, ít khi có
Keiky. Hay mắc bệnh khô vằn và khô đuôi lá. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 30%.
Trồng gỗ chắc.
49. Hoàng Thảo Kim Thoa: có nhiều ở Tây Bắc, có hai loài. Loài sống ở Sa

Pa và loài sống ở vùng núi thấp hơn như Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu Loài Sống ở
Sơn La có giả hành nhỏ hơn và có màu vàng. Loài còn lại giả hành lớn hơn, lá to hơn,
sau khi ra hoa có màu tím. Cả hai đều có nhiều keiky. Giả hành rụng hết lá vào mùa
21
đông và ra hoa nhiều năm vào Tháng 5. Bán rễ gió. Ưa ẩm, phát triển nhanh. Loài
sống ở Sa Pa dễ thích nghi với môi trường mới hơn. Nên trồng trong chậu.
Nếu không tinh ý, nhìn bề ngoài khi Lan chưa có hoa rất dễ lẫn với Hoàng
Thảo Mặt Mèo và Đuôi Lươn
50. Hoàng Thảo Trúc Lồi: có ở Vùng núi Tây Bắc. Giả hành rụng hết lá vào
mùa đông và ra hoa một lần vào Tháng 4. Bán rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở gốc
giả hành. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ xốp. Rất khó thích nghi với môi
trường mới.
51. Đuôi lươn (?) (Điện Biên): Tác giả mới thấy có ở Điện Biên, khá hiếm,
hoa Tháng 4. Giả hành ra hoa nhiều lần vào các năm sau cho tới khi khô kiệt. Bán rễ
gió, phát triển chậm, rất khoẻ và dễ thích nghi với môi trường mới, đẻ nhánh ở gốc
giả hành. Dễ mắc bệnh khô vằn. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 30%. Trồng gỗ chắc.
52. Hương Vany (Cao Bằng): có không nhiều ở Miền núi Phía Bắc. Hoa
Tháng 5, tạo thành chùm, nở không đều, ngay trên một giả hành các chùm hoa cũng
không nở cùng lúc cho nên giò lan có thể cho hoa tới 1-1,5 tháng. Hoa thơm như mùi
Vany. Bán rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở gốc cây và có nhiều keiky. Ưa khô
hạn, ánh sáng giảm 70%. Trồng gỗ chắc.
53. Hoa Vàng (?) (Sa Pa): có ở Sa Pa, rất hiếm. Giả hành và lá giống Hương
Vany. Hoa chùm có 1-2 bông màu vàng tươi như hoa cải nhưng đậm hơn. Một giả
hành dài chỉ có vài ba chùm hoa. Bán rễ gió, phát triển rất chậm, khó thích nghi với
môi trường mới. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ chắc.
54. Phy điệp: Miền Trung và Nam gọi là Long Tu. Đây là những loài Lan rất
đẹp, có cả sắc, hương và tương đối dễ trồng, dễ nhân giống theo phương pháp vô
tính, chăm ra hoa. Tác giả mới biết có 7 loài:
54.1. Phy Điệp Vùng núi Phía Bắc: Phân bố rộng rãi, hoa Tháng 5. Bán rễ
gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh sát gốc giá thể, có nhiều keiky nhất là trong môi

trường có độ ẩm cao. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.
54.2. Phy Điệp Miền trung: Phân bố rộng rãi, hoa Tháng 4. Bán rễ gió, phát
triển nhanh, đẻ nhánh sát gốc giá thể, có nhiều keiky nhất là trong môi trường có độ
ẩm cao. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.
Hai loài này nhìn thoáng dễ lẫn ngay cả khi có hao. Phân biệt như sau: loài có
nguồn Miền Bắc giả hành to, mập và các đốt thẳng, khi già giả hành có màu trắng,
hoa ít tím và ít thơm hơn. Loài có nguồn gốc Miền Trung các đốt của giả hành
thường không thẳng, khi già có màu tím, hoa thơm hơn và phần tím nhiều hơn. Ra
hoa sớm hơn khoảng 1 tháng.
54.3. Phy Điệp Hồng (Quảng Trị): tác giả mới thấy ở Hướng Hoá, Quảng
Trị, hoa Tháng 4. Bán rễ gió, phats triển và sinh thái giống các loài trên, nhưng ít
keiky.
22
54.4. Phy Điệp Tím (Huế): tác giả mới thấy ở Huế, khá hiếm, hoa Tháng 3,
hao nở đều trên toàn giả hành. Bán rễ gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh sát gốc giả
hành, có nhiều keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.
54.5. Phy Điệp Vàng, có người còn gọi là Ý Thảo (Bắc Cạn): có nhiều ở
Miền núi Phía Bắc, hoa Tháng 3. Bán rễ gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh ở gốc cây, có
nhiều keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.
54.6. Phy Điệp trắng: có thể đây là loài mới đột biến (?) có ở Tây Nguyên,
rất hiếm hoa Tháng 3. Bán rễ gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh ở gốc cây, có nhiều
keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ xốp.???
54.7. Kim Phy Điệp: có ở Miền núi Phía Bắc. Hoa tháng 5. Bán rễ gió, phát
triển nhanh, đẻ nhánh ở gốc giar hành, có nhiều keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%.
Trồng gỗ xốp.
55. Hạt Cườm (Buôn Mê Thuật): tác giả mới thấy có ở Đắc Lắc, không
nhiều, ra hoa Tháng 3. Bán rễ gió, phát triển nhanh, khó thích nghi với môi trường
mới, đẻ nhánh sát gốc giả hành, nhiều keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ
xốp.
56. Hồ điệp (do hoa và lá nhỏ hơn Hồ Điệp đã biến đỏi gien nên có người

