Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Thực trạng vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.73 KB, 24 trang )

ĐỀ TÀI
Thực trạng vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc Đại học.
BỐ CỤC
Phần mở đầu
1. Cơ sở lí luận
1.1. Những tiền đề lí luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin về văn hóa
1.2 Lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
2. Thực trạng vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc đại học.
2.1 Thành tựu đạt được
2.2 Hạn chế, yếu kém
2.3 Nguyên nhân:
2.3.1 Nguyên nhân thành công
2.3.2 Nguyên nhân hạn chế
3. Biện pháp khắc phục và phương hướng nhiệm vụ để khắc phục và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Kết luận
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã rèn đúc, tôi luyện và
hình thành nên một nền văn hóa phong phú và đa dạng, nền văn hóa với sự kết tinh
của những phẩm chất cao đẹp, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của
dân tộc Việt Nam. Đó là năng lực chế ngự thiên nhiên, tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong chống giặc ngoại xâm, đó là lòng yêu nước nồng nàn, là tinh thần đoàn
kết dân tộc hay đó là lòng nhân ái, sự khoan dung, trọng tình trọng nghĩa? Tất cả
đều được kết hợp hài hòa và đi sâu vào trong tính cách của mỗi con người Việt
Nam. Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, bản sắc đó
không phải là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được


hình thành, bồi tụ trong từng giai đoạn kế tiếp nhau. Trong giai đoạn hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với thế
giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại biến chuyển nhanh chóng,
đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá, sự hội nhập khu vực và thế giới với một tốc độ
rất nhanh, từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng giao lưu giữa các nền văn hoá. Trong
khi chú trọng giữ gìn, phát huy các truyền thống văn hoá tinh thần tốt đẹp của dân
tộc, văn hóa Việt Nam cần từng bước mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá thế giới và thời đại. Nền văn hóa của chúng ta sẽ đa dạng hơn, phong
phú hơn, tiên tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố lành mạnh của văn hoá thế
giới. Một mặt, Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho các quốc gia học tập lẫn nhau, vận
dụng các tiến bộ của khoa học, công nghệ để thúc đẩy kinh tế; mặt khác, quá trình
toàn cầu hoá có thể làm triệt tiêu sự khác biệt về văn hoá các dân tộc, đồng nhất các
giá trị truyền thống của mỗi quốc gia, làm xói mòn ý thức dân tộc, dẫn đến nguy cơ
đồng hoá. Bởi vậy, việc đặt ra những định hướng trong việc hội nhập, tiếp thu
những tinh hoa trong văn hoá của các nước một cách có chọn lọc là điều hết sức
2
cần thiết. Trong đó, bản sắc dân tộc giữ một vai trò không nhỏ trong việc hội nhập
với thế giới. Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản sắc riêng của
mình, chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, một mặt để đem những tinh
hoa của mình để giao lưu với các nước, mặt khác giúp chúng ta “hoà nhập chứ
không hoà tan”. Vì lẽ đó vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá có ý nghĩa hết
sức to lớn không chỉ đối với Đảng và Nhà nước mà đó là nhiệm vụ của toàn dân tộc
Việt Nam.
Bài thảo luận được trình bày trong hai phần chính: Phần Một, nhóm trình bày
các cơ sở lí luận về văn hóa. Trong phần Hai, nhóm trình bày về thực trạng vận
dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc trong môi trường bậc Đại học.
3
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1.1. Những tiền đề lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về nền văn hóa tiên tiến
1.1.1. Khái niệm văn hóa, nền văn hóa:
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa
là biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác-
Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là
“sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa như vậy, theo nghĩa rộng,
văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng
lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Theo
nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần. Văn hóa tinh thần là
tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và
hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói tới văn hoá là nói tới con người,
tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện
con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con
người, dù đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, hay trong tư
4
tưởng, tinh thần Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai
cấp. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau,
nhất là của giai cấp thống trị là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác
nhau.
Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kì lịch sử, trong
đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định
hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Kinh tế là cơ sở
của nền văn hóa còn chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của nó,
tạo nên ý thức hệ của nền văn hóa. Chính vì vậy, một nền chính trị lạc hậu tất yếu
sẽ không tạo ra một nền văn hoá tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất cứ thời kì nào
của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và

sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới. Trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp,
các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử
phát triển của văn hoá và tạo ra nền văn hoá của xã hội đó, hình thành những giai
đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển văn hoá.
1.1.2. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình
phát triển của lịch sử, là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa
hình thành. Chủ nghĩa xã hội được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề
chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền)và tiền
đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập), đó
cũng chính là những tiền đề hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
5
Vì thế, có thể khái quát: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá được
xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa.
1.1.3. Đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng,
quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc thể
hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng xã hội mới và nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng Cộng sản, có sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình thành một
cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự
quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân.

Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản
lý của nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, với nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hoá tinh thần của xã hội phát triển
lệch lạc, mất phương hướng.
1.2. Lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người tạo ra.
6
Văn hóa Việt Nam là tất cả những sản phẩm vật chất, tinh thần do con người
Việt Nam tạo ra trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tiên tiến là yêu nước
và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm
mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong
hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; đó là lòng
nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản
xuất; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm
nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Có thể nói bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân
tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết
cạnh tranh, hợp tác để tồn tại và phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối
liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội, tự nhiên và với quá trình
lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy,
cách sống, cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, nghệ thuật nhưng được thể hiện
sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm,
là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển

thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của
cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự
vững vàng của chế độ ta. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này
7
thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế
thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã
hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập
kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận
tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và
hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có tư duy độc lập, có cách
làm vừa hiện đại vừa mang bản sắc Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng
giao lưu quốc tế phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát
huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng
ta chủ trương mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những cái hay, cái tiến bộ trong
văn hoá dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội
nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của nền
văn hoá Việt Nam đương đại. Đồng thời phải chống những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc đại học
8

2.1. Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng quan điểm xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc đại học
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của sinh
viên, thanh nhiên đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa,
chuẩn mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong môi trường học tập.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua yêu
nước ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào thực chất trong đời sống xã hội.
Công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc đã đạt được nhiều
tiến bộ. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể được bảo vệ và phát huy giá trị.
công tác xã hội hoá đã thu hút được đông đảo các tổ chức ,học sinh sinh viên và cá
nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, góp phần tích cực gìn giữ
bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong kho tàng di sản
văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
Sinh viên biết coi trọng hơn các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị di sản văn
hóa truyền thống. Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí
được nâng lên, quyền con người được tôn trọng. Con người Việt Nam năng động,
tích cực, sáng tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ
các giá trị văn hóa.
Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tính chủ động, tính tích cực xã hội của sinh
viên về các chủ thể văn hóa được phát huy. Đại đoàn kết dân tộc được mở rộng, tạo
sức mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường văn hóa được cải thiện và
có một số mặt tiến bộ; chú trọng xây dựng môi trường học tập văn minh, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Vai trò của
sinh viên và giới trẻ được nâng lên trong đời sống xã hội.
9
Thông qua các hoạt động thực tiễn phong phú, niềm tin của thanh niên, sinh
viên vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa và sự phát triển đi
lên của đất nước được củng cố. Thái độ, tinh thần trách nhiệm của sinh viên thanh

