Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

cải cách hành chính tại ủy ban nhân dân phường thuộc thành phố hà nội (qua thực tiễn tại ủy ban nhân dân phường thổ quan - quận đống đa - thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.78 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 8
1.1. Cơ sở khách quan dẫn tới phải cải cách hành chính 8
1.1.1. Thực trạng nền hành chính nhà nước 8
1.1.2. Khủng hoảng kinh tế 10
1.1.3. Đòi hỏi của người dân trong xã hội dân chủ 10
1.1.4. Do sự phát triển của khoa học công nghệ 11
1.1.5. Xu hướng toàn cầu hóa 12
1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính 13
1.2.1. Mục tiêu chung 13
1.2.2. Các mục tiêu cụ thể 14
1.3. Các nội dung của cải cách hành chính 15
1.3.1. Cải cách thể chế hành chính nhà nước 15
1.3.2. Cải cách thủ tục hành chính 15
1.3.3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước 16
1.3.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức
18
1.3.5. Cải cách tài chính công 19
1.3.6. Hiện đại hóa hành chính 19
1
1.3.7. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân
dân, huy động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội
vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước


20
1.4. Cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân phường 21
1.4.1. Vị trí của Ủy ban nhân dân phường 21
1.4.2. Ý nghĩa của cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân phường 23
1.4.3. Nội dung cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân phường 25
Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN PHƯỜNG THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
31
2.1. Tổng quan về thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân phường
thuộc thành phố Hà Nội
31
2.1.1. Thành phố Hà Nội 31
2.1.2. Ủy ban nhân dân phường thuộc thành phố Hà Nội 32
2.2. Cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân phường 40
2.2.1. Một số kết quả cải cách hành chính nói chung tại Ủy ban nhân
dân phường
40
2.2.2. Cải cách hành chính tại phường Thổ Quan 45
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
56
3.1. Định hướng, quan điểm chung về cải cách hành chính 56
3.1.1. Định hướng của Đảng về cải cách hành chính 56
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính tại Ủy
ban nhân dân phường
59
3.2.1. Về cải cách thể chế 59
3.2.2. Cải cách tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân phường theo
chế độ thủ trưởng hành chính

65
3.2.3. Cải cách nguồn nhân lực 68
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCHC : Cải cách hành chính
HĐND : Hội đồng nhân dân
QLNN : Quản lý nhà nước
TTHC : Thủ tục hành chính
UBND : Ủy ban nhân dân
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 Các lĩnh vực cần phải thực hiện TTHC ở cấp xã, phường
trên địa bàn thành phố Hà Nội
26
2.1 Trình độ văn hóa 43
2.2 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ 43
2.3 Trình độ lý luận chính trị 43
2.4 Trình độ quản lý hành chính nhà nước 43
2.5 Trình độ tin học 44
2.6 Trình độ cán bộ phường Thổ Quan 46
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ máy hành chính nhà nước trực tiếp thực thi quyền hành pháp, tổ
chức và điều hành mọi hoạt động trong đời sống xã hội theo pháp luật. Đó là

bộ phận năng động nhất và thực hiện trực tiếp nhất chức năng quản lý nhà
nước (QLNN). Do đó, cải cách hành chính (CCHC) được coi là nội dung
trọng tâm trong cải cách bộ máy nhà nước của hầu hết các nước trên thế giới.
Trong quá trình phát triển của đất nước, cùng với việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu về kinh tế - xã hội thì công tác CCHC luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm và được Đảng và Nhà nước ta coi như một giải pháp tiên quyết để
thực hiện thắng lợi những mục tiêu về kinh tế - xã hội. Ở nước ta, từ sau Đại
hội Đảng lần thứ VI(1986), đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác
định phải cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lý. Tại Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng (1986) xác định cần thực hiện cải cách về tổ chức bộ
máy của các cơ quan nhà nước theo phương hướng: "Bảo đảm hiệu lực quản
lý tập trung thống nhất của trung ương trong những vấn đề có tầm quan trọng
đối với cả nước; đồng thời bảo đảm quyền chủ động của các cấp địa phương
trong việc quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn lãnh thổ" [714, tr. 12]. Từ đó,
tiến trình CCHC nhà nước được cụ thể hóa trong nhiều văn bản tiếp theo của
Đảng và Nhà nước.
Trên mỗi bước phát triển của đất nước, chúng ta đều nhận thấy được
tầm quan trọng của CCHC và ý nghĩa của quá trình cải cách trong thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội. Từ Nghị quyết số 38/CP ngày 04/05/1994 về cải cách
một bước thủ tục hành chính (TTHC) đã chỉ ra mục tiêu đó là hướng đến việc
giải quyết tốt hơn các công việc của công dân, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng
doanh nghiệp. Đến Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001 -
5
2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001
của Thủ tướng Chính phủ cũng xác định phải đẩy mạnh cải cách với mục tiêu
cơ bản là:
Bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải
quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị
lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách trên tất cả

