Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học
1. Đặt vấn đề:
Triết học xuất hiện từ khi con người có sự phân công lao động. Khi đó các
ngành khoa học còn nằm trong triết học gọi là triết học tự nhiên. Sau nhiều thế kỷ
chúng mới phát triển thành các ngành khoa học độc lập với triết học.
Khái niệm triết học dù ở phương Tây hay phương Đông, dù biến đổi trong
lịch sử như thế nào đều bao gồm hai yếu tố:
- Yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết của con người về vũ trụ và con người giải
thích hiện thực bằng tư duy.
- Yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động.
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội,
là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái
độ con người đối với thế giới; là quy luật của những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Với tính cách là một hình thái ý thức quan trọng nhất và
cổ xưa nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên với sự phát triển tri thức của
nhân loại.
Trong sự phát triển của mình. Triết học dần dần hình thành các trường phái
khác nhau cùng giải quyết một vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
giữa tồn tại và tư duy, giữa tự nhiên và tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau.
Đó chính là vấn đề cơ bản của triết học, không có một trường phái triết học nào lại
không giải quyết vấn đề này, vì việc giải quyết nó sẽ chi phối việc giải quyết các
vấn đề khác của triết học. Nó là điểm xuất phát của mọi tư tưởng, mọi quan điểm
của mọi hệ thống triết học trong lịch sử.
2. Vấn đề cơ bản của triết học: Gồm hai mặt là bản thể luận và nhận thức
luận.
2.1. Bản thể luận: Trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta
biết lập trường triết học của người nói và duy vật, duy tâm hay nhị nguyên.
* Trường phái triết học duy vật cho rằng vật chất có trước ý thức, vật chất tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức, ý thức phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc người.
Trong LSTH có khá nhiều loại hình chủ nghĩa duy vật khác nhau:
* Chủ nghĩa duy vật cổ dại Hy Lạp - La Mã với những đại diện nổi tiếng từ
hơn 2000 năm, nhiều trường phái hiện nay đã được bắt nguồn từ trường phái triết
1
học này. Chủ nghĩa duy vật trực quan thô sơ mộc mạc dựa trên những quan sát
trực tiếp.
- Đêmôcrit: Học thuyết về nguyên tử cho rằng nguyên tử là thành phần nhỏ bé
nhất của vật chất.
- Hêraclit: Ông được coi là nhà biện chứng vĩ đại thời cổ đại.
- Epi quya: Người phát triển học thuyết nguyên tử. Ba đại diện này đã tạo
thành đường lối triết học. Đêmôcrit trong triết học cổ đại.
* Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII: Là chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Thời trung cổ khoa học cũng như triết học không phát triển dưới sự kìm kẹp của
nhà thờ.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận
động, không phát triển trong trạng thái cô lập, không liên quan đến các sự vật hiện
tượng khác, nó đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình có 3 trung tâm lớn là: Anh (với các đại diện
như: F.Bêcơn, T.Hopxơ, G.Lôcơ); Hà Lan (B.xpinoda); Pháp (Hênnntiuyt, Điđrô,
Lemetri).
- Chủ nghĩa duy vật nhân bản: Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu
chính, là mục tiêu triết học phải phục vụ. Trường phái sau này được Mác kế thừa
và phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường: Khi giải thích về ý thức họ đã tầm thường
hoá quan điểm này. ý thức là một dạng của vật chất như là gan và mật vậy (Mô tả
Lơ sốt và Bukhơme).
Trường phái triết học duy tâm (khách quan, chủ quan,duy ngã) thừa nhận
tinh thần, ý thức là cái có trước, cái quyết định, vật chất là cái có sau -cái bị quyết
định. Chủ nghĩa duy tâm được thể hiện qua hai trào lưu chính:
+ Chủ nghĩa duy vật khách quan: coi tinh thần tư duy tồn tại độc lập, bên
ngoài con người (Platon, Hêghen).
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức tồn tại trong trí óc của con
người (Beccơli, Hium, Fichtê). Chính tư duy, cảm giác của con người sinh ra sự
vật. Beccơli nói: "khi tôi không suy nghĩ vẫn còn người khác suy nghĩ. Khi không
có ai suy nghĩ vẫn còn thượng đế suy nghĩ. Thế giới không bao giờ mất đi". Ông
đã chuyển dần sang duy ngã.
+ Duy ngã: chủ nghĩa duy tâm chủ quan được phát triển đến tột độ là chủ
nghĩa duy ngã "chỉ có tư duy của tôi" (Hium).
2
* Trường phái nhị nguyên luận: tư duy và tồn tại, vật chất và ý thức không cái
nào có trước, không cái nào có sau, không cái nào quy đinkhj cái nào, chúng cùng
song song tồn tại với nhau.
2.2. Mặt thứ hai: Nhận thức luận: trả lời câu hỏi con người có thể nhận thức
được thế giới hay không? Việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta biết ai là người
khả tri và ai là người bất khả tri.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới.
Các nhà triết học duy vật cho rằng: con người có khả năng nhận thức được thế
giới như nó tồn tại.
Các nhà triết học duy tâm cho rằng: nhận thức được thế giới như sản phẩm
của tinh thần.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới,
không thể nhận ra đâu là duy vật, đâu là duy tâm. Số người bất khả tri là nhỏ.
Cantơ: Lúc là nhà duy vật, lúc là nhà duy tâm, lúc là bất khả tri.
Hium: Con người không thể nhận biết được thế giới hoặc chưa nhận biết được
hiện tượng của sự vật.
Hơcxli: Thừa nhận vật chất có ý thức, nhưng lại cho rằng con người không
thể nhận biết được thế giới.
3. Phương pháp nhận thức thế giới của triết học.
Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, giúp
cho việc nhận thức hoạt động và cải tạo thế giới, triết học Mác dựa vào những
thành quả của các khoa học cụ thể, nhưng nó không lấy phương pháp của các
ngành khoa học cụ thể để làm phương pháp của mình. Phương pháp nhận thức
chung nhất, đúng đắn nhất của triết học là phương pháp biện chứng duy vật, nó
đối lập với duy tâm và siêu hình.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong
mối liên hệ tác động qua lại, vận động và phát triển. Ngược lại, phương pháp siêu
hình xem xét sự vật hiện tượng trong sự tác rời không vận động, không phát triển.
Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình cũng là
một nội dung cơ bản của lịch sử triết học.
Phương pháp biện chứng duy vật xuất hiện từ thời cổ đại, chỉ đến khi triết học
Mác ra đời. Phương pháp này mới thực sự trở thành phương pháp triết học khoa
học. Phương pháp này giúp con người khả năng nhận thức đúng đắn khách quan
về giới tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp cho con người đạt được hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn.
3
Kết luận: Để đánh giá về các trường phái triết học khác nhau thì chúng ta phải
trả lời câu hỏi về tính bản thể luận và tính nhận thức luận.
Câu 2: Phạm trù vật chất.
1. Đặt vấn đề:
Lịch sử triết học đã chia triết học làm hai trường phái: Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm - vấn đề xuyên suốt trong quá trình phát triển của lịch sử triết
học:
- Các trường phái của triết học đều đi đến thống nhất triết học có 2 bộ phận
cấu thành và gồm 2 mặt: Vật chất và ý thức.
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất là cái có trước (tính thứ nhất), ý thức là
cái có sau (tính thứ hai) vật chất quy định ý thức - vật chất là một trong những
phạm trù cơ bản, là nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng
2. Quan điểm của các nhà triết học duy vật trước Mác.
Quan niệm về vật chất của các nhà duy vật cổ đại: Khuynh hướng chung của
các nhà duy vật cổ đại là đi tìm một vật ban đầu nào đó và coi đó là yếu tố tạo ra
tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới. Tất cả đều bắt nguồn từ đó và
cũng tan biến trong đó.
Nhưng nói chung các nhà duy vật cổ đại hiểu vật chất dưới dạng cảm tính và
quy vật chất thành một vật cụ thể cố định, ví dụ:
- Triết học ấn Độ cổ đại - Phái Charơ và coi cơ sở đầu tiên là đất, nước, lửa
và không khí.
- Triết học Hi Lạp cổ đại coi cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là nước.
- Những nhà nguyên tử luận cổ đại có hai cơ sở tồn tại đó là nguyên tử và
trống rỗng.
Thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển của chủ nghĩa duy vật trên
con đường hình thành phạm trù vật chất triết học - cơ sở khoa học của nhận thức
khoa học sau này.
* Thế kỷ XIX:
- Khoa học phát hiện ra nguyên tử các tư tưởng của Lơxíp, Đêmôcrít đã được
Galilê, Đềcáctơ, Niutơn… khẳng định và phát triển, nhưng họ vẫn đồng nhất vật
chất với nguyên tử hoặc vật chất với một thuộc tính phổ biến của các vật thể đó là
khối lượng.
* Cuối TK XIX đầu TK XX:
Trên thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học tự nhiên, nó được đánh giá
bằng một loạt những phát minh quan trọng.
4
- Rơnghen: Phát hiện ra tia X.
- Béccơren: Phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của một số nguyên tố hoá học
nặng.
- Tômsơn: Phát hiện ra điện tử.
- Hau phnam: Đã phát hiện ra điện tử tăng khi vận tốc nó tăng.
Những phát minh đó là một bước tiến của loài người trong việc nhận thức và
làm chủ giới tự nhiên, đem lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về cấu
trúc của thế giới vật chất.
Tóm lại: Triết học duy vật trước Mác có những đóng góp và hạn chế.
Đóng góp: Vật chất được coi là thực thể cơ sở đầu tiên ban đầu của các sự
vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan đối lập với quan điểm của chủ
nghĩa duy vật coi ý thức là cái có trước.
Hạn chế: Sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất với những
thuộc tính của vật chất làm căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ
nghĩa duy vật bảo vệ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy tâm cho rằng "Vật chất
là cái tiêu tan".
3. Định nghĩa vật chất của Lênin.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê
phán chủ nghĩa duy tâm triết học, ông đã viết tác phẩm "CNDT và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán" ông đã định nghĩa về vật chất như sau:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Phân tích: Lênin dòi hỏi cần phải phân tích vật chất với tính cách là một
phạm trù triết học. Nó chỉ tất cả những tác động vào ý thức của chúng ta giúp hiểu
biết về sự vật, hiện tượng, chuyển biến từ dạng này sang dạng khác bằng khắc
phục sai lầm của CNDT (vật chất có sau, ý thức có trước và quan điểm siêu hình
của các nhà triết học duy vật trước Mác).
- Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan siêu hình, máy móc và
những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản
hiện đại. Do đó DN này cũng đã giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm
về vật chất của các nhà triết học về khoa học theo quan điểm của CNDV siêu hình.
- Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng vô tận, luôn vận động
và phát triển không ngừng nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học
đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính
5
mới và những quy luật vận động của vật chất làm phong phú hơn kho tàng tri thức
của nhân loại.
Câu 3: Vật chất và vận động:
Khái niệm vận động: Không phải chỉ sự di chuyển nói chung trong không
giam mà là sự biến đổi nói chung.
- Định nghĩa: Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy.
1. Vận động là thuộc tính hữu cơ của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Là thuộc tính không tách rời
của vật chất.
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự
tồn tại của mình, không thể có vật chất không có vận động và ngược lại.
Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, bởi vì tất cả các dạng vật chất
bao giờ cũng là một kết cấu bao gồm các yếu tố các mặt, các quá trình trong sự tác
động qua lại dẫn đến sự biến đổi nói chung. Vận động ở đây là sự tự vận động.
Vận động là hình thức tồn tại của vật chất, thông qua vận động các dạng vật
chất mới được bộc lộ - các dạng vật chất được nhận thức thông qua vận động.
Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt đi, mà vận động
là thuộc tính của vật chất vận động cũng không do ai sáng tạo ra và cũng không
mất đi.
2. Tính mâu thuẫn của vận động:
Có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới: ở sự di chuyển vị trí của các vật thể.
- Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản các quá trình
nhiệt điện.
- Vận động hoá học: của các nguyên tử, quá trình phân giải và hoà hợp của
các chất.
- Vận động sinh vật: ở hoạt động của cơ chế, ở sự trao đổi giữa cơ thể sống.
- Vận động xã hội: là quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái KTXH.
Tuy có sự khác nhau về chất nhưng cách thức vận động của sự liên hệ, tác
động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, từ hình thức thấp đến cao.