niên, được nâng lên, quan tâm và có trách nhiệm hơn đến những vấn đề của đất
nước, của Đảng, của Đoàn, của Hội. Văn hóa “kính thầy yêu bạn” được nâng cao,
hiện tượng sinh viên thanh niên đánh nhau đã giảm thiểu. Ý thức tự lập, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thanh niên ngày càng mạnh mẽ, hiện tượng
bảo sao làm vậy, hoặc tự biến mình thành người thừa hành bị động ngày càng ít đi.
Tính thực tế trong tư duy trong học tập cũng như các hoạt động xã hội của thanh
niên ngày càng phát triển. Ngày nay, thanh niên sinh viên suy nghĩ nhiều hơn tới
vấn đề làm sao học tập, làm việc cho có hiệu quả.
Sinh viên thanh niên được tiếp thu văn hóa tiến tiến của các quốc gia khác
nhau. Được tạo điều kiện để đến gần hơn với văn hóa các nước khác, tổ chức các
buổi giao lưu các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa gần gũi, chia sẻ văn hóa đất nước
của mình ra khác thế giới.
Có nhiều tấm gương tiêu biểu cho việc xây dựng và phát triển văn hóa tiên
tiến đậm đà bản săc văn hóa dân tộc trong môi trường bậc đại học: Ngay từ khi còn
là học sinh phổ thông, Đào Thiên Tài luôn phấn đấu trong học tập, nhiệt tình tham
gia các hoạt động của trường lớp. Với cương vị là lớp trưởng trong suốt những năm
học phổ thông Tài luôn được thầy cô, bạn bè yêu mến và đã đạt được những thành
tích cao trong học tập, văn hóa thể thao của trường.
Năm 2009, đứng trước bước ngoặt lớn của cuộc đời. Đào Thiên Tài mạnh
dạn đăng kí dự thi và đã trúng tuyển vào trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc
Ninh trong niềm tự hào của gia đình và bạn bè. Trải qua gần 4 năm, với sự nỗ lực
của bản thân, được sự tin tưởng dạy dỗ của thầy cô, sự động viên giúp đỡ của bạn
bè, Đoàn Thiên Tài luôn phấn đấu vươn lên trong học tập, nhiệt tình tham gia các
10
hoạt động, phong trào của Đoàn, Hội, Khoa, Bộ môn, tập thể, lớp và đã đạt được
những thành tích nổi bật như: ba năm liền nhận được Giấy khen của Hiệu trưởng
trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh vì có thành tích cao trong học tập, trong
rèn luyện và phong trào Đoàn. Điểm trung bình học tập hàng năm của Tài luôn đạt
8.42, điểm rèn luyện đạt 100 điểm. Với cương vị là Phó Chủ tịch Hội Sinh viên
trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh, Đào Thiên Tài luôn hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ mà Đảng ủy nhà trường, Ban Thường vụ Đoàn trường giao cho, tiêu biểu
như: Chỉ đạo, tổ chức Đội tình nguyện “ Tiếp sức mùa thi” quản lý 60 tình nguyện
viên; tích cực tham gia và phát động các đoàn viên tham gia hiến máu tình nguyện;
chỉ đạo Đội thanh niên xung kích, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường
như bảo vệ trật tự trị an khu vực ký túc xá, phục vụ các ngày lễ lớn của nhà trường
và các giải thi đấu được tổ chức tại trường; đi tình nguyện thăm hỏi và tặng quà cho
các em có kết quả học tập tốt, giao lưu với đoàn thanh niên trên huyện đảo Cô Tô -
Tỉnh Quảng Ninh Với những thành tích xuất sắc đã đạt được trong những năm
vừa qua, Đoàn Thiên Tài đã vinh dự trở thành đại biểu đại diện cho tuổi trẻ trường
Đại học Thể dục Thể thao đi dự Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2012 – 2017, được Trung ương Đoàn
quyết định trao tặng danh hiệu Sinh viên 5 tốt năm học 2011 – 2012. Đặc biệt vừa
qua, Đoàn Thiên Tài đã được Đảng ủy trường Đại học TDTT Bắc Ninh cử tham dự
Lớp Bồi dưỡng Cảm tình Đảng tại Trung tâm Chính trị Thị Ủy Từ Sơn. Tâm sự với
Đoàn Thiên Tài, em nói “Ngoài ước mơ trở thành một nhà giáo dục tương lai, em
còn hoài bão trở thành một cán bộ Đoàn năng động sáng tạo mang tuổi trẻ của
mình cống hiến cho quê hương đất nước”.
Ngày nay, yêu cầu về chất lượng đối với người thầy cũng rất cao. Đồng thời
với dạy chữ, người thầy còn phải dạy người. Dạy chữ không chỉ đơn thuần là
truyền đạt kiến thức, mà quan trọng hơn là phải tạo cho người học khả năng sáng
11
tạo, khả năng tự thích nghi với mọi hoàn cảnh. Muốn vậy người học phải nắm được
những điều bản chất nhất, những cái cơ bản nhất. Người thầy còn phải là một điển
hình tốt về tinh thần tự học, tự vươn lên, một tấm gương sáng ngời về đạo đức, về
nhân cách đối với học sinh. Như vậy, chất lượng đòi hỏi ở người thầy là rất cao, rất
toàn diện. Trong mấy chục năm qua các trường đại học của ta đã có những bước
tiến vượt bậc. Giáo dục đại học đã có những đóng góp đáng kể trong công tác đào
tạo cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ giảng viên
đại học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có một số cán bộ xuất sắc, đạt trình
độ quốc tế. Vấn đề giáo dục đạo đức, lí tưởng sống cho thanh niên phải được đặt