các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm định, giám định [ 4].
Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng là lúc mở ra những cơ hội và thách
thức không nhỏ cho nền hành chính nước nhà. Vì thế, yêu cầu về cải cách
càng trở nên bức thiết hơn lúc nào hết nhằm theo kịp sự phát triển của thế
giới. Bởi thế, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X ngày 01/08/2007 về tiếp tục
đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước
đã khẳng định một lần nữa: Phải tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho
mọi hoạt động của người dân và doanh nghiệp, phải tiến hành rà soát các thủ
tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, những quy định
sai trái, không phù hợp và nguyên nhân cụ thể để kiên quyết sửa đổi [ 18].
Cải cách TTHC lúc này đã được xác định là khâu đột phá để tạo ra một
sự thay đổi lớn trong hoạt động QLNN, điều này đã cho thấy được quyết tâm lớn
phải cải cách TTHC của Đảng và Nhà nước ta. Do đó, cùng với việc thực hiện
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, việc cải cách
TTHC đã gắn với cơ chế "một cửa" trên phạm vi toàn quốc, ngày 10-1-2007,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực QLNN giai đoạn 2007 - 2010 (gọi tắt là
Đề án 30), nhằm vừa tuân thủ cam kết của Việt Nam với Tổ chức Thương mại
Thế giới mà vừa để xây dựng một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp,
6
hiệu quả, có hiệu suất cao, góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí và
đem lại cho nhân dân một sự phục vụ tốt hơn.
Trong bộ máy nhà nước chính quyền cơ sở là cầu nối giữa Nhà nước,
các tổ chức và cá nhân tại cơ sở, đại diện cho Nhà nước, nhân danh Nhà nước
để thực thi quyền lực nhà nước, triển khai, tổ chức thực hiện những chủ
trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Chính quyền
cấp xã hiện nay về cơ bản đã thể hiện được vai trò của mình tại cấp cơ sở, tuy

nhiên vẫn còn nhiều bất cập về năng lực, trình độ, thái độ trong mối quan hệ với
các tổ chức, công dân làm giảm niềm tin của công dân vào chính quyền. Để thực
hiện tốt chức năng của chính quyền, hiện đang có những cải cách căn bản về
tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, đặc biệt là Nghị quyết số 17-NQ/TW
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ngày l tháng 8
năm 2007 về ''Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý bộ máy nhà nước''. Các địa phương đang tiếp tục triển khai thực hiện đề án
thí điểm bỏ Hội đồng nhân dân (HĐND) huyện, quận và phường. Trong đó,
cơ sở thực hiện thí điểm căn cứ vào sự khác biệt giữa quản lý tại địa bàn nông
thôn và đô thị. Những cải cách về tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nói
chung và chính quyền địa phương cơ sở nói riêng đã bước đầu mang lại hiệu
quả thiết thực.
Hà Nội là thủ đô của cả nước, trung tâm văn hóa - chính trị - xã hội
nên quản lý tại cấp cơ sở tại đây mang những nét đặc thù của quản lý đô thị.
Trong bối cảnh CCHC hiện nay, cải cách tại cấp cơ sở là khâu then chốt quyết
định tới hiệu quả của toàn bộ hệ thống bởi nó liên qua trực tiếp tới đời sống
của nhân dân. Mặt khác, mọi cải cách có thành công hay không đều phải được
bắt đầu từ cơ sở trên quan điểm công dân là "khách hàng" của nền hành chính
nhà nước. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả quá trình CCHC nói chung và cải
cách tại cấp cơ sở nói riêng tại địa bàn thủ đô nhằm phục vụ nhân dân ngày
một tốt hơn, tác giả lựa chọn đề tài: "Cải cách hành chính tại Ủy ban nhân
7
dân phường thuộc thành phố Hà Nội (Qua thực tiễn tại Ủy ban nhân dân
phường Thổ Quan - quận Đống Đa - thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc
sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cải cách hành chính, nhất là về chính quyền địa phương nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng xu thế hội nhập là vấn đề được Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập tới nội

