Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Giáo trình Tâm lý học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.58 KB, 33 trang )

Tâm lý học đại cương
Bài 1: TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
I.ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC:
1. Tâm lý học là gì?
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu tâm lý. Khoa học tâm lý ra đời từ năm 1879, chủ yếu
nghiên cứu đời sống tâm hồn của con người.
2. Đối tượng của tâm lý học:
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ đời sống tâm lý của con người như: cảm
giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, tình cảm, nhu cầu, hứng thú, năng lực, khí
chất, tính cách…
II. BẢN CHẤT HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI:
1.Tâm lý có bản chất phản ánh: Tâm lý là hình ảnh của từng người về hiện thực
khách quan.
Tất cả các hiện tượng tâm lý, từ những hiện tượng tâm lý đơn giản đến những thuộc
tính, phẩm chất phức tạp của nhân cách con người đều tồn tại ở trong não dưới dạng
hình ảnh này hay hình ảnh khác với mức độ phức tạp khác nhau. Điều kiện đầu tiên để
có các hình ảnh đó là phải có các hiện tượng, sự vật khách quan của thế giới bên ngoài
tác động tới các giác quan và não bộ bình thường của con người.
Tâm lý mang tính chủ quan của từng người. Tâm lý là phản ánh tồn tại khách quan,
nhưng sự phản ánh tâm lý không máy móc, nguyên xi như phản ánh cơ học, mà tâm lý
là tổng hoà các hình ảnh chủ quan ( hình ảnh tâm lý) về tồn tại khách quan.
2. Bản chất xã hội – lịch sử của tâm lý.
Để tồn tại và phát triển, thế hệ trước đã truyền đạt kinh nghiệm xã hội- lịch sử cho thế hệ
sau. Thế hệ sau tiếp thu những kinh nghiệm và sáng tạo nên những giá trị vật chất, tinh
thần mới. Qua đó tâm lý con người được hình thành và phát triển
Con người tiếp thu nền văn minh nhân loại và biến thành tâm lý của bản thân. Tâm lý
mỗi người có cái chung của loài người, của dân tộc, của vùng, của địa phương nhưng
cũng có cái riêng của mỗi con người cụ thể.
Như vậy, mỗi người có một đời sống tâm lý riêng, một tâm hồn riêng. Tâm lý mỗi người
là kinh nghiệm xã hội- lịch sử chuyển thành kinh nghiệm của bản thân.
3. Tâm lý có bản chất phản xạ.


Tất cả các hình ảnh tâm lý, các kinh nghiệm sống bản thân đều tồn tại trong não bộ.
Nhưng không phải cứ có não là có tâm lý. Muốn có tâm lý phải có tồn tại khách quan tác
động vào não và não người phải tiếp nhận được tác động ấy.
Để tiếp nhận tác động từ bên ngoài vào, não phải hoạt động. Não hoạt động theo cơ chế
phản xạ. Phản xạ có bốn khâu: Khâu dẫn vào, khâu trung tâm, khâu dẫn ra, khâu liên hệ
ngược.
Có hai loại phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Phản xạ không
điều kiện là cơ sở sinh lý thần kinh của bản năng, phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý
của các các hoạt động tâm lý khác, đặc trưng của con người. Nhưng mỗi hiện tượng tâm
lý không phải gồm một phản xạ có điều kiện mà gồm nhiều hoặc một hệ thống phản xạ
có điều kiện.
Như vậy, muốn có tâm lý nhất thiết phải có phản xạ, đặc biệt là phản xạ có điều kiện.
Tâm lý có bản chất phản xạ.
III.CÁC LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ:
Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lý:
1. Cách phân loại phổ biến trong các tài liệu tâm lý học là việc phân loại các hiện tượng
tâm lý theo thời gian tồn tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách.
Theo cách phân loại này, các hiện tượng tâm lý có ba loại chính:
a. Các quá trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối
ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta phân biệt thành ba quá
trình tâm lý:
+. Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
+. Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó chịu…
+. Quá trình hành động ý chí.
b. Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối
dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như: chú ý, tâm trạng…
c. Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, tạo thành những
nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lý cá nhân
như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
2. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý thành: các hiện tượng tâm lý có ý thức và các