6
Thế giới vật chất không chỉ ở trong quá trình vận động mà còn đứng im tương
đối có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật hiện tượng phong phú và đa
dạng.
- Vì đứng im là tương đối lớn thể hiện ở các mặt sau đây:
+ Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
+ Sự đứng im của vật thể chỉ trong một thời gian xác định và chúng trong thời
gian này đã nảy sinh nhân tố dẫn đến sự đứng im tạm thời.
- Vận động của thế giới vật chất bao hàm cả tính biến đổi và tính ổn định.
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất: biểu hiện những thuộc tính như
cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính nhưng các sự vật lại tồn tại
trong độ nhanh chậm khác nhau, kế tiếp và chuyển hoá > thời gian > không gian -
thời gian cùng biến đổi với vật chất.
- Tính thống nhất của thế giới vạt chất được biểu hiện ở chỗ là cơ sở, thực thể
duy nhất, phổ biến tồn tại vĩnh viễn và vô tận… và nó gần liền với sự liên hệ tác
động qua lại giữa các yếu tố ở bên trong thế giới > vận động và phát triển.
3. ý nghĩa của quan điểm triết học duy vật biện chứng về vận động.
Chống lại quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động không đi tìm nguồn
gốc của vận động ở trên trong bản thân sự vật và quy nguồn gốc ấy về tinh thần
hoặc vào chủ thể của nhận thức.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, bằng tư tưởng về sự khác
biệt và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản của vật chất là cơ sở để
chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức. Quy hình thức vận động cao và
hình thức vận động thấp và ngược lại.
Quan điểm sự thống nhất không tách rời giữa không gian và thời gian và vật
chất vận động của chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn toàn bác bỏ quan điểm siêu
hình tác rời không gian, thời gian với vật chất vận động.
Tóm lại: Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận, tuy thế
giới vật chất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều là vật chất, đều thống nhất ở
tính vật chất của nó.
Câu 4: Phạm trù ý thức:
I. Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về ý thức.
Giải quyết một cách duy vật và biện chứng về ý thức, đặt tư duy trong mối
quan hệ với tồn tại, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng về vấn đề cơ bản của
triết học để xem ý thức (tính thứ hai)
7
II. Nguồn gốc và biện chứng của ý thức.
1. Nguồn gốc có hai loại: Tự nhiên và xã hội.
a. Nguồn gốc tự nhiên: ý thức ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu
dài của các hình thức phản ánh của thế giới vật chất.
Phản ánh: Là thuộc tính chung của vật chất, được thể hiện trong sự tác động
qua lại giữa các hệ thống vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật
chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Ví dụ: Nước là ôxy tác động vào kim loại gây ra sự han gỉ, sự han gỉ của kim
loại phản ánh đặc điểm của nước và ôxy.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất tương ứng với sự phát
triển của các hình thức của vật chất thì thuộc tính của vật chất cũng phát triển,
phản ánh có hai loại cơ bản, đó là:
+ Phản ánh thế giới vô cơ. Phản ánh vật lý được biểu hiện qua những biến đổi
cơ lý hoá dưới những hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí, biến dạng và
phá huỷ.
+ Phản ánh thế giới hữu cơ, phản ánh sinh vật, biểu hiện từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp.
Trình độ thấp nhất của phản ánh sinh vật đó là tính kích thích thể hiện ở thực
vật và các cơ thể động vật bậc thấp.
ở động vật bậc cao phản ánh được phát triển cao hơn, do việc xuất hiện hệ
thần kinh xuất hiện tính cảm ứng do những tác động từ bên ngoài cơ thể lên cơ thể
động vật và cơ thể phản ứng lại - phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với quá
trình hình thành các phản xạ có điều kiện, đã xuất hiện tri giác và hiện tượng -
phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
Phản ánh ý thức: Là một hình thức phản ánh mới đặc trưng của… tổ chức cao
nhất - bộ não người.
Là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật.
Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động thần kinh của bộ
não người, tinh thần, phản ánh thế giới khách quan, nó diễn ra bằng thần kinh của
bộ não người - không có bộ não người và sự tác động của thế giới xung quanh vào
bộ não người thì không thể có ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội của ý thức: Lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động: Đưa lại cho người dáng đi thẳng đứng bằng hai chân, giải phóng
hai tay có để có thể làm được những tác động khéo léo, tinh xảo khác nhau. COn
8
người đã chế tạo ra những công cụ làm biến đổi thế giới, quyết định những đặc
điểm khác nhau của các vật phẩm được làm ra. Trong quá trình lao động con
người tác động vào các đối tượng hiện thực bằng bộc lộ những đặc tính, những kết
cấu, quy luật vận động - tác động vào bộ óc người tạo nên cảm giác tri giác - trong
quá trình cải tạo thế giới biến đổi thế giới nảy sinh những hiện tượng khác nhau
sinh ra ý thức.
+ Ngôn ngữ: Lao động đã liên kết những con người - thành viên trong xã hội
với nhau - nảy sinh nhu cầu trao đổi ngôn ngữ. Là cái vỏ trực tiếp của tư tưởng và
chỉ diễn ra bằng phương tiện ngôn ngữ.
2. Bản chất của ý thức:
Định nghĩa: ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan…
ý thức là hình ảnh chủ quan - vì nó không có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh
thần, hình ảnh chủ quan không phải được phản ánh tuỳ tiện, xuyên tạc HTKQ.
Hiện thực khách quan đã được di chuyển vào bộ não người và được cải biến và nó
phụ thuộc vào sự sáng tạo của ý thức trở thành tinh thần, những hình ảnh tinh thần
và chủ quan phản ánh đúng đắn quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng.
ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm các yếu tố như: tri thức, xúc cảm, tình
cảm, ý chí. Trong đó tri thức là quan trọng nhất. Tri thức là quá trình phát triển có
tính lịch sử về thế giới hiện thực xung quanh vào bộ não người trên cơ sở thực
tiễn - việc nhấn mạnh tri thức là quan trọng nhất, giúp chúng ta tránh được quan
điểm giản đơn, coi ý thức chỉ là yếu tố như: tình cảm, niềm tin, trừu tượng trong
đó của con người.
Tóm lại: ý thức của con người là sản phẩm hoạt động lao động và ngôn ngữ,
sự phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất mang tính chất sáng tạo.