dung này như sau:
- Tô Tử Hạ: "Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay", Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Cuốn sách giới thiệu
kinh nghiệm xây dựng đội ngũ công chức của các nước trên thế giới và quá
trình hình thành, phát triển đội ngũ công chức nước ta từ sau cách mạng tháng
Tám. Nội dung cuốn sách giới thiệu và phân tích các hoạt động trong tổng thể
công tác quản lý công chức nói chung.
- Phạm Hồng Thái: "Công vụ, công chức nhà nước", Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2004. Cuốn sách tập trung giới thiệu những vấn đề lý luận về công vụ,
công chức trên cơ sở phân tích pháp luật thực định của Nhà nước ta từ năm
1945 đến nay và chỉ ra xu hướng điều chỉnh của pháp luật về công vụ, công
chức qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó có đi vào làm rõ và phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật về công vụ, công chức ở nước ta, bao gồm các nội
dung tuyển dụng, tập sự, sử dụng và quản lý, quyền và nghĩa vụ, điều động,
kiêm nhiệm, thăng giáng chức, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, chế
độ hưu trí và chế độ thôi việc.
- Viện Nhà nước và pháp luật: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002. Đây là công trình thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc của tập thể các
nhà khoa học đầu ngành về chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.
8
- Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức: "Cải cách chính
quyền địa phương, lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998,
đã nêu ra những cách thức CCHC chính quyền địa phương ở nước ta, trong đó
có chính quyền phường về tổ chức bộ máy, thể chế, tài chính, ngân sách, cán
bộ… Tuy nhiên, nội dung có liên quan đến chính quyền phường còn ít, chưa
đề cập sâu đến những nội dung dành cho chính quyền phường ở đô thị.
- Bùi Xuân Đức: "Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai
đoạn hiện nay", Nxb Tư pháp, 2004. Tác giả đề cập đến đổi mới cấp hành
chính bên dưới cấp thành phố và mô hình được tổ chức linh hoạt, không nhất