hiện tượng tâm lý chua được ý thức.
3. Người ta còn phân biệt hiện tượng tâm lý thành: hiện tượng tâm lý sống động và hiện
tượng tâm lý tiềm tàng.
4. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội.
Bài 2: Ý THỨC VÀ VÔ THỨC
I. Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Ý thức là một hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có. Đó là khả
năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà người đó đã tiếp thu được.
Có thể ví ý thức như “ cặp mắt thứ hai” soi vào kết quả (các hình ảnh tâm lý) do “cặp
mắt thứ nhất“ (cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, cảm xúc…) mang lại. Với ý nghĩa đó
có thể nói: Ý thức là tồn tại được nhận thức.
2. Đặc điểm của ý thức:
Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người đều được người đó nhận thức. Nghĩa là,
con người biết rõ mình đang làm gì, nghĩ gì, hiểu rõ hành vi của bản thân đúng hay sai,
tốt hay xấu.
Ý thức được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Con người dùng ngôn ngữ để nhận xét, đánh giá
phân tích những hiện tượng tâm lý của mình.
Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người thường bao hàm thái độ ít nhiều rõ rệt
của người ấy.
Ở mức độ cao, ý thức thường được kèm theo sự dự kiến trước, tính có chủ định… và
nhờ đó mà dẫn tới hành động.
3. Sự hình thành và phát triển ý thức:
Khác với con vật, con người không chỉ thích ứng một cách thụ động với môi trường
không chỉ lấy những gì có sẵn trong thiên nhiên mà con người chủ yếu tác động làm
biến đổi thiên nhiên để tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình. Sở dĩ con
người làm được như vậy là nhờ lao động. Lao động là một quá trình đòi hỏi con người
phải thấy trước kết quả lao động, có chương trình lao động, có phương pháp lao động,
biết phân tích đánh giá kết quả lao động. Làm như vậy, chính là ý thức. Như vậy ý thức
ra đời trong lao động.

Khi lao động cùng nhau, con người cần phải nói với nhau ý muốn của họ, xác định mục
đích của cả nhóm, cùng nhau bàn bạc… Nhờ đó làm nảy sinh ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ
con người gọi tên sự vật, hiện tượng, đánh giá hành vi, hành động của mình hay của cả
nhóm. Như vậy ngôn ngữ là một yếu tố hình thành nên ý thức.
Lao động là một dạng hoạt động tập thể. Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Vì vậy, ý thức
ngay từ đầu là sản phẩm của xã hội và luôn luôn là sản phẩm của xã hội. Cùng với lao
động và ngôn ngữ, xã hội là yếu tố hình thành nên ý thức.
Ở mỗi người, ý thức hình thành bằng hoạt động của bản thân thông qua sản phẩm của
hoạt động, trong quan hệ giữa mình và người khác và sử dụng ngôn ngữ của mình làm
công cụ.
II. VÔ THỨC:
1. Khái niệm:
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lý có ý thức, chúng ta thường gặp những
hiện tượng tâm lý chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người (người mắc
chứng mộng du, người bị thôi miên…). Hiện tượng tâm lý không ý thức, chưa nhận thức
được, trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là các hiện tượng tâm lý mà con người chưa nhận thức được, không diễn đạt
được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu.
2. Đặc điểm của vô thức:
Con người không nhận thức được các hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của
mình. Những cảm nghĩ mà con người không nhận ra được, chúng như ẩn náu trong một
“ cõi lòng” tối tăm, nhưng vẫn chi phối hành vi.
Không diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu.
Vô thức không bao hàm thái độ của con người. Lúc ở trạng thái vô thức, con người
không nhận xét, đánh giá gì về hành vi, thái độ, ngôn ngữ, cách cư xử của mình.
Vô thức thường không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ định
3. Vai trò của vô thức:
Vô thức đôi khi đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển hành vi của
con người. Qua phân tích các hành vi biểu hiện ở trạng thái vô thức giúp ta hiểu được
các hiện tượng tâm lý (thái độ, suy nghĩ, quan hệ… của con người)

Toàn bộ đời sống tâm lý trẻ từ lọt lòng đến khoảng 15 – 18 tháng tuổi do vô thức điều
khiển. Một số biểu hiện vô thức trong đời sống tâm lý của trẻ là:
+ Trẻ chưa nhận ra được sơ đồ thân thể của mình, chưa nhận biết mình đau ở đâu…
+ Chưa biết chủ động hướng âm thanh ngôn ngữ về phía người thân quen.
+ Chưa biết nhận ra mẹ, ra người thân.
+ Chưa sử dụng được âm thanh, lời nói để diễn đạt được nhu cầu sinh lý của mình.
+ Trẻ làm theo, nói theo, bắt chước hành vi của người lớn một cách không chủ định…
III. TỰ Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Tự ý thức là sự phản ánh bản thân mình theo một mẫu mực nào đó và cố gắng hoạt động
theo đúng khuôn mẫu đó.
Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi lên
ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế
và các quan hệ xã hội.
+ Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, đánh giá.
+ Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
+ Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện
2. Vai trò của tự ý thức:
Tự ý thức tạo điều kiện cho con người tự điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi, hành
động của họ.
Giúp con người xác định mục đích phù hợp, đánh giá mục đích hành động trong mối
tương quan với những đặc điểm của bản thân, lựa chọn các phương tiện, biện pháp hành
động phù hợp với khả năng, nhu cầu của bản thân.
Tự ý thức là điều kiện để con người trở thành chủ thể hành động độc lập, trở thành chủ
thể của xã hội.
Bài 3: HOẠT ĐỘNG, GIAO TIẾP VÀ NHÂN CÁCH.
I. HOẠT ĐỘNG:
1.Khái niệm về hoạt động:
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng để