lên hàng đầu.
Trước đây nhờ thanh niên và nhân dân ta thấm nhuần tư tưởng: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”, chúng ta đã giành lại được độc lập tự do cho Tổ quốc.
Ngày nay cần làm cho mọi người hiểu nỗi nhục của một nước nghèo và lạc hậu, có
ý chí quyết tâm không chịu để rơi vào cảnh phụ thuộc, làm nô lệ mới về kinh tế cho
các nước giàu. Do vậy, trên nền giáo dục quảng đại cho đông đảo thanh niên, chúng
ta cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo người tài. Cần phải thực hiện
một chính sách đặc biệt đối với họ; tạo cho họ những điều kiện tốt nhất để học tập,
rèn luyện, cung cấp những giáo viên giỏi, chương trình học tập đặc biệt, điều kiện
sinh hoạt, vật chất đầy đủ và khi ra trường được bố trí vào làm việc ở những nơi có
điều kiện tốt nhất để phát huy tài năng.
2.2. Những hạn chế, yếu kém của việc vận dụng quan điểm xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong môi trường bậc đại học.
Với sự dẫn dắt và chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc thực hiện
mục tiêu, định hướng: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa
12
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
cũng còn tồn tại một số thiếu sót, hạn chế, yếu kém cần được lưu ý và khắc phục.
Do yêu cầu khách quan khi thực hiện đường lối, mỗi nghành mỗi bộ phận,
mỗi đối tượng riêng có thể hiểu, tiếp thu, thể hiện cái nhìn nhận và thực hiện văn
hóa của mình khác nhau nên hạn chế trong việc thực hiện đường lối là không thể
tránh khỏi.
Hạn chế chung trong việc thực hiện đường lối trong điều kiện của nước ta
thời kỳ từ khi bắt đầu thực hiện mục tiêu, đường lối là: Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay, mặt trái của cơ chế thị trường, xu thế xâm lăng văn hóa đã tác
động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận quần chúng nhân
dân. Công tác quản lí các lĩnh vực hoạt động văn hóa, tư tưởng còn những biểu
hiện buông lỏng, né tránh. Một số lĩnh vực như báo chí - xuất bản, văn học - nghệ
thuật, giáo dục - đào tạo bị khuynh hướng “thương mại hóa” chi phối, hoạt động xa

rời tôn chỉ, mục đích. Những yếu tố tiêu cực này đặt nền văn hóa Việt Nam đối mặt
với nguy cơ phai nhạt bản sắc dân tộc, thoát li nền tảng hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từng bước bị thay thế bằng các hệ tư tưởng tư sản,
hình thành quan điểm, tư tưởng, lối sống theo kiểu phương Tây.
So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong
phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt được
trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác
động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ
phận quan chức Nhà nước tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng
hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
13
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đánh giá: “Văn hoá phát triển chưa tương
xứng với kinh tế. Quản lý văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ.
Môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ
tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc
hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh thiếu niên, rất đáng lo ngại”. Sự phát
triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó
với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Việc xây dựng
thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách trên lĩnh vực văn
hóa, đặc biệt là chính sách về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa còn chậm, chưa đổi
mới, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan
trọng của đời sống đất nước. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn
hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ
văn hóa mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng Sản phẩm văn hóa và các dịch
vụ văn hóa ngày càng phong phú nhưng vẫn rất thiếu những tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và sâu
sắc trong đời sống. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người Việt Nam hiện nay