thiết cấp nào cũng như nhau, có thể có một hoặc hai cấp dưới cấp thành phố, có
thể là quận hoặc có thể là phường, nhưng bộ máy hành chính phải gọn nhẹ. Tác
giả đã khẳng định cấp chính quyền ở đô thị không nhất thiết phải là ba cấp như
hiện nay. Tác giả đã thể hiện tư duy khoa học, cũng như quan điểm, nhận thức
phù hợp với thực tiễn hiện nay đòi hỏi bộ máy nhà nước cần phải đổi mới cơ
quan quyền lực, cũng như Ủy ban nhân dân (UBND) ở địa phương.
- Nguyễn Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà: "Đổi mới nội dung
hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế", NXB Chính trị quốc gia, 2006 đã đề cập tới mối
quan hệ giữa điền kiện kinh tế - xã hội của đơn vị hành chính với chính quyền
ở các cấp địa phương. Trong đó, các tác giả đã đưa ra những kiến nghị về các
mô hình chính quyền địa phương trước sự tác động của điều kiện xã hội biến
đổi không ngừng và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Bộ "Đổi mới tổ chức chính quyền đô thị" do TS
Dương Quang Tung làm chủ nhiệm đề cập tới sự trùng lắp trong tổ chức
chính quyền ở địa bàn đô thị và nông thôn để đề xuất cải tiến cơ cấu tổ chức
bộ máy ở mỗi cấp chính quyền.
- Một số tài liệu dịch như: "Nhà nước trong một thế giới đang chuyển
đổi: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997" của Ngân hàng thế giới,
9
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; "Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh" của S. Chiavo-Campo và P.S.A.
Sundaram, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,… đều đề cập tới các xu hướng cải
cách trong hoạt động của chính phủ các nước trên thế giới.
Các công trình khoa học nói trên đã đề cập tới CCHC dưới nhiều góc
độ. Tuy nhiên, các công trình này hầu hết đều tiếp cận nghiên cứu nhằm
hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện chế độ công vụ nói chung chứ chưa đề
cập cụ thể nội dung CCHC tại cấp cơ sở, đặc biệt là tại UBND phường. Vì
vậy, nghiên cứu những cơ sở và điều kiện cần thiết để CCHC, nâng cao hiệu
quả hoạt động của chính quyền phường là rất cần thiết hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của CCHC tạo tiền đề đổi mới, nâng cao
hiệu quả cải cách ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng CCHC ở phường thuộc thành phố Hà Nội hiện
nay từ đó nêu lên những hạn chế, yếu kém và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
giải quyết.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả CCHC tại
UBND phường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác CCHC
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác CCHC
tại UBND phường thuộc thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, các phương pháp: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh
10
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
- Phân tích và đánh giá thực trạng CCHC tại UBND phường, tạo cơ sở
để đề xuất đổi mới hoạt động này tại thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả CCHC tại UBND
phường thuộc thành phố Hà Nội.
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập, trong quá trình CCHC tại Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở cải cách hành chính.
Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính tại Ủy ban nhân dân
phường thuộc thành phố Hà Nội.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính tại
Ủy ban nhân dân phường thuộc thành phố Hà Nội.
11
Chương 1
CƠ SỞ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. CƠ SỞ KHÁCH QUAN DẪN TỚI PHẢI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Bộ máy hành chính nhà nước là bộ máy trực tiếp thực thi quyền hành
pháp, tổ chức và điều hành mọi hoạt động trong đời sống xã hội theo pháp
luật. Đó là bộ phận năng động nhất và thực hiện trực tiếp nhất chức năng
QLNN. Do đó, CCHC được coi là nội dung trọng tâm trong cải cách bộ máy
nhà nước. CCHC xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau.
1.1.1. Thực trạng nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước là một cơ cấu phức tạp, bao gồm các yếu
tố: thể chế pháp lý, tổ chức, nhân sự và tài chính công. Nó là chiếc cầu nối
quan trọng giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp thực
hiện chức năng quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước, thường xuyên
tiếp xúc với dân, giải quyết các yêu cầu của dân. Đồng thời, nền hành chính
nhà nước là nơi biểu hiện trực tiếp nhất, rõ nhất, tập trung nhất những ưu
việt của chế độ, cũng như những nhược điểm, khuyết điểm của bộ máy nhà
nước. Hiện nay, Chính phủ các nước phải tiến hành cải cách là do nền hành
chính đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành cũng như
phục vụ xã hội. Vì vậy, các Chính phủ phải nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để
khắc phục những hạn chế đó nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
hành chính nhà nước.
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước còn mang nặng dấu ấn của cơ chế
quản lý tập trung, bao cấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế quản lý
mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực hiệu
quả QLNN chưa cao. Điều đó thể hiện ở một số điểm sau đây:
12