tạo ra một sản phẩm tương ứng, nhằm thoả mãn (trực tiếp hay gián tiếp ) nhu cầu của
bản thân, nhóm và xã hội.
2. Cấu trúc của hoạt động:
Tất cả các hoạt động đều có một cấu trúc chung. Cấu trúc đó được nhà tâm lý học A.N
Lêônchiev mô tả như sau:
Động cơ của hoạt động là cái thúc đẩy con người hoạt động. Tuy nhiên động cơ không
hình thành rõ ngay một lúc. Động cơ thường hiện thân trong đối tượng, cùng biến động
theo đối tượng, mà lộ rõ dần dần theo tiến trình của hoạt động.
Hoạt động hợp thành bởi các hành động như là các bộ phận của hoạt động. Cái mà hành
động nhằm tới gọi là mục đích. Có thể coi động cơ là mục đích chung, còn mục đích mà
hành động nhằm tới là mục đích bộ phận. Có thể coi mục đích chung là động cơ xa và
mục đích bộ phận là động cơ gần.
Hành động bao giờ cũng để giải quyết một nhiệm vụ nhằm đạt tới mục đích đề ra trong
những điều kiện cụ thể nhất định, tức là mục đích bộ phận phải được cụ thể hoá thêm
một bước nữa, sự cụ thể hoá này được quy định bởi những điều kiện cụ thể nơi diễn ra
hành động. Nói cách khác là hành động của chủ thể phải hành động theo một cách nào
đó ứng với phương tiện tức là thao tác.
3. Phân loại hoạt động:
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
a. Xét về phương diện phát triển cá thể, ta thấy trong đời người có bốn loại hình
hoạt động kế tiếp nhau:
Hoạt động vui chơi
Hoạt động học tập
Hoạt động lao động
Hoạt động nghỉ ngơi
Đối với sự phát triển của từng con người cụ thể, trong mỗi giai đoạn hoặc thời kỳ phát
triển của nhân cách con người, tuy có nhiều loại hình hoạt động trong đó vẫn có một
(hoặc có thể nhiều hơn ) hoạt động đóng vai trò chủ đạo.
b. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần ) người ta chia thành hai
loại hoạt động:

Hoạt động thực tiễn
Hoạt động lý luận
c. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành bốn loại:
Hoạt động biến đổi
Hoạt động nhận thức
Hoạt động định hướng giá trị
Hoạt động giao lưu
II. GIAO TIẾP:
1. Khái niệm giao tiếp:
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con người và con người nhằm mục đích
trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, hoàn
thiện nhân cách bản thân.
Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người, là phương tiện cơ bản để hình
thành nhân cách trẻ.
2. Chức năng của giao tiếp:
Chức năng thông báo, định hướng: Qua quá trình giao tiếp, con người thông báo
cho nhau thông tin, tư tưởng, tình cảm… giúp con người định hướng hoạt động của
mình.
Chức năng điều khiển, điều chỉnh: Qua tiếp xúc, trao đổi thông tin, tư tưởng, tình
cảm, thái độ… con người điều khiển, điều chỉnh hành vi, thái độ, hành động của mình
cho phù hợp yêu cầu hoạt động.
Chức năng liên kết (nối mạch, tiếp xúc ): Nhờ có giao tiếp con người hợp đồng
được cùng nhau để làm việc cùng nhau.
Chức năng đồng nhất: Qua giao tiếp, cá nhân sẽ hoà nhập vào trong các nhóm xã
hội.
3. Các loại giao tiếp:
Có nhiều cách phân loại giao tiếp:
a. Theo phương tiện giao tiếp, có thể có ba loại giao tiếp sau:
Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
Giao tiếp bằng tín hiệu: là loại giao tiếp bằng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt…

Giao tiếp bằng ngôn ngữ:đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người, xác lập và
vận hành mối quan hệ người – người trong xã hội.
b. Theo khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu với
nhau.
Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, báo chí truyền hình…
c. Qua quy cách, người ta chia hai loại giao tiếp:
Giao tiếp chính thức: giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức trách, quy
định, thể chế.
Giao tiếp không chính thức: giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ về nhau, không câu
nệ thể thức, mà theo kiểu thân tình, nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với
nhau.
Các loại quan hệ trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao
tiếp của con người vô cùng đa dạng, phong phú.
III. HÀNH VI:
1. Khái niệm hành vi:
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng chỉ tiến hành hoạt động, hành
động với ý thức, mục đích động cơ rõ rệt, con người còn có những hành động mà sự
tham gia của ý thức không rõ rệt hoặc không có ý thức tham gia. Đó là những hành động
bản năng và hành động tự động hoá. Những hành động này ta có thể gọi là hành vi.
Hành vi là toàn bộ những cử chỉ, phản ứng, thao tác trả lời đáp ứng những yêu cầu tác
động của thế giới khách quan hoặc do nhu cầu của con người.
2. Phân loại hành vi:
Theo lịch sử tiến hoá có ba loại hành vi:
a. Hành vi bản năng:
Bản năng là hành vi bẩm sinh, sản phẩm của sự phát triển chủng loại di truyền có cơ chế
sinh lý là phản xạ không điều kiện hoặc chuỗi phản xạ không điều kiện.
Bản năng xuất phát trực tiếp cơ thể và trực tiếp thoả mãn nhu cầu cơ thể. Nhờ bản năng,
mỗi thế hệ không cần được huấn luyện đặc biệt nào vẫn có thể làm được những cái tổ
tiên đã làm.