Câu 5: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Dưới góc độ nhận thức luận và trong hoạt động thực tiễn.
I. Định nghĩa: Vật chất của Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.
- Phân tích định nghĩa: Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với tính cáhc là một
phạm trù triết học, nó chỉ tất cả những gì tác động vào ý thức của chúng ta, giúp
hiểu về sự vật hiện tượng.
9
+ Vật chất được thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài không lệ thuộc vào
cảm giác, ý thức con người.
+ Định nghĩa ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Bản chất của ý thức:
ý thức là hình ảnh chủ quan, nó không có tính vật chất. Hình ảnh chủ quan
này đã được phản ánh vào bộ não người, được cải biến và nó phụ thuộc vào sự
sáng tạo của ý thức trở thành tinh thần.
ý thức có kết cấu phức tạp gồm các yếu tố: tri thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí,
trong đó tri thức là quan trọng nhất, nó có quá trình phát triển lịch sử xã hội về thế
giới hiện thực khách quan vào bộ não người trên cơ sở thực tiễn.
II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức dưới góc độ nhận thức luận
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức thì vật
chất có trước (tính thứ nhất), ý thức có sau (tính thứ hai), vật chất quyết định ý
thức khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, thì sự nhận
thức thế giới phải xuất phát từ thế giới khách quan.
Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới, ý thức của con người
phát triển song song với quá trình và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối
với vật chất. Có thể thúc đẩy sự kìm hãm sự phát triển của quá trình hiện thực.
Chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng trong bất kỳ trường hợp nào ý thức bao
giờ cũng là sự phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo
trong phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh, hơn nữa, tự thân nó ý thức
không thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực. ý thức muốn tác động
lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người
thực hiện trong thực tiễn.
III. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người được bắt đầu từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng
hoạt động.
ý thức trang bị cho con người những tri thức về bản chất của các quy luật
khách quan của đối tượng - giúp con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra
phương hướng hoạt động phù hợp.
+ Con người với ý thức của mình xác định đúng dắn mục tiêu và đề ra các
biện pháp để tổ chức cách hoạt động thực tiễn.
10
Nói đến tính tích cực của ý thức tức là nói đến con người, đến hoạt động có
mục đích của con người bằng tính tích cực có thể thúc đẩy và có thể kìm hãm ở
một mức độ nhất định sự phát triển của tồn tại (ý thức) và ngược lại.
Tóm lại: Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, theo chủ nghĩa duy vật
biện chứng thì vật chất bao giờ cũng có vai trò quy định ý thức nhưng ý thức lại
có tác động trở lại đối với vật chất, nên quan hệ tác động này diễn ra thông qua
hoạt động của con người. Chính vì thế nâng cao năng lực nhận thức các quy luật
và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của con người.
Câu 6: Phép biện chứng với tính cách là khoa học và mối liên hệ phổ biến
và phát triển.
I.1. Nội dung mối liên hệ phổ biến.
1. Khái niệm: Các sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới
không cái nào tồn tại cô lập, biệt lập mà chúng ta là một tổng thể thống nhất, trong
đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng các tác động nhau, ràng buộc nhau quy định
và chuyển hoá lẫn nhau.
2. Nội dung: Mối liên hệ không những diễn ra ở trong sự vật hiện tượng trong
tự nhiên xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra với các mặt, các yếu tố, các quá trình
của mỗi sự vật và hiện tượng.
Mối liên hệ trên đây là khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, nó
bắt nguồn từ tính thống nhất của vật chất, của thế giới biểu hiện trong các quá
trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ của các sự vật - hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ.
Khi nghiên cứu hiện thực khách quan chúng ta có thể phân chúng thành nhiều loại
khác nhau.
Mối liên hệ bên trong - bên ngoài.
Mối liên hệ bản chất: quy định bản chất của sự vật, không có nó sự vật, hiện
tượng không tồn tại được.
Mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu: nổi lên trong một giai đoạn nào đó của sự vật
hiện tượng.
Mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp: trực tiếp không cần khâu trung gian, gián
tiếp cần khâu trung gian.
Sự phân loại liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ
là một hình thức. Một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến nối chung,
11
song sự phân loại là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quyết
định sự vận động của phát triển của sự vật hiện tượng không hoàn toàn như nhau.
II. Nội dung nguyên lý phát triển.
1. Khái niệm:
+ Vận động: Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ
trạng thái này sang trạng thái khác. Sự biến đổi chuyển hoá này là vô cùng vô tận
với những tính chất và khuynh hướng khác nhau.
PT: Khái niệm phát triển không bao giờ khái quát trong sự vận động nói
chung.
+ Nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận động đi lên,
cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
2. Tính chất của sự phát triển.
Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện - tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của
thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau.
+ Trong thế giới vô cơ sự phát triển biểu hiện dưới hình thức biến đổi của các
yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động giữa chúng trong điều kiện nhất định là
xuất hiện các hợp chất phức tạp (VD: sự tác động giữa F từ và NT hợp chất hoá
học).
Trong sinh vật: sự phát triển của chúng thể hiện ở sự thích nghi trước sự biến
đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện không ngừng quá trình trao đổi chất
ở sự tái sinh chính mình đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng cao hơn của các
phương thức sản xuất.
+ Trong tư duy: giới hạn nhận thức của thế hệ trước luôn bị các thế hệ sau
vượt qua bằng sự phát triển và đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự
nhiên xã hội, tư duy mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật, hiện tượng.
III. ý nghĩa phương pháp luận:
NC nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển có ý nghĩa đối với chúng
ta trong hoạt động nhận thức và LĐ thực tiễn.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Các sự vật hiện tượng thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ phổ iến và nhiều vẻ thì muốn nhận thức và tác động vào chúng,
chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phương diện một
chiều.
12
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật hiện tượng phải đặt
nó trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác, xem xét các mặt, các yếu tố
kể cả các mắt khâu trung gian. Tuy nhiên quan điểm toàn diện không phải xem xét
cân bằng tràn lan, mà phải lấy vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố
trong tổng thể của chúng.
Nguyên lý phát triển: Muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng
nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm QT, khắc phục
quan điểm bảo thủ, trí tuệ.