gọi là Tiểu Hồ điệp): có ở Lào, khá hiếm, hoa rất bền từ Tháng 5 đến tháng 9, nhưng
phải đủ ánh sáng mới cho hoa. Rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh ở gốc giả hành, có
thể tách nhánh để nhân giống khi các nhánh này có rễ. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm
50%. Trồng gỗ xốp. Nên trồng trong chậu.
57. Hồ điệp cành dao: Có không nhiều ở Miền núi Phía Bắc, hoa Tháng 6.
Rễ gió, phát triển nhanh, đẻ nhánh ở thân giả hành . Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 30%.
Trồng gỗ chắc.
58. Tóc Tiên (Huế): về hình dáng, rất giống Hồ Điệp Cành Dao, nhưng giả
hành không cứng nên rủ xuống chứ không cứng cáp như Hồ Điệp Cành Dao. Có cả ở
Miền núi Phía Bắc và Miền Trung, khá hiếm, hoa Tháng 9. Rễ gió, phát triển chậm,
đẻ nhánh ở gốc giả hành. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 30%. Trồng gỗ chắc.
59. Bạch Hạc? (TP. Hồ Chí Minh): tác giả mới thấy ở Bình Thuận, khá
hiếm. Hoa tháng (?), giả hành ra hoa nhiều đợt trong năm và trong nhiều năm. Hoa
rất bền, có thể tồn tại tới 3 tháng. Bán rễ gió, phát triển chậm, đẻ nhánh sát gốc giả
hành. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 30%. Trồng gỗ chắc.
60. ………… N (TP. Hồ Chí Minh) chưa có hoa: không rõ nguồn gốc,
nhưng có thể có ở Nam Trung Bộ. Bán rễ gió, phát triển chậm, có nhiều keiky. Ưa
khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ chắc.
61. Bạch Câu (Phú Quốc): có ở Kiên Giang, Phú Quốc, không nhiều, hoa
Tháng 5. Hoa thơm mát và chỉ tồn tại một ngày. Bán rễ gió, phát triển nhanh, đẻ
nhánh sát gốc giả hành đồng thời có nhiều keiky. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng
gỗ chắc. Cần lưu ý, đây là loài Lan chịu rét kém nên mùa đông phải che Gió Bắc.
23
62. Thạch Ngọc (Pha Đin): có ở Miền núi Phía Bắc, hoa nhiều đợt trong
năm từ tháng 5 đến tháng 8. Bán rễ gió, phát triển nhanh. Dễ thích nghi với môi
trường mới. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ chắc.
63. Mai Trúc Lan (Hoà Bình): có nhiều ở Miền núi Phía Bắc, hoa nhiều
đợt từ Tháng 5 đến Tháng 9, hương thơm đặc trưng. Ra hoa nhiều lần ngay trên một
mắt của thân giả hành. Bán rễ gió, phát triển nhanh, đôi khi có keiky, dễ thích nghi
với môi trường mới. Ưa khô hạn, ánh sáng giảm 40%. Trồng gỗ chắc.