Ở động vật và trẻ mới sinh bản năng bị chi phối bởi vô thức. Nhưng với người trưởng
thành, do giáo dục, rèn luyện, bản năng con người mang đặc điểm lịch sử loài người,
mang tính chất xã hội.
b. Hành vi kỹ xảo:
Kỹ xảo là các thao tác hành động, cơ thể tự tạo nên bằng cách luyện tập, lặp đi lặp lại
nhiều lần đến mức thuần thục.
Cơ sở sinh lý của kỹ xảo là các phản xạ có điều kiện. Các kỹ xảo được hình thành ở tất
cả các động vật. Tuy nhiên ở người kỹ xảo chứa đựng nhiều yếu tố trí tuệ hơn và quá
trình luyện tập để hình thành kỹ xảo ở người có sự tham gia của ý chí và ý thức với mức
độ khác nhau.
c. Hành vi trí tuệ:
Hành vi trí tuệ là hành vi đặc trưng cho các động vật bậc cao. Hành vi trí tuệ là kiểu
hành vi mềm dẻo và hợp lý nhất trong những điều kiện sống luôn biến đổi.
IV. NHÂN CÁCH:
1. Khái niệm về nhân cách:
Nhân cách là tổng hoà những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý được nảy sinh hình
thành và phát triển trong các mối quan hệ xã hội. Mỗi con người có nhân cách là thành
viên của các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối của các mối quan hệ đó.
2. Cấu trúc tâm lý của nhân cách:
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc tâm lý của nhân cách. Ở đây chúng ta xem
xét cấu trúc tâm lý của nhân cách theo quan điểm coi nhân cách gồm có các thành tố
sau:
a. Tính cách và khí chất:
Tính cách:
Tính cách là thái độ của con người, thể hiện mối quan hệ của người đó đối với thế giới
xung quanh, biểu lộ ra bên ngoài bằng những phương thức hành vi quen thuộc.
Tính cách của con người là một chỉnh thể không thể chia cắt, ta có thể xem xét tính cách
qua những biểu hiện đặc trưng từng mặt được gọi là những nét tính cách như:
Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với xã hội, đối với nhóm và
những người xung quanh. Ví dụ: Tinh thần giúp đỡ bạn bè, lòng nhân ái, tính cởi mở …

Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với lao động. Ví dụ: Yêu lao
động, tính kỷ luật, tinh thần tiết kiệm…
Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với chính mình. Ví dụ: Tính
khiêm tốn, tự trọng, tự ti…
Những nét tính cách biểu hiện ý chí của con người. Ví dụ: Tính mục đích, tính độc lập,
tính tự kiềm chế…
Khi xem xét, đánh giá tính cách của trẻ, giáo viên cần chú đến từng nét tính cách trong
mối quan hệ lẫn nhau.
Khí chất:
Khí chất là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ, nhịp độ
của các hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá
nhân.
Các kiểu khí chất:
+ Kiểu khí chất linh hoạt: Những trẻ thuộc loại khí chất này thường năng động, linh
hoạt, ham thích tìm tòi cái mới. Các em thường nhạy cảm, vui vẻ, nhưng xúc cảm không
bền vững, sâu sắc. Các em dễ tiếp xúc, dễ hoà nhập vào nhóm bạn, dễ tiếp thu cái mới
nhưng cũng dễ di chuyển chú ý, chóng quên, khó ngồi yên một chỗ. Nếu có phương
pháp giáo dục thích hợp thì trẻ sẽ hăng say học tập, có lòng vị tha, quan tâm bạn bè…
ngược lại, nếu phương pháp giáo dục không tốt trẻ sẽ dễ bị nhẹ dạ, nông nổi, vô tâm,
không thực hiện công việc đến nơi đến chốn…
+ Kiểu khí chất bình thản: Trẻ thuộc loại này thường điềm tĩnh, chậm chạp, không hiếu
động, khó quen với hoàn cảnh mới. Trong vui chơi, sinh hoạt thường kiên trì, cố gắng
hoàn thành công việc. Nếu biết động viên, lôi kéo trẻ vào hoạt động của nhóm thì sẽ dễ
hình thành những nét tính cách tốt như chuyên cần, kiên trì, chắc chắn. Ngược lại sẽ dễ
phát triển tính ỳ, thụ động, thờ ơ, lãnh đạm…
+ Kiểu khí chất nóng nảy: Trẻ thuộc loại này thường dễ xúc động, hành động nhanh
nhưng không bền vững. Xúc cảm mạnh, dễ thay đổi, dễ cáu, tính tình nóng nảy. Nếu
giáo viên nhẹ nhàng, tế nhị, không quát tháo, trẻ sẽ nhiệt tình, hăng say, có sáng kiến.
Ngược lại, trẻ dễ thô lỗ, cục cằn, dễ bị kích động.
+ Kiểu khí chất ưu tư: Trẻ thuộc loại này các quá trình tâm lý diễn ra chậm chạp, khó