Khi phân tích sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động phải phát hiện
được các xu hướng biến đổi, chuyển hoá.
Câu 7: Nội dung, ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập:
I. Đặt vấn đề:
Phép biện chứng duy vật có 3 quy luật (thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập, lượng đổi, chất đổi, phủ định của phủ định) → 3 hình thức, cách thức phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Quy luật thống nhất của các mặt đối lập nói lên nguồn gốc, động lực bên
trong của sự vận động và phát triển, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật và
nó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
II. Nội dung:
1. Khái niệm: Đấu tranh là sự tác động qua lại của các mặt đối lập trong sự
vật, hiện tượng khách quan.
2. Tính chất của đấu tranh:
* Đấu tranh là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- Khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới đều tồn tại đấu tranh bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một
thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau nhưng
lại ràng buộc nhau và tạo thành đấu tranh.
- Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến: Đấu tranh tồn tại khách quan trong mọi
sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người thể
hiện:
+ Đấu tranh tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng, tồn tại trong suốt quá
trình phát triển của chúng ta.
13
+ Không có sự vật, hiện tượng nào lại không có đấu tranh và không có một
giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có đấu
tranh. Đấu tranh này mất đi mâu thuẫn khác lại hình thành.
* Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
* Khái niệm mặt đối lập: Là sự khái quát những mặt, những thuộc tính,
những khuynh hướng… trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và
hiện tượng.
Đấu tranh là chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau: Mâu thuẫn phải có 2 mặt đối lập, họ không phải bất kỳ mặt đối lập
nào cũng tạo thành đấu tranh, chỉ vì mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có
liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành đấu tranh.
* Khái niệm thống nhất: Là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau
và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Ví dụ:
- Trong sự vật: Hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá, nếu chỉ là một quá trình
thì sự vật sẽ chết.
- Trong xã hội: Giai cấp tư sản và vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với
nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách một giai cấp bán sức lao
động thì cũng không có giai cấp tư sản, tồn tại với tư cách mua sức lao động, bóc
lột sức lao động để tạo ra giá trị thặng dư.
- Khái niệm "thống nhất" trong quy luật đấu tranh còn gọi là "đồng nhất", hai
khái niệm này đồng nghĩa với nhau song khái niệm "đồng nhất" còn có một nghĩa
khác đó là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.
Trong một cuộc đấu tranh sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự
đấu tranh giữa chúng, sự thống nhất của hai mặt đối lập → hai mặt đối lập không
nằm yên bên nhau mà luôn luôn đấu tranh với nhau ⇒ là một quá trình phức tạp
và chia ra làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng khác nhau (ví
dụ: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản).
Tóm lại: Bất cứ sự thống nhất của các mặt cụ thể nào cũng đều có tính chất
tạm thời, tương đối. Còn sự đấu tranh của các mặt đối lập có tính chất tuyệt đối,
nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về chất của các sự vật hiện tượng.
* Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
Sự vật và hiện tượng trong thế giới là muôn hình, muôn vẻ nên sự chuyển hoá
và các mặt đối lập cũng rất khác nhau, vì vậy phải căn cứ vào từng sự vật mà phân
14
tích sự chuyển hoá của các mặt đối lập, nghĩa là hai mặt đối lập chuyển hoá với
nhau hoặc cả hai chuyển thành chất mới.
3. Các loại đấu tranh: Có 4 loại:
a. Đấu trnah bên trong và bên ngoài:
Đấu tranh bên trong: Là đấu tranh nằm ngay trong bản thân sự vật và hiện
tượng.
Đấu tranh bên ngoài: Là đấu tranh giữa các sự vật và hiện tượng với nhau.
b. Đấu tranh cơ bản và đấu tranh không cơ bản.
+ Đấu tranh cơ bản: Là đấu tranh quy định bản chất sự vật, hiện tượng.
+ Đấu tranh không cơ bản: chịu sự chi phối của đấu tranh cơ bản.
c. Đấu tranh chủ yếu và đấu tranh thứ yếu:
+ Đấu tranh chủ yếu: Là đấu tranh nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất
định của quá trình phát triển của sự vật.
+ Đấu tranh thứ yếu là đấu tranh không đóng vai trò quyết định.
d. Đấu tranh đối kháng và không đối kháng.
Đấu tranh đối kháng: Là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực
lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau, không thể điều hoà được.
Đấu tranh không đối kháng là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực
lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau.
III. ý nghĩa phương pháp luận.
1. Phải thừa nhận tính khách quan về đấu tranh của các sự vật, hiện tượng, đòi
hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt đối lập của đấu tranh, nắm được bản chất
của sự vật, khuynh hướng vận động và phát triển của chúng.
2. Phải biết phân tích thật cụ thể một đấu tranh cụ thể và tìm cách giải quyết
đấu tranh cụ thể đối với từng đấu tranh - chúng ta phải tuân theo nguyên tắc sự
vật, hiện tượng đối lập nhau thì đấu tranh khác nhau, mỗi quy trình đều có đấu
tranh, mỗi đấu tranh lại có đặc điểm riêng.
3. Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết đấu tranh vì đó là sự đấu tranh của
các mặt đối lập, bất kỳ đấu tranh nào, bất kỳ giai đoạn nào của đấu tranh, đấu
tranh chỉ được giải quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Câu 7 (Phần 2): Nội dung, ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về lượng
dẫn đến thay đổi về chất lượng và ngược lại.
I. Đặt vấn đề:
15
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật này nói lên
cách thức của sự vận động và phát triển.
II. Nội dung:
1. Khái niệm:
* Chất: Là tính quy định vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất
hữu cơ của các thuộc tính, nhưng yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì,
phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác.
- Trong thế giới có vô vàn các sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng đều
có một chất riêng, là mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có
nhiều chất tuỳ theo những quan hệ cụ thể.
* Lượng: Là tính chất quy định của sự vật và hiện tượng về mặt quy mô,
trình độ phát triển của nó, trình độ phát triển của nó biểu thị con số các thuộc tính,
các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng.
- Lượng của sự vật nói lên kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng
số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc
đậm hay nhạt.
Có nhiều tính quy định về lượng khác nhau, sự vật và hiện tượng càng phức
tạp thì những thông số về lượng càng phức tạp.