lại có biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh
hướng tư tưởng trong lý luận - phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày
càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế và giao lưu văn hóa.
Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh thần ở
nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu
quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu vực,
tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
14
Nhìn chung, những hạn chế yếu kém trên về mặt văn hóa đã có những ảnh
hưởng nhất định đến giới trẻ, đặc biệt là thế hệ thanh niên. Trong môi trường bậc
Đại học, sinh viên – một bộ phận không nhỏ của thế hệ thanh niên hiện nay, đã và
đang có những biểu hiện tích cực cùng tiêu cực trong tư tưởng, cuộc sống sinh hoạt
và học tập hàng ngày. Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định,
làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích
cực, chủ động hơn. Sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán,
văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Họ có điều kiện khám phá thế
giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại, tri thức mới.
Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp
thời, như: Một bộ phận sinh viên xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Không ít người có thái độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động
giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc
cách mạng, truyền thống. Bên cạnh đó, chúng ta thấy một hiện tượng đáng báo
động của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng trong việc hội nhập, tiếp thu văn
hóa thế giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần
phong, mỹ tục của dân tộc. Không ít sinh viên đang ngày đêm cuốn vào các trò
chơi điện tử trực tuyến mang nặng tính bạo lực, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thời
gian học tập. Có những người say mê với các ấn phẩm, văn hóa phẩm không lành
mạnh, độc hại, dẫn đến những hành động suy đồi đạo đức, vi phạm pháp luật.
Mặt khác, những biểu hiện sai lệch của những người mà giới trẻ coi là thần

tượng như ca sĩ, diễn viên điện ảnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của
một số sinh viên hiện nay. Ngoài ra, ngôn ngữ dùng trong những cuộc trò chuyện
trên các trang mạng xã hội hay tin nhắn cũng bị một bộ phận học sinh, sinh viên
"biến tấu" với những từ ngữ khó hiểu, thậm chí dung tục và sử dụng một cách tràn
15
lan, khó chấp nhận, không còn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt. Thậm chí, có
những từ ngữ bị dùng sai bản chất với ngụ ý không lành mạnh.
Những thực trạng nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và
những nguyên nhân chủ quan. Trước hết, cần phải khẳng định, bản thân mỗi học
sinh, sinh viên chưa thật sự xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện, nâng cao trình
độ, học hỏi kỹ năng.
Bản lĩnh, ý thức tìm hiểu còn hạn chế của sinh viên trước những loại hình
hoạt động văn hóa, nghệ thuật khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân
đáng chú ý dẫn đến những hạn chế, yếu kém của một bộ phận bạn trẻ trong việc
tham gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thực tế cuộc sống, một số hoạt
động văn hóa, nghệ thuật không còn phù hợp với sở thích của tuổi trẻ, cho nên giới
trẻ và sinh viên phải tìm đến với những loại hình nghệ thuật du nhập từ nước ngoài.
Tuy nhiên, các loại hình này lại chưa được chọn lọc trước khi tràn lan trong xã hội.
Công tác quản lý của các ban, ngành chức năng chưa thật sự có hiệu quả trong việc
khắc phục thực trạng này.
Thực tế hiện nay ở các trường đại học, bên cạnh sự tiến bộ mạnh mẽ của văn
hóa ứng xử, vẫn còn tồn tại những hành vi ứng xử, lời nói, phong cách giao tiếp
chưa đúng mực, chưa văn hóa, nhất là ở sinh viên. Việc giáo dục đạo đức, lý tưởng
ở các đoàn thể chính trị, xã hội có nơi bị xem nhẹ, một bộ phận lớp trẻ cho là giáo
điều, khô khan. Một bộ phận nhỏ viên chức và sinh viên có biểu hiện của lối sống
thực dụng, phủ nhận những giá trị đạo đức truyền thống, vi phạm Luật Giao thông,
ứng xử chưa đúng với môi trường sư phạm, môi trường công sở, làm ảnh hưởng
đến văn hóa ứng xử trong trường.
Về mặt rộng hơn văn hóa còn bao gồm cả giáo dục và khoa học kỹ thuật.
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học,

16
công nghệ, sự bùng nổ của công nghệ thông tin thì kiến thức giáo dục là nền tảng
cơ sở nhất. Có thể nói, xã hội học tập cung cấp các điều kiện, cơ hội để mỗi người
tự nâng cao trình độ, hoàn thiện bản thân, phát huy cao độ năng lực sáng tạo để
thích ứng với những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập và
toàn cầu hóa.
Nền giáo dục trong xã hội học tập hướng vào việc xây dựng cho con người
năng lực đón nhận, xử lý, sử dụng, truyền bá… thông tin để xã hội tiến kịp sự phát
triển của tri thức nhân loại. Bên cạnh những lợi ích hết sức thiết thực mang lại từ
nền giáo dục mở, từ sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với thế giới, giới trẻ,
học sinh, sinh viên ít nhiều không tránh khỏi những tác động bởi những mặt trái
của cơ chế thị trường, của văn hóa Phương Tây, đó là tư tưởng đề cao chủ nghĩa cá
nhân, sự tha hóa về đạo đức, nhân cách, lối sống hưởng thụ, đua đòi, trụy lạc.
Việc thực hiện đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc thể hiện đối với sinh viên đại học. Trong trường học, sinh viên
được giáo dục việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, lòng yêu nước, yêu đồng bào,
tự hào dân tộc, tôn trọng giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa nhưng sinh viên bậc
đại học thường không quan tâm, học hời hợt cho qua đối với những môn học như
vậy. Đó là một trong những yếu tố tác động đến nhận thức bản sắc văn hóa của dân
tộc.
Không những thế, tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa
dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà con
người chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp.
Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia
tǎng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhât là
trong việc cưới, việc tang, lễ hội
17
Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc đang là nhiệm vụ cấp bách trong tiến trình công nghiệp hóa