đáp ứng với những kích thích mạnh, kéo dài, khó thích nghi với môi trường mới. Trẻ dễ
lo sợ, xúc cảm xuất hiện muộn nhưng sâu sắc, bền vững. Nếu giáo viên tế nhị, luôn động
viên, khuyến khích trẻ sẽ tạo cho trẻ tính kiên trì, tế nhị, nhạy cảm. Ngược lại sẽ làm trẻ
nhút nhát, xa lánh bạn bè.
Bốn kiểu khí chất trên không có kiểu nào là tốt và xấu, mỗi kiểu đều có mặt tích cực và
tiêu cực. Dù trẻ thuộc bất kỳ kiểu khí chất nào, ta đều có thể giáo dục, hình thành ở trẻ
những nét tính cách tích cực, những phẩm chất tốt của nhân cách.
b. Xu hướng và năng lực:
Xu hướng:
Xu hướng xác định mục đích mà cá nhân hướng tới, xác định động cơ tương ứng với
hoạt động của con người.
Các mặt biểu hiện của xu hướng:
+ Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với
hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà cá nhân cần thoả mãn để tồn tại và phát triển.
+ Hứng thú: Là thái độ đặc biệt của cá nhân với một đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa
đối với cuộc sống, vừa mang lại một khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
+ Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình
thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc
sống của cá nhân trong thời gian tương đối lâu dài vào hoạt động nhằm vươn tới mục
tiêu cao đẹp đó.
+ Thế giới quan: Là hệ thống quan điểm của mỗi người về thế giới.
Niềm tin: Là cái kết tinh, đọng lại thành chân lý vững bền, không thay đổi trong nhận
thức và tình cảm của mỗi người.
Năng lực:
Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá nhân đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động nhất
định nào đó và là điều kiện để thực hiện có kết quả hoạt động đó.
Tiền đề tự nhiên của sự phát triển năng lực gọi là tư chất.
Sự xuất hiện sớm (lúc tuổi còn nhỏ ) của năng lực ở mức độ cao gọi là năng khiếu.
3. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách:
a. Yếu tố bẩm sinh di truyền:

Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của
não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan…Những yếu tố này sinh ra đã có do được
bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh ).
Các yếu tố bẩm sinh, di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên trong sự phát triển nhân
cách.
b. Môi trường:
Môi trường tự nhiên và xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân cách trẻ.
Môi trường xã hội bao gồm: môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá … có vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển nhân cách.
Đối với trẻ em, môi trường gia đình, nhà trường, bạn bè, hàng xóm và những phương
tiện thông tin đại chúng… có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đối với sự phát triển nhân
cách các em.
Giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội nếu được tổ chức đúng đắn, có cơ sở khoa
học, đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách trẻ.
Tuy nhiên nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi,
cách xử sự của người lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những
phẩm chất và năng lực của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ chức và
lôi kéo trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành và phát triển nhân
cách trẻ.
Bài 4 : CHÚ Ý
I. KHÁI NIỆM VỀ CHÚ Ý:
1. Định nghĩa chú ý :
Chú ý là sự tập trung vào một hay một nhóm đối tượng, sự vật nào đó để định hướng
hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có kết
quả.
2. Vai trò của chú ý :
Chú ý là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động. Do tính chọn lọc của chú ý, nên nó
giúp cho hoạt động tâm lý ở người tập trung vào đối tượng này mà bỏ qua hoặc xao lãng
đối tượng khác. Nhờ vậy, hoạt động tâm lý có ý thức hơn, các hoạt động tập trung hơn,
kết quả hoạt động sẽ cao hơn.

II. PHÂN LOẠI CHÚ Ý: Có 3 loại chú ý:
1. Chú ý không chủ định:
Là loại chú ý không có mục đích đặt ra trước, không cần sự nỗ lực của bản thân. Chú ý
không chủ định chủ yếu do tác động bên ngoài gây ra, phụ thuộc vào đặc điểm của vật
kích thích như :
Độ mới lạ của kích thích.
Cường độ kích thích.
Độ hấp dẫn của kích thích.
Loại kích thích này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng nhưng kém bền vững, khó duy trì
lâu.
2. Chú ý có chủ định :
Là loại chú ý có mục đích định trước và phải có sự nỗ lực của bản thân. Do đã xác định
mục đích của hoạt động nên chủ thể vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động, vẫn tiến
hành hoạt động không phụ thuộc vào các đặc điểm của kích thích.
3. Chú ý sau chủ định :
Là chú ý lúc đầu do mục đích định trước, về sao do hứng thú với hoạt động mà chú ý có
chủ định đã phát triển đến mức chủ thể không cần nỗ lực ý chí vẫn tập trung vào đối
tượng hoạt động.
Loại chú ý này giúp cho hoạt động của con người giảm được căng thẳng thần kinh, giảm
được tiêu hao năng lượng. Nó bộc lộ ở trạng thái say sưa công việc của con người.
III. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý:
1. Sức tập trung của chú ý : Là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối
hẹp, cần thiết cho hoạt động lúc đó và không để ý đến mọi chuyện khác. Số lượng các
đối tượng mà chú ý hướng tới gọi là khối lượng chú ý.
2. Cường độ của chú ý : Là sự tiêu hao năng lượng thần kinh để thực hiện hoạt động.
3. Sự bền vững của chú ý : Là khả năng duy trì lâu dài chú ý vào một hoặc một số đối
tượng. Ngược với tính bền vững của chú ý là sự phân tán chú ý. Tính bền vững của chú
ý có liên quan mật thiết với những điều kiện khách quan của hoạt động và những đặc
điểm của mỗi cá nhân.
4.Sự di chuyển chú ý : Là khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng

khác.
5. Sự phân phối chú ý : Là khả năng chú ý đồng thời tới một số đối tượng với mức độ rõ
ràng như nhau.
Bài 5: NGÔN NGỮ
I. KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ:
Cần phân biệt khái niệm ngữ ngôn và ngôn ngữ.
1. Ngữ ngôn:
Ngữ ngôn là một thứ tiếng của một dân tộc. Ngữ ngôn bao gồm một hệ thống các ký
hiệu, từ, ngữ và hệ thống các quy tắc ngữ pháp. Ngữ ngôn là đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ học.
2. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn để giao tiếp, để truyền đạt
để lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử, hoặc để kế hoạch hoá hoạt động của
mình. Ngôn ngữ là đối tượng của tâm lý học.
Như vậy, ngữ ngôn là phương tiện hay công cụ để giao tiếp, truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm… còn ngôn ngữ chính là quá trình sử dụng ngữ ngôn để giao tiếp, truyền đạt,
lĩnh hội kinh nghiệm.
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ:
Ngôn ngữ có bốn chức năng cơ bản là:
Chức năng chỉ nghĩa:
Là quá trình dùng một từ, một câu để chỉ một nghĩa nào đó, tức là quá trình gắn từ đó,
câu đó… với một sự vật hiện tượng.
Chức năng chỉ ý:
Mỗi từ, câu… có chức năng chỉ “nghĩa” của nó đối với riêng người nói từ ấy, câu ấy, tức
là chúng có ý riêng của từng người.
Chức năng thông báo:
Mỗi quá trình ngôn ngữ đều chứa đựng một nội dung thông tin, sự biểu cảm dùng để
truyền đạt từ người này đến người kia, hay tự nói với bản thân mình.
Chức năng điều khiển, điều chỉnh:
Ngôn ngữ có chức năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ của các hoạt động (trong đó

có hoạt động trí tuệ). Nó bao gồm kế hoạch hoá hoạt động, thực hiện hoạt động và đối
chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đề ra.
III. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ:
Có nhiều cách phân chia các loại ngôn ngữ. Thông thường, người ta đề cập đến hai dạng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ bên ngoài, ngôn ngữ bên trong.
1. Ngôn ngữ bên ngoài:
Ngôn ngữ bên ngoài là ngôn ngữ chủ yếu hướng vào người khác, nhằm mục đích giao
tiếp. Ngôn ngữ bên ngoài bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ nói: là thứ ngôn ngữ có trước. Ngôn ngữ nói biểu hiện bằng âm thanh và được
tiếp thu bằng cơ quan thính giác. Có hai loại ngôn ngữ nói: ngôn ngữ đối thoại và ngôn
ngữ độc thoại.
Ngôn ngữ đối thoại nhằm trao đổi thông tin giữa hai hay một số người với nhau. Ngôn
ngữ độc thoại là loại ngôn ngữ trong đó một người nói và những người khác nghe.
Ngôn ngữ viết: ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ
được biểu hiện bằng ký hiệu, tín hiệu, chữ viết.
2. Ngôn ngữ bên trong:
Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn ngữ bên
trong là vỏ từ ngữ của tư duy, của ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự điều chỉnh
mình. Ngôn ngữ bên trong có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm không phát ra âm thanh
hoặc ngôn ngữ bên trong thực sự dành cho bản thân.
BÀI 6: NHẬN THỨC CẢM TÍNH
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên bao gồm cảm giác và tri giác.
I. ĐỊNH NGHĨA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Cảm giác:
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật,
hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan.
2. Tri giác:
Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật hiện
tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:

1. Đặc điểm của cảm giác:
Là quá trình tâm lý, cảm giác có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng.
Cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật hiện tượng thông
qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ.
Cảm giác xảy ra khi sự ,vật hiện tượng trực tiếp tác động lên giác quan.
Cảm giác của con người mang bản chất xã hội.
2. Đặc điểm của tri giác:
Tri giác là sự phản ánh thế giới một cách trọn vẹn, chỉnh thể.
Tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở các cảm giác, nhưng tri giác không phải
là sự cộng lại đơn giản của các cảm giác tạo thành, mà là sự tổng hợp các thuộc tính của
sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình tri giác có sự tham gia của vốn sống, kinh nghiệm, tư duy, ngôn ngữ và
nhiều chức năng tâm lý khác.
III. PHÂN LOẠI CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Các loại cảm giác:
Có nhiều cách phân loại cảm giác, dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau. Nếu phân loại
dựa trên vị trí của nguồn kích thích nằm bên ngoài hay bên trong cơ thể ta có hai nhóm
cảm giác: cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong.
Cảm giác bên ngoài do những kích thích bên ngoài gây nên: cảm giác nhìn, cảm giác
nghe, cảm giác ngửi, cảm giác nếm, cảm giác da.
Cảm giác bên trong gồm: cảm giác cơ thể, cảm giác vận động, cảm giác thăng bằng.
2. Các loại tri giác:
Có nhiều cách phân loại tri giác:
Dựa trên bộ máy phân tích giữ vai trò chính, trực tiếp nhất tham gia vào quá trình tri
giác, có thể chia thành: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác ngửi, tri giác sờ mó…
Dựa vào sự phản ánh những hình thức tồn tại khác nhau của sự vật hiện tượng trong thế
giới, có các loại tri giác: tri giác các thuộc tính không gian của đối tượng, tri giác các
thuộc tính thời gian của đối tượng, tri giác sự chuyển động.
IV. VAI TRÒ CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
Là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất định trong hoạt động