Sự phân biệt giữa chất là lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối
quan hệ mà xác định đâu là chất, đâu là lượng của sự vật. Có cái trong mối quan
hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại.
2. Mối quan hệ tính chất giữa chất và lượng: Mỗi sự vật có một thể thống
nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động đến
nhau một cách biện chứng. Trong sự vật tính quy định về chất không tồn tại nếu
không có tính quy định về lượng và ngược lại.
Khi sự vật đang tồn tại chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định
→ mối liên hệ giữa chất và lượng, là giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn
còn là nó, chưa biến thành cái khác.
Trong phạm vi một độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác động lẫn nhau làm
cho sự vật và hiện tượng vận động và biến đổi.
So với chất lượng thay đổi tuổi → quá trình diễn ra từ từ tăng dần hoặc giảm
dần. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì dẫn đến sự thay đổi vật
chất → quá trình thay đổi dần dần của lượng đã tạo điều kiện cho chất đổi.
Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy → bước ngoặt căn bản trong sự
biến đổi dần dần về lượng, thời điểm sảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
16
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nó không chấm dứt sự vận động nói
chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật → sự vật mới, lượng mới →
điểm nút → xảy ra bước nhảy và cứ như thể làm cho sự vật mới luôn luôn thay thế
sự vật cũ.
- Sự biến đối về lượng dần dần dẫn đến sự biến đổi về chất diễn ra một cách
phổ biến trong giới tự nhiên, đời sống xã hội, tư duy.
+ Tự nhiên: Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendelép đã chỉ rõ
tính đa dạng của các chất phụ thuộc vào nguyên tử, khi cơ PhôFônFăng, giảm thì
nguyên tử sẽ trở thành nguyên tố khác.
+ Đời sống xã hội: sự thay thế phương thức sản xuất - sự thay đổi lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất.
+ Tư duy: sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng là bước nhảy vọt về chất
trong lịch sử triết học.
Quy luật "Lượng - Chất" không chỉ có sự biến đổi về lượng > thay đổi về chất
mà còn ngược lại → khi chất mới ra đời → một lượng mới phù hợp với nó để có
sự thống nhất giữa chất và lượng.
Tóm lại: Quy luật Lượng - Chất quy luật về sự tác động biện chứng giữa
lượng và chất, những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và
ngược lại.
III. ý nghĩa phương pháp luận:
+ Khắc phục tư tưởng nôn nóng "tả khuynh" đồng thời phải khắc phục tư
tưởng bảo thủ "hữu khuynh". Quy luật lượng chất giúp ta hiểu rằng lượng đổi →
chất đổi thông qua bước nhảy là hình thức tất yếu của sự vận động và phát triển.
Nhưng sự thay đổi về chất chỉ diễn ra với điều kiện lượng thay đổi đến điểm nút.
Tư tưởng nôn nóng ''tả khuynh'' không chú ý đến quá trình tích luỹ về lượng
→ họ nôn nóng, chủ quan, duy ý chỉ cho rằng sự phát triển chỉ là bước nhảy liên
tục mà không cần đến sự tích luỹ dần dần về lượng.
Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy
quy luật tự nhiên, đời sống xã hội đều có tính khách quan. Sự khác nhau là ở chỗ,
quy luật tự nhiên thì tự nó diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống xã hội chỉ
được giải quyết thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Câu 7 (Phần 3): Nội dung ý nghĩa, quy luật phủ định của phủ định
I. Khái niệm và đặc điểm của phủ định (xu hướng của sự phát triển)
17
1. Khái niệm: Một dạng vật chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi, được thay
thế bằng một dạng khác, đó là sự phủ định.
Sự phủ định là một yếu tố nhất thiết hải có của quá trình vận động và phát
triển.
Phép biện chứng duy vật không đề cập đến sự phủ định chung mà chỉ nói đến
sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của cái mới ra đời thay thế
cái cũ.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.
* Tính khách quan: Sự phủ định của cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay
trong bản thân sự vật, nó là kết quả của những đấu tranh được giải quyết trong bản
thân mỗi sự vật → phương pháp định có tính khách quan là một yếu tố tất yếu của
sự phát triển.
* Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên
cơ sở giải quyết vì đấu tranh vốn có của các sự vật, hiện tượng → cái mới ra đời
không thể là một sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn mà là một sự phủ định có kế
thừa.
Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ → có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt
còn thích hợp của cái cũ để chuyển sang cái mới gạt bỏ ở cái cũ, mặt lỗi thời, lạc
hậu gây cản trở cho sự phát triển → nội dung cơ bản của sự phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng không chỉ là nguyên tố khắc phục cái cũ, mà còn gắn
liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định.
II. Nội dung của quy luật.
Phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới này
lại trở nên cũ và bị cái mới sau phủ định → khuynh hướng phát triển tất yếu đi từ
thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoáy ốc.
VD: Lấy ví dụ về hạt thóc → gặp điều kiện thuận lợi → nảy mầm → hạt thóc
biến đi (hạt thóc bị phủ định) bị thay thế bởi một cây lớn → lớn lên, ra hoa, thụ
phấn → sinh ra hạt thóc mới → thân cây chết đi (cây bị phủ định) và cứ như thế.
⇒ Đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định: Quy luật phủ định của
phủ định biểu hiện sự phát triển bên trong của sự vật quy định. Mỗi lần phủ định
đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong bản thân
sự vật → sự vật đấu tranh giữa khẳng định và phủ định.
+ Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là cái tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái khẳng định ban đầu và cả
18
trong cái phủ định lần thứ nhất, tạo ra chất mới cao hơn → nó có nội dung toàn
diện, phong phú hơn.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển,
đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển mới tiếp theo.
Tóm lại: Quy định phủ định của phủ định, khái quát tính tất yếu tiến lên của
sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, sự phát triển không theo đường
thẳng mà theo đường xoáy ốc → tính chất biện chứng của sự phát triển, tính kế
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
Khi nghiên cứu quy luật phủ định chúng ta không nên hiểu tất cả các sự vật,
hiện tượng đều qua hai lần phủ định mà là nhiều lần.
III. ý nghĩa phương pháp luận.
Giúp chúng ta hiểu biết một cách đúng đắn về xu hướng của sự phát triển, quá
trình phát triển của các sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng thắn mà
quá trình đó quanh co phức tạp (lấy ví dụ từng lĩnh vực đời sống xã hội: về chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩ xã hội).
Giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới → ra đời phù hợp với quy luật
phát triển của sự vật → biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển →
chúng ta ủng hộ cái mới, đấu tranh cho cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển, chống lại cái cũ đã lỗi thời kìm hãm sự phát triển.
Câu 8: Cặp phạm trù cái chung và cái riêng.
I. Khái niệm:
1. Phạm trù: Là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của các sự vật và hiện tượng
thuộc lĩnh vực nhất định của hiện thực.
2. Khái niệm phạm trù của phép biện chứng duy vật: Là những khái niệm
chung nhất, phản ánh nhiều mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và
phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nào của hiện thực, mà là toàn bộ
thế giới hiện thực nói chung.
II. Nội dung của cặp phạm trù cái chung và cái riêng.
1. Định nghĩa:
* Cái riêng: Là một phạm trù của triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
19
* Cái chung: Là một phạm trù của triết học dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá
trình riêng lẻ.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan giữa chúng có mối quan hệ hữu
cơ với nhau, biểu hiện ở các mặt sau:
- Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình → cái chung không tồn tại thuần tuý bên ngoài cái riêng
(VD: Phương thức sản xuất → lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất).
- Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung → không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt dối độc lập, mà cái riêng chỉ còn tồn tại trong mối quan hệ
với cái chung.
- Sự vật hiện tượng nào cũng có hai mặt là cái chung và cái riêng, hai mặt này
đều tồn tại khách quan.
* Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Cái chung là các bộ
phận, nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào
cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng mà chỉ riêng nó có.
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng → phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên ổn định phổ biến tồn tại trong cái
riêng cùng loại → Cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển của sự vật.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau: Trong những điều kiện
nhất định, cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển đi lên,
cái mới ra đời thay thế cái cũ.
+ Sự chuyểnhoá của cái trung thành, cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình
cái cũ, cái lỗi thời của phủ định.
3. Một số kết luận về phương pháp luận:
- Nếu cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối mọi cái riêng, thì trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện cái chung, vận dụng
cái chung để tạo cái riêng → nếu không hiểu biết cai chung thì sẽ rơi vào tình
trạng mò mẫm, mù quáng.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như là một bộ phận của cái riêng,
nên bất cứ cái chung nào, khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được
cá biệt hoá → nếu không chú ý đến sự cá biệt hoá đó sẽ rơi vào bệnh dập khuôn,
20
giáo điều, ngược lại nếu xem thường cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng sẽ rơi vào
bệnh cục bộ, địa phương giáo điều cá nhân.
Câu 8 (Phần 2): Phạm trù bản chất và hiện tượng.
I. Định nghĩa:
* Bản chất: Là tổnghợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
* Hiện tượng: Là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, cái tạo nên bản chất của
mỗi lớp sự vật nhất định, cũng đồng thời là cái chung của sự vật đó. Tuy nhiên
không phải cái chung nào cũng là bản chất.
+ Phạm trù bản chất là cùng một loại với phạm trù quy luật. Nói đến bản chất
là nói đến những quy luật vận động và phát triển của nó → Phạm trù bản chất là
cùng loại, cùng bậc với phạm trù quy luật. Tuy vậy bản chất và quy luật không
đồng nhất với nhau, mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện được một mặt, một khía
cạnh nhất định của bản chất, còn bản chất là cái tổng hợp của hàng loại quy luật.
II. Nội dung (sự thống nhất biện chứng giữa cái bản chất và hiện tượng).
* Bản chất và hiện tượng là thống nhất với nhau, không tách rời nhau:
+ Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ qua hiện tượng và hiện tượng bao giờ
cũng là sự biểu hiện của bản chất, không có bản chất nào tồn tại một cách thuần
tuý mà lại không biểu hiện qua hiện tượng và người.
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng, sự
thống nhất cả hai mặt đối lập.
Đấu tranh giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở chỗ: sự đối lập giữa cái
bên trong và cái bên ngoài.
- Bản chất phản ánh cái chung, cái xấu xa, cái bên trong của hiện tượng phản
ánh cái riêng, cái sự vật biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
- Sự đối lập giữa cái tương đối với cái thường xuyên biến đổi:
+ Bản chất phản ánh cái tương đối ổn định.
+ Hiện tượng phản ánh cái thường xuyên biến đổi.
- Hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện
tượng: Hiện tượng phong phú hơn bản chất, vì tuỳ theo sự biến đối của điều kiện
và hoàn cảnh mà hiện tượng có những biểu hiện khác nhau → bản chất sâu sắc
hơn hiện tượng vì bản chất phản ánh cái bên trong cái ổn định của sự vật.
III. Một số kết luận về mặt phương pháp luận.
21
- Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy
định sự vận động và páht triển của sự vật, còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bản
chất bên ngoài, là cái không ổn định, cái biến đổi nhanh chóng hơn so với bản
chất nên về mặt nhận thức để hiểu được sự vật không chỉ dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu vào bản chất của nó.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng của
các mặt đối lập ⇒ từ hiện tượng đi đến bản chất sự vật không thể là con đường
giản đơn.
Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
1. Khái niệm:
* Nguyên nhân: Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra sự biến đổi nhất định.
* Kết quả: Là sự biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Theo giả định của phép bản chất duy vật thì mối liên hệ nhân quả có tính
khách quan, phổ biến và tất yếu.
II. Mối quan hệ bản chất giữa nguyên nhân và kết quả:
* Nguyên nhân: Là cái sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất
hiện.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng nào
cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
* Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, một kết quả
thông thường phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân cũng sản sinh ra
nhiều kết quả.
* Sự phối hợp tác động của những nguyên nhân (hay nguyên nhân tổng hợp)
đòi hỏi chúng ta phải phân tích tính chất, vai trò của từng nguyên nhân đối với kết
quả, sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau của các nguyên nhân.
- Nếu các nguyên nhân tác động lên sự vật theo cùng một hướng > ảnh hưởng
cùng chiều với sự hình thành kết quả và ngược lại nếu những nguyên nhân khác
nhau tác động lên sự vật theo những hướng khác nhau → làm suy yếu, hoặc tiêu
diệt tác dụng của nhau.