và hiện đại hóa. Đó là nền tảng, là cơ sở để đất nước ta hòa nhập sâu rộng với thế
giới nhưng không hòa tan, vẫn phát huy được niềm tự hào của dân tộc, bản sắc văn
hóa riêng của con người và đất nước Việt Nam.
Tóm lại việc phát hiện những hạn chế tồn tại cũng là cơ hội để đảng tiếp tục
khắc phục những yếu kém. Đồng thơi hoàn thiện thêm đường lối của mình.
2.3 Nguyên nhân của những thành quả đạt được và những hạn chế yếu kém
cần khắc phục
2.3.1 Nguyên nhân của thành công:
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hoá một mặt chứng tỏ đường
lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích
cực, định hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hoá, xã hội, mặt khác đó
là kết quả của sự tham gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực to lớn của các lực
lượng hoạt động trên lĩnh vực văn hoá.
Việc áp dụng các thành tự khoa học kỹ thuật, biết tiếp thu vận dụng có chọn
lọc các tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo vào nền văn hóa của nước
nhà
Nhân dân ta có truyền thống đoàn kết, ham học hỏi, cần cù chịu khó, cố gắng
phấn đấu tới cùng vì mục tiêu của nước nhà.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém
2.3.2-1. Nguyên nhân khách quan
18
Do sự chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Một mặt,
chúng luôn xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác, các thế lực phản
động luôn lợi dụng sự cả tin, nhẹ dạ của một bộ phận thanh niên nhằm phục vụ âm
mưu của chúng, chúng ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng vǎn hóa nhằm
thực hiện "diễn biến hòa bình".
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ khiến một bộ phận quần chúng nhân dân cảm
thấy hoang mang, nghi ngờ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu nên nhu cầu về văn hóa - nghệ
thuật của nhân dân còn chưa được đáp ứng đầy đủ những điều kiện và phương tiện

vật chất cần thiết.
2.3.2-2. Nguyên nhân chủ quan
Phong trào quần chúng chưa được động viên, cổ vũ. Nhiều tấm gương sáng
về đạo đức chưa được tuyên dương, không phát huy được nội lực sức dân.
Đạo đức xã hội, nhân cách con người có nhiều mặt xuống cấp. Nạn tham
nhũng chưa được chặn đứng, còn phát triển, có mặt phức tạp và nghiêm trọng hơn,
gây nhức nhối. Các biểu hiện lợi ích nhóm lũng đoạn kinh tế rất đáng lo ngại, giống
như tình hình ở nhiều nước trong thời kỳ tích lũy tư bản. Điều này nếu không kịp
thời ngăn chặn, để phát triển phức tạp thì dần dần sẽ chệch hướng khỏi mục tiêu xã
hội chủ nghĩa và làm cho đất nước chìm sâu không thoát ra được. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên bị thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp. Các tệ nạn tiêu cực xảy ra ở
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả ở những nơi đáng ra phải luôn được
trang nghiêm. Từ đó làm suy sụp lòng tin của nhân dân.
19
Rất đáng lưu ý là việc hệ giá trị đạo đức bị đảo lộn về vị trí, thang bậc. Nhân
cách đáng ra phải luôn ở vị trí hàng đầu, trung tâm thì đã xuống hàng thứ yếu, sang
bên cạnh, trong khi đồng tiền lại lên ngôi, chi phối chủ yếu nhiều mặt, nhiều việc.
Vì tiền, con người đã vi phạm nhân cách, thậm chí làm nhiều việc ác có hại cho xã
hội. Mặt trái của cơ chế thị trường là khó tránh khỏi, nhưng không thể đổ lỗi cho cơ
chế ấy, bởi vì nó là vậy, có nhiều mặt tích cực, sự lựa chọn cơ chế thị trường là
đúng, và có một số mặt tiêu cực cần phải phòng tránh. Khuyết điểm đáng lưu ý là
khi bước vào kinh tế thị trường, chúng ta chưa hình dung hết, chưa lường hết sự
phức tạp, tác hại và chưa có giải pháp hữu hiệu chủ động phòng tránh để hạn chế
tác hại bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Sự tác động bởi mặt trái của cơ chế thị
trường lại trong điều kiện Đảng ta cầm quyền, cán bộ, đảng viên nhiều người có
quyền lực, được giao quản lý tất cả các mặt quan trọng của đời sống xã hội, mà bản
thân quyền lực thì tự nó sẽ làm thoái hóa nếu như không có cơ chế tốt để kiểm soát
quyền lực, để lựa chọn cán bộ có “đức trọng” mới giao “quyền cao”, để giám sát
nhân cách những người có chức có quyền, dù lớn, dù nhỏ. Khuyết điểm trong lãnh