64. Xương cá (Thanh Hoá): giống với Mai Trúc Lan nhưng hoa không thơm
và không có keiky.
Phân biệt Mai Trúc Lan và Xương Cá rất dễ dàng bằng lá và giả hành.
Xương cá có giả hành nhỏ, thẳng đều, lá nhỏ dày và cứng. Mai trúc Lan có giả hành ở
phần dưới phình to, phần trên nhỏ thẳng đều, lá nhỏ và mỏng.
65. Tai Thỏ (Đà Lạt): có nhiều ở Đà Lạt, hoa cuối Tháng 12. Bán rễ gió,
phát triển nhanh, dễ thích nghi với môi trường mới, đẻ nhánh Ưa khô hạn, ánh
sáng giảm 40%. Trồng gỗ xốp.
66. Chuỗi Ngọc: có ở Miền Núi Phía Bắc, ra hoa tháng 7. Bán rễ gió, phát
triển chậm, khó thích nghi với môi trường mới. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 50%. Trồng gỗ
xốp.
67. Hoàng Trường: giống như Lan Kiếm, chúng có bộ rễ loại bán địa lan và
phân bố rộng rãi ở Miền núi Phía Bắc. Ra hoa Tháng 4. Phát triển chậm, khó thích
nghi với môi trường mới. Ưa ẩm, ánh sáng giảm 60%. Trồng chậu phủ kín rễ.
68. Lan Kiếm: có nhiều ở Miền Bắc không chỉ ở rừng mà trên cả các cây cổ
thụ ở đồng bằng. Có 2 loài Đoản Kiếm và Trường Kiếm:
68. 1. Đoản Kiếm: ra hoa tháng 4. Tuy có bộ rễ bán địa lan nhưng rễ không
cần phủ kín như Hoàng Trường. Phát triển nhanh, dễ nhân giống. Ưa ẩm, ánh sáng
giảm 40%. Với giò Lan Kiếm có bộ rễ dày, không cần giá thể.
68.2. Trường Kiếm: ra hoa tháng 10, đặc điểm sinh thái như Đoản Kiếm.
Có thể phân biệt hai loài này bằng lá và hoa. Đoản Kiếm có lá nhỏ và dài,
bông hoa ngắn khoảng 40cm, màu trắng nhiều hơn. Ngược lại, Trường Kiếm có lá to
và ngắn, có bông hoa dài tới 1m, màu nâu nhiều hơn.
69. Cầm Cù: Tác giả có 4 loài Cầm Cù: Hoa Trắng Tím, Hoa Trắng và Hoa
Đỏ. Chúng có đặc điểm sinh thái giống nhau. Ra hoa nhiều lần vào mùa hè và ngay
trên một cuống hoa. Bán rễ gió, đẻ nhánh sát gốc.Ưa ẩm, ánh sáng giảm 30%. Trồng
gỗ xốp.
Phân biệt các loài Cầm Cù:
Loài có hoa trắng, tím: Rất phổ biến ở nhiều nơi, lá dày, nhỏ có màu xanh
nâu, thân màu nâu tím. Loài này rất phổ biến, dễ trồng và chăm ra hoa. Phát triển

nhanh.
24
Loài có hoa trắng: Hiếm hơn loài trên, lá to, xanh sáng, thân bạc trắng, hoa
mới nở có màu xanh lục, sau 2 – 3 ngày có màu trắng và rất thơm. Khó trồng hơn loài
trên.
Loài có hoa trắng: Có ở Lào, khá hiếm. Thân mập, lá dầy có hình trái tim,
màu xanh sáng bạc như cây Lan Đá. Phát triển chậm.
Loài có hoa đỏ: Có ở Lào, khá hiếm, thân rất mập, lá to, dày, có hình giống
lá cây Hoa Ban, như quả thận bổ đôi, có màu xanh sáng bạc như cây Lan Đá. phát
triển chậm.
Một số sai lầm thường gặp đối với người mới trồng Lan Rừng.
Mặc dù đã rải rác đề cập tới trong bài viết, nhưng tác giả thấy cần tổng kết lại
để người đọc lưu ý, tránh mắc những sai lầm sau:
- Phủ kín rễ ngay cả khi mới ghép Lan vào giá thể nhất là Lan rễ gió;
- Tưới quá nhiều nước;
- Bón phân quá nồng độ cho phép, nhất là giai đoạn đầu;
- Nuôi Lan ở những nơi không phù hợp như gần bếp, không thoáng gió, quá
râm quá ẩm
- Dùng đinh dễ bị han gỉ để cố định lan vào giá thể
- Đóng đinh vào thân cây lan còn tươi
- Khi ghép Lan vào giá thể để giây buộc Lan ép vào nơi có thể nảy chồi
mới, nhất là các mắt ở sát gốc giả hành;
Lời khuyên của tác giả
Muốn nuôi Phong Lan thành công, nhất là Lan Rừng, người nuôi phải: đam
mê; kiên trì; chịu khó quan sát; phân tích hiện tượng; tìm nguyên nhân; rút kinh
nghiệm và tìm giải pháp xử lý kịp thời.
Thế nào là giò lan đẹp?
Tuỳ thuộc quan niệm của người chơi Lan. Có người chỉ quan tâm tới hoa
lan, Ngay cả với hoa lan mỗi người có một sở thích tùy thuộc gu thẩm mỹ về màu
sắc, về hình dáng hoa Theo Tác giả thì một giò lan đẹp phải bao gồm nhiều yếu tố:

Cây lan phải khoẻ mạnh, tươi tốt gồm cả giả hành, lá và rễ; giá thể có hình dáng đẹp
phù hình dáng từng loài lan; hoa có cả hương và sắc. Nhiều loài Lan còn có bộ rễ rất
đẹp như Đai Châu, Phượng Vỹ có bộ rễ gió to, mập và rủ dài tới cả mét, Quế Lan
Hương có bộ rễ dày rủ dài như tóc thanh nữ rất yêu kiều. Những giò lan như vậy phải
được trồng ít nhất 10 năm trên một giá thể.
cây, lá, bộ rễ và giá thể, có nhất thiết phải có hoa không?


25

×