nhận thức và toàn bộ đời sống con người.
Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và thế giới xung quanh. Nhờ mối liên hệ đó
mà cơ thể có khả năng định hướng và thích nghi với môi trường.
Cảm giác giúp con người thu nhận nguồn tài liệu trực quan sinh động, cung cấp nguyên
liệu cho các hoạt động tâm lý cao hơn.
Tri giác giúp con người định hướng nhanh chóng và chính xác hơn, giúp con người điều
chỉnh một cách hợp lý hoạt động của mình trong thế giới, giúp con người phản ánh thế
giới có lựa chọn và có tính ý nghĩa.
Trong giáo dục trẻ tuổi mầm non, cảm giác và tri giác có vai trò quan trọng. Trẻ em ở
lứa tuổi này nhận thức thế giới chủ yếu thông qua cảm giác và tri giác. Ở lứa tuổi này
nhận thức cảm tính chiếm ưu thế. Những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp được
xem như là một trong những cơ sở của nguyên tắc trực quan trong giáo dục trẻ mầm
non.
V. TÍNH NHẠY CẢM VÀ NĂNG LỰC QUAN SÁT:
Tính nhạy cảm là năng lực cảm giác nhạy bén, tinh vi, chính xác của con người. Tính
nhạy cảm của con người không như nhau.
Năng lực cảm giác chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, trước hết là các đặc điểm cấu tạo
và chức năng của các giác quan, kiểu loại thần kinh… Song, năng lực cảm giác của con
người không hoàn toàn bẩm sinh mà được hình thành phát và triển trong hoạt động, phụ
thuộc vào việc rèn luyện và giáo dục. Năng lực cảm giác chịu sự chi phối bởi nhiều
phẩm chất tâm lý của nhân cách: nhu cầu, hứng thú, khả năng chú ý, xu hướng, vốn kinh
nghiệm… năng lực cảm giác là nhân tố chủ yếu của năng lực quan sát.
Quan sát là loại tri giác có chủ định, diễn ra tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh
đầy đủ, rõ rệt các sự vật hiện tượng và những biến đổi của chúng. Năng lực quan sát của
mỗi người một khác. Đó là khả năng tri giác nhanh chóng và chính xác. Năng lực quan
sát được hình thành trong cuộc sống, do hoạt động, do luyện tập tích cực và có phương
pháp.
Bài 7: TRÍ NHỚ
I. KHÁI NIỆM TRÍ NHỚ:
1. Trí nhớ là gì?

Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của con người dưới hình thức biểu
tượng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải
qua.
2.Vai trò của trí nhớ:
Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người. Không
có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất cứ một
hoạt động nào, không thể phát triển tâm lý, nhân cách con người.
II. CÁC QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ:
1. Quá trình ghi nhớ:
Ghi nhớ là khâu đầu tiên của hoạt động trí nhớ. Đó là quá trình tạo nên dấu vết của đối
tượng trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình gắn tài liệu mới vào chuỗi kinh nghiệm đã
có của bản thân.
Có nhiều hình thức ghi nhớ Căn cứ vào mục đích của ghi nhớ ta có thể có ghi nhớ
không chủ định và ghi nhớ có chủ định.
Ghi nhớ không chủ định: Là loại ghi nhớ không cần phải đặt ra mục đích ghi nhớ từ
trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc dùng một cách thức nào để ghi nhớ, tài liệu
được ghi nhớ một cách tự nhiên.
Ghi nhớ có chủ định: Là loại ghi nhớ theo một mục đích đã định từ trước, đòi hỏi nỗ lực
ý chí, lựa chọn các biện pháp, thủ thuật để ghi nhớ.
Có hai cách ghi nhớ có chủ định:
Ghi nhớ máy móc: Là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu nhiều lần một cách
đơn giản, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu cần ghi nhớ không cần
hiểu nội dung tài liệu đó.
Ghi nhớ ý nghĩa: Là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu, trên sự nhận
thức những mối liên hệ lôgíc giữa các bộ phận của tài liệu đó.
2. Quá trình giữ gìn:
Là quá trình lưu giữ những thông tin đã ghi nhớ bằng cách củng cố những dấu vết đã
hình thành trên vỏ não.
Có hai hình thức giữ gìn là giữ gìn tiêu cực và giữ gìn tích cực.
Giữ gìn tiêu cực: Là sự giữ gìn dựa trên sự tri giác lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn

giản, thụ động tài liệu cần ghi nhớ.
Giữ gìn tích cực: Là sự giữ gìn bằng cách nhớ lại trong óc tài liệu đã ghi nhớ, không cần
tri giác tài liệu đó.
3. Quá trình nhận lại và nhớ lại:
Nhận lại: Là khả năng nhận ra đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó.
Nhớ lại: Là khả năng làm sống lại những hình ảnh sự vật, hiện tượng đã được ghi nhớ
trước đây trong não, khi sự vật hiện tượng không còn ở trước mắt.
Nhận lại và nhớ lại đều có thể không chủ định và có chủ định.
4. Quên:
Quên là biểu hiện của sự không nhận lại hay nhớ lại được hoặc là nhận lại hay nhớ lại
sai.
Trong một số trường hợp sự quên là cần thiết. Về một mặt nào đó quên là hiện tượng
hợp lý và có ích.
III. CÁC LOẠI TRÍ NHỚ:
Có nhiều căn cứ để phân loại trí nhớ.
Căn cứ vào nội dung phản ánh trong trí nhớ, người ta chia trí nhớ thành: Trí nhớ vận
động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh và trí nhớ từ ngữ lôgíc.
Căn cứ vào tính chất mục đích của hoạt động trí nhớ được chia thành: Trí nhớ không chủ
định và trí nhớ có chủ định.
Căn cứ vào thời gian củng cố và giữ gìn tài liệu mà phân biệt trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ
dài hạn.
Căn cứ vào sự ưu thế, chủ đạo của giác quan nào trong trí nhớ mà người ta có thể chia ra
thành trí nhớ bằng mắt, trí nhớ bằng tai, trí nhớ bằng tay…
Tất cả các loại trí nhớ có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo nên một thể thống nhất
trong kho tàng trí nhớ của con người.
BÀI 8: NHẬN THỨC LÝ TÍNH
Muốn cải tạo thế giới, con người phải đạt tới mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm
tính đó là nhận thức lý tính (bao gồm tư duy và tưởng tượng)
I. TƯ DUY:
1. Khái niệm:

Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh một cách gián tiếp, khái quát những thuộc tính
bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng mà
trước đó ta chưa biết.
2. Đặc điểm của tư duy:
A. Tính có vấn đề của tư duy:
Khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà vốn hiểu biết cũ, phương pháp hành
động đã biết của con người không đủ để giải quyết, lúc đó con người rơi vào “ hoàn
cảnh có vấn đề “. Khi đó con người phải tư duy.
B. Tính khái quát của tư duy:
Tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có
tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng.
C. Tính gián tiếp của tư duy:
Trong tư duy, con người phản ánh thế giới một cách gián tiếp – phản ánh bằng ngôn
ngữ.
D. Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà con người nhận thức được hoàn
cảnh có vấn đề, đặt ra được vấn đề cần giải quyết, nhờ ngôn ngữ mà con người tiến hành
các thao tác tư duy. Sản phẩm của tư duy là các khái niệm, phán đoán, suy nghĩ được
biểu đạt bằng từ ngữ.
E. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính:
Tư duy và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau
trong hoạt động nhận thức thống nhất. Tư duy thường được bắt đầu từ nhận thức cảm
tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh hoàn cảnh có vấn đề. Trong quá trình
diễn biến, tư duy phải sử dụng nguồn tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Ngược lại,
tư duy và những kết quả của nó chi phối khả năng phản ánh của cảm giác và tri giác làm
cho khả năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy bén hơn, làm cho tri giác của con
người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
3. Các loại tư duy:
Có nhiều cách phân loại tư duy. Nếu xét về phương diện hình thành và phát triển tư duy
thì có thể chia thành ba loại tư duy:

Tư duy trực quan - hành động là tư duy bằng các thao tác cụ thể tay chân, hướng vào
việc giải quyết một số tình huống cụ thể, trực quan.
Tư duy trực quan - hình ảnh là loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa vào các hình
ảnh của sự vật, hiện tượng.
Tư duy trừu tượng (tư duy ngôn ngữ – lôgíc) là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất,
chỉ có ở con người. Đó là loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm,
các mối quan hệ lôgíc và gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện.
Ba loại tư duy trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chi phối Lẫn nhau,
trong đó tư duy trực quan – hành động, tư duy trực quan – hình ảnh là hai loại tư duy có
trước, làm cơ sở cho tư duy trừu tượng.
4. Các thao tác tư duy:
Quá trình tư duy được diễn ra bằng cách chủ thể tiến hành các thao tác nhất định. Có các
thao tác sau:
Phân tích và tổng hợp:
Phân tích là dùng hoạt động trí óc tách đối tượng tư duy thành những thuộc tính, những
bộ phận, những mối liên hệ, quan hệ để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn.
Tổng hợp là dùng trí óc đưa những thuộc tính, những thành phần đã được phân tích
thành một chỉnh thể, giúp ta nhận thức đối tượng bao quát hơn.
Phân tích và tổng hợp quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau.
So sánh:
So sánh là dùng trí óc để xác định sự giống nhau, khác nhau giữa các sự vật hiện tượng (

×