+ Một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả → chúng ta phải biết
phân biệt những kết quả do nguyên nhân đưa lại.
22
* Trong sợi dây truyền vô trận của sự vận động của sự vật, hiện tượng không
có một hiện tượng nào được coi là nguyên nhân và cũng không có một kết quả nào
được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này sự vật và hiện tượng được
coi là nguyên nhân, song mối quan hệ khác được coi là kết quả và ngược lại.
* Nguyên nhân sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện không giữ vai trò
thụ động đối với nguyên nhân → có ảnh hưởng ngược lại đối với nguyên nhân
theo 2 chiều, tích cực và tiêu cực.
II. Một số kết luận về mặt phương pháp luận.
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, không có sự vật, hiện tượng nào
trong thế giới vật chất tồn tại mà lại không có nguyên nhân → mối quan hệ nhân
quả trang bị chúng ta quan điểm đúng đắn về quyết định luân duy vật, khẳng định
vai trò của con người trong việc vận dụng quy luật vì mục đích của mình.
- Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra → vì vị trí khác
nhau trong việc hình thành kết quả → chúng ta cần phân biệt nguyên nhân, nắm
vững những nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc khác chiều để tạo ra sức mạnh
tổng hợp và hạn chế nguyên nhân nghịch chiều.
- Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại một cách thụ
động, biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và
tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
Hai giai đoạn của quá trình nhận thức:
Khái niệm nhận thức:
Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triết
học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan của
mình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức (trả lời
câu hỏi). Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không. Lý
luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khả
năng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm ra
các quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhu
cầu, nhiệm vụ của bản thân con người. Như thế cũng có nghĩa là tìm ra chân lý.
Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan
hay là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người ở trình độ cao.
Nhận thức là một quá trình.
Để nhận thức được cần có một thế giới khách quan, một bộ óc bình thường và
hoạt động lao động.
23
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận những nguyên lý cơ bản của lý luận
nhận thức sau đây:
- Phải thừa nhận rằng có một thế giới sự vật triết học tồn tại khách quan bên
ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Quan điểm này nhằm chống lại
chủ nghĩa duy tâm vì chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận quan điểm này.
- Giữa hiện tượng và "vật tự nó" không có sự khác nhau về nguyên tắc. Quan
điểm này khẳng định khả năng nhận thức của con người chống lại thuyết "bất khả
tri". Cantơ - người theo thuyết bất khả tri - cho rằng "vật tự nó" là cái không thể
nhận thức được là bản chất của sự vật.
- Nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết, từ cái biết ít đến nhiều và sâu
sắc hơn. Quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về
nhận thức. Chủ nghĩa siêu hình cho rằng nhận thức của con người là không biến
đổi.
- Thực tiễn là nguồn gốc và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Việc đưa quan
niệm này vào lý luận nhận thức là đóng góp rất quan trọng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Quá trình nhận thức:
Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần chú ý: không
được coi nhận thức chỉ một lần là xong. "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn là biện chứng của qua trình
nhận thức chân lý" (Lênin). Nói một cách khác quá trình nhận thức bao gồm quá
trình nhận thức cảm tính và nhân thức lý tính. Trường phái duy cảm cho rằng nhận
thức chỉ là nhận thức cảm tính. Họ tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính và cho rằng
chỉ những gì thông qua nhận thức cảm tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò
của nhận thức lý tính.
Trường phái duy lý lại cho rằng chỉ có những gì thông qua nhận thức lý tính
mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính.
Cả hai trường phái này đều tồn tại trước triết học Mác.
Thực ra nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính chỉ là hai giai đoạn của một
quá trình nhận thức mà thôi.
Nhận thức khkông phải là hành động nhất thời, làm một lần là xong, dường
như lặp đi lặp lại, quay trở về chỗ xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn (điểm
tăng trưởng của trí thức).
1. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): là giai đoạn đầu tiên của quá
trình nhận thức, gần liền với thực tiễn đi từ cảm giác, tri giác đến biểu tượng.
24
+ Cảm giác: Là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính,
phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm
giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Tri giác: Là sự tổng hợp những thuộc tính riêng lẻ của sự vật trong mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
+ Biểu tượng: Là một hình thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản
chất của chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắt đầu mang tính
khái quát và gián tiếp. Biểu tượng có vai trò là khâu trung gian giữa trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng.
- Nhận thức của con người về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh
không chỉ dừng lại ở các hình thức cảm tính. Trên cơ sở những tài liệu, những dữ
kiện do nhận thức cảm tính đem lại, nhận thức phát triển lên một trình độ cao hơn,
nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.
2. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do trực quan sinh động đem lại. Tư duy
trừu tượng cũng phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh gián tiếp và khái quát,
và do vậy "sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn" với các hình thức cơ bản
như: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm phản ánh một hoặc một số thuộc tính chung nào đó của một
nhóm sự vật, hiện tượng và do đó mà bao quát nhóm sự vật, hiện tượng ấy. Khái
niệm đóng vai trò rất quan trọng trong tư duy khoa học. Có thể xem các khái niệm
đã hình thành như những nguyên vật liệu để tạo nên ý thức tư tưởng… Mọi khái
niệm khoa học đều được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển
khoa học và thực tiễn. Trong khi nghiên cứu, vận dụng khái niệm chúng ta phải
chú ý đến tính biện chứng của nó, không được coi khái niệm là cái ngưng đọng, cố
định cứng nhắc và không biến đổi. Mỗi một khái niệm đều nằm trong mối quan hệ
liên hệ nào đó với cái khái niệm khác trong quá trình nhận thức tiếp theo về thế
giới, dẫn đến hình thành những khái niệm mới phản ánh sâu sắc hơn bản chất của
sự vật.
Khi áp dụng tính mềm dẻo, biện chứng của khái niệm phải tính đến nội dung
khách quan của khái niệm, nếu áp dụng một cách chủ quan, tuỳ tiện thì sẽ rời vào
nguỵ biện và triệt trung.
+ Phán đoán là sự vận dụng những khái niệm trong ý thức con người để vạch
ra những mặt, những mối liên hệ nào đó trong một sự vật hoặc của sự vật này với
sự vật khác. Phán đoán biểu hiện của một hay nhiều thuộc tính, đặc tính, mối liên
25