đạo, quản lý, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, từ mặt trái của cơ chế
quyền lực là hiện hữu, trong khi cơ chế quản lý, giám sát còn nhiều sơ hở, khiếm
khuyết. Mặt khác, trách nhiệm tự rèn luyện nhân cách của từng người không
thường xuyên, không gương mẫu; cả khuyết điểm trong công tác giáo dục đạo đức,
nhân cách, công tác xây dựng Đảng.
3. Biện pháp khắc phục và phương hướng nhiệm vụ để khắc phục và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu ra các giải pháp để xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như sau:
Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa
dạng
20
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều
sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu dân
cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi
mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày
của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại.
Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng
nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục,
bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc Sớm có chiến lược
quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá
trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp,
đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình
văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị -
văn hoá của đất nước. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời
sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn
hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.

Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hoá truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời
sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng,
cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những
phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần
lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng
21
cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ
thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng
bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân
tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm
truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và
người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị
văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính
sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện
để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác
phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin,
giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì
lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn
chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp
vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà soát, sắp xếp hợp lý

mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt
động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo
hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý,
hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
22
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật,
đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất
bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch
thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu
các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt
Nam. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác
giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá
sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng
cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Trong môi trường bậc Đại học, nhóm 6 cho rằng việc đào tạo theo hệ thống
tín chỉ sẽ hình thành và rèn luyện cho người học sự hiểu biết, tâm thế chủ động điều
khiển quá trình học tập của bản thân mình. Đồng thời giúp phát huy nội lực tự học
của con người để tạo nên cuộc cách mạng về học tập. Sinh viên biết tận dụng ưu
điểm này thì việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ là giải pháp góp phần tăng cường ý
thức trách nhiệm của người học đối với việc đào tạo của bản thân mình, là thực
hiện dân chủ hoá trong giáo dục.
23
KẾT LUẬN
Như vậy, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
là một nhiệm vụ quan trọng và hàng đầu của của tất cả tầng lớp, của các thế hệ, đặc

biệt là thế hệ trẻ như sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước. Thực tế
đã có rất nhiều tấm gương sinh viên đã làm rạng danh tên tuổi của nước ta trong
thời kì hội nhập về nhều mặt như kinh tế, giáo dục, khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, cũng không phải không có một số thành phần sinh viên chưa định
hướng được giá trị trách nhiệm của mình đối với đất nước mặc dù thành phần này
chiếm một lượng không hề nhỏ trong giưới sinh viên hiện nay. Nhưng nếu họ được
tiếp cận, được hướng dẫn một cách đúng đắn thì kết quả đem lại sẽ không hề nhỏ
bởi vì Viêt Nam là một quốc gia vốn được biết đến với truyền thống nồng nàn yêu
nước, lá lành đùm lá rách. Muốn đất nước phát triển thì cần sự góp sức của cả xã
hội, người dân thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi, trong đó có sinh viên – thế hệ trí thức,
chủ nhân tương lai của đất nước.
24

×