Chức năng, nhiệm vụ QLNN của bộ máy hành chính trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ ràng
và phù hợp. Sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật
rành mạch;
Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chống chéo và thiếu
thống nhất. TTHC trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, trật tự kỷ cương
chưa nghiêm;
Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, phương thức quản lý
vừa tập trung quan liêu vừa phân tán, chưa thông suốt, chưa có những cơ chế
chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công;
Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh
thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính. Phong cách làm
việc chậm đổi mới, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân còn tồn tại
trong một bộ phận cán bộ, công chức;
Bộ máy hành chính tại các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó
với nhân, không nắm chắc được các vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng bị
động khi xử lý các tình huống phức tạp [6, tr. 1-2].
Từ thực trạng nêu trên, công cuộc đổi mới ở nước ta đang đòi hỏi phải
củng cố và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đặt ra yêu cầu đổi mới
đối với nền hành chính nhà nước. Nhân dân đòi hỏi và mong muốn được thực
hiện quyền làm chủ một cách hợp pháp và đầy đủ, được làm ăn, sinh sống
trong một môi trường an ninh, trật tự, dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu.
Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
trong thời kỳ mới đòi hỏi Nhà nước mà trực tiếp là nền hành chính phải hoàn
thiện thể chế và nâng cao hiệu lực pháp lý theo cơ chế mới để đảm bảo cho
đất nước phất triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự
mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng đòi hỏi thể chế hành chính và
13
đội ngũ cán bộ, công chức phải thích ứng với pháp luật và trình độ quốc tế,

bảo vệ lợi ích quốc gia.
1.1.2. Khủng hoảng kinh tế
Suy thoái kinh tế và việc mở rộng sự tham gia của Nhà nước trong
cung cấp các dịch vụ công và đảm bảo phúc lợi xã hội ở các nước phát triển
thời kỳ cuối những năm 70 đã đẩy hầu hết các nước phát triển vào cuộc khủng
hoảng tài chính công. Từ những năm 1980, yêu cầu tái thiết nền kinh tế và
tăng cường vai trò định hướng của Nhà nước đối với sự phát triển đòi hỏi
chính phủ các nước phải không ngừng mở rộng chức năng của mình dẫn đến
bộ máy phình to và áp lực tài chính ngày càng nặng nề. Sự thâm hụt ngân
sách đặt các quốc gia trước hai lựa chọn là giảm bớt số lượng dịch vụ công
cần cung cấp hoặc tăng thuế. Mặc dù suy giảm kinh tế nhưng chi tiêu công ở
nhiều nước vẫn tiếp tục tăng dẫn tới mất cân đối cung - cầu dẫn tới suy thoái
kinh tế kèm theo giảm hiệu quả kinh tế và hiệu quả hoạt động của cả bộ máy.
Điều đó cho thấy một Nhà nước lớn về quy mô không hẳn đã đồng nghĩa với
một nhà nước hoạt động hiệu quả và một nhà nước hiệu quả phải là một nhà
nước làm nhiều hơn với chi phí ít hơn. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng trở
thành động lực thúc đẩy cải cách ở nhiều quốc gia trên thế giới.
1.1.3. Đòi hỏi của người dân trong xã hội dân chủ
Trong môi trường xã hội dân chủ, người dân đòi hỏi và mong muốn
được thực hiện quyền làm chủ hợp pháp một cách đầy đủ, được yên ổn sinh
sống, làm ăn trong môi trường an ninh, trật tự và dân chủ, không bị phiền hà,
sách nhiễu. Hành chính nhà nước phải phát huy dân chủ cơ sở, thu hút sự
tham gia của người dân vào quản lí nhà nước và phải công khai, minh bạch
trong các hoạt động của mình. Khi xã hội càng phát triển, trình độ dân trí
ngày càng cao và những đòi hỏi mở rộng dân chủ ngày càng cấp bách, việc
xây dựng một nền hành chính có hiệu lực, hiệu quả, coi công dân là khách
hàng, coi phục vụ công dân và xã hội là đòi hỏi tất yếu và là mục tiêu chung
của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
14
Trong tiến trình CCHC nhà nước, vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu

đề cập đến là mối quan hệ giữa nhà nước và công dân được xác lập trên
nguyên tắc nào và nhà nước làm gì để đáp ứng nhu cầu của công dân. Một số
nước đã và đang áp dụng các nguyên tắc lấy công dân làm trung tâm của mọi
hoạt động và việc đáp ứng đòi hỏi của công dân là mục tiêu quan trọng trong
mọi chiến lược cải cách. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ một nền hành chính
"cai trị" sang nền hành chính "phục vụ dân" là một quá trình khó khăn mà
trước hết cần thay đổi tư duy về vai trò của nhân dân. Tăng cường sự tham gia
của nhân dân vào QLNN, tạo ra hệ thống quản lý mở, tạo cơ hội để nhân dân
có thể bày tỏ quan điểm của mình để hoàn thiện các chính sách, quyết định
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hành chính công.
1.1.4. Do sự phát triển của khoa học công nghệ
Những thành tựu của khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học…) đã tác động mạnh mẽ đến quá trình quản lý. Hiện đại
hóa nền hành chính trên thế giới đang được thực hiện bằng việc trang bị các
thiết bị kỹ thuật hiện đại như: máy tính, máy Fax, điện thoại vào các hoạt động
hành chính, nhất là hoạt động hành chính - văn phòng và thông tin điều hành
nhằm đảm bảo thu thập, xử lý và truyền thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác
và thuận lợi. Ngoài ra, nhiều quốc gia trên thế giới hướng tới việc xây dựng
chính phủ điện tử (E-Government) hoặc chính phủ kỹ thuật số (D-Government).
Thông qua Chính phủ điện tử sẽ cung cấp các loại thông tin của chính phủ
cho công dân, các doanh nghiệp ngay tại cổng Internet; Thực hiện trao đổi
thông tin giữa chính phủ và công dân, các nhà doanh nghiệp, các tổ chức khác
thông qua mạng dưới hình thức: thư điện tử (e.mail); hội nghị trực tuyến
(video-conference); đường dây nóng qua Internet; Cung cấp các loại dịch vụ
(dịch vụ hành chính/ pháp lý) cho công dân, doanh nghiệp qua mạng Internet:
đăng ký kinh doanh; cấp giấy phép lái xe; đăng ký, kê khai, nộp thuế; trả
thanh toán các dịch vụ khác; đơn đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn Điều
15
đó đòi hỏi Nhà nước buộc phải cải cách nền hành chính, sắp xếp lại bộ máy,
đổi mới phương pháp quản lí để theo kịp những tiến bộ chung của thế giới.

1.1.5. Xu hướng toàn cầu hóa
Vào những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX làn sóng toàn cầu hóa
bắt đầu xuất hiện. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan của quá trình phát
triển lực lượng sản xuất và tạo ra những bước tiến nhảy vọt dưới sự tác động
của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Điều này thúc đẩy phân công
lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc
tế, đầu tư và tích tụ tập trung tư bản trên phạm vi toàn cầu dẫn tới hình thành
nền kinh tế thế giới nhất thể hóa, toàn cầu hóa hiện nay. Toàn cầu hóa tạo ra
những quan hệ gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau trong các lĩnh vực hoạt động của
nền kinh tế, đem lại những thuận lợi trong thương mại, dịch vụ, đầu tư,
chuyển giao công nghệ, giao lưu kinh tế, hỗ trợ cho các quốc gia trong việc
tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội to lớn
cho các quốc gia đang phát triển trong việc rút ngắn khoảng cách về kinh tế
nhưng cũng sẽ xuất hiện các vấn đề xã hội chênh lệch giàu nghèo giữa các
quốc gia, môi trường bị hủy hoại, bất bình đẳng xã hội gia tăng Toàn cầu
hóa tác động đến toàn bộ nền kinh tế và QLNN của tất cả các quốc gia dẫn tới
các thể chế toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực dần dần được hình thành, làm cơ
sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức toàn cầu và mối quan hệ
kinh tế xã hội toàn cầu.
Như vậy, có thể thấy xu hướng toàn cầu hóa nói trên tác động đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội buộc các Nhà nước phải hướng hoạt động của
mình vào việc hội nhập với các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu, tận
dụng triệt để những lợi thế mà mình có để biến tiềm năng thành hiện thực, đối
phó với những thách thức của quá trình toàn cầu hóa như sự cạnh tranh toàn
cầu do ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào thị trường chung, các quốc
gia phải nỗ lực vươn lên để tạo ra những hàng hóa và dịch vụ có lợi thế cạnh
16
tranh, giành lấy chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế hay đối phó với
những nguy cơ tụt hậu bằng việc các Nhà nước phải thích ứng nhanh với các
xu thế phát triển.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa đó, Việt nam đang trong thời kỳ chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều điều
kiện chưa đáp ứng được như trình độ phát triển nền kinh tế thị trường, hệ
thống pháp luật và thủ tục, cơ sở hạ tầng… chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Bởi vậy, Việt Nam cần nỗ lực nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nền kinh
tế, mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương và đa dạng hóa. Tuy nhiên, tiến
trình này đang gặp không ít trở ngại xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống
quản lý hành chính. Do đó, cần tiếp tục CCHC trong đó đặc biệt chú trọng tới
chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ công chức hành chính để thúc đẩy
quá trình hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Việc tìm kiếm
các mô hình tổ chức nền hành chính nhà nước nhằm đem lại hiệu lực, hiệu
quả cao hơn luôn là mục tiêu ưu tiên của nhiều nhà lãnh đạo nhà nước khi lên
nắm chính quyền. Các Chính phủ luôn đưa ra các đề xuất nhằm thay đổi, cải
cách hoạt động quản lý của chính phủ sao cho phù hợp với xu thế vận động,
phát triển của môi trường trong đó nền hành chính tồn tại.
1.2. MỤC TIÊU CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của CCHC nhà nước gắn chặt với công cuộc đổi mới chung
của đất nước. Công cuộc CCHC ở nước ta có mục tiêu là:
Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một
nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ
thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
17
hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và
bền vững của đất nước [2118, tr. 2].
1.2.2. Các mục tiêu cụ thể
Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp

với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về
kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. Tiếp tục đổi mới
quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề cao trách
nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế; phát huy dân chủ,
huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật; Xóa bỏ về cơ bản các TTHC mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà
cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các TTHC mới theo hướng công
khai, đơn giản và thuận tiện cho dân; Các cơ quan trong hệ thống hành chính
được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng;
chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà
nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm
nhận; Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn
xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy
của các Bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng,
phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách, cung
cấp dịch vụ công; Xác định và thực hiện được các quy định mới về phân cấp
quản lý hành chính nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức
bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn. Các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh, cấp huyện được tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức
năng QLNN theo nhiệm vụ và thẩm quyền. Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ
chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý,
chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất
18
tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất
nước và phục vụ nhân dân; Tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách
cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ,
công chức và gia đình. Cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất

của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; Nền hành chính
nhà nước được hiện đại hóa một bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có trang
thiết bị tương đối hiện đại phục vụ yêu cầu QLNN kịp thời và thông suốt. Hệ
thống thông tin điện tử của Chính phủ được đưa vào hoạt động.
1.3. CÁC NỘI DUNG CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay đang tập trung vào các nội
dung chủ yếu sau đây.
1.3.1. Cải cách thể chế hành chính nhà nước
Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế QLNN mới đảm bảo tính đồng bộ, tính hệ
thống, tính khả thi của thể chế pháp luật gắn với mục tiêu cải cách, đơn giản
hóa các TTHC, đảm bảo công khai, minh bạch và tính dễ áp dụng trong thực
hiện các quan hệ nhà nước với dân. Công chức và cơ quan nhà nước chỉ được
phép làm những gì mà pháp luật quy định; Hai loại thể chế tiếp tục được ưu
tiên hoàn chỉnh là: thứ nhất, thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa - hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai, thể chế tổ chức, vận hành của bộ
máy Chính phủ và chính quyền các cấp phù hợp; Đồng thời, tiếp tục đổi mới
và hoàn thiện quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành luật đủ cụ thể, rõ ràng, kịp thời, đúng quy định.
Có cơ chế hợp lý để nhân dân tham gia ý kiến, nhất là các đối tượng chịu sự
điều chỉnh của pháp luật sẽ ban hành [6, tr 6 - 8], [21, tr5].
1.3.2. Cải cách thủ tục hành chính
Tiến hành rà soát các TTHC trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ
tục, những quy định sai pháp luật, không còn phù hợp với thực tế để kiên
19
quyết sửa đổi. Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh cải cách TTHC thời gian
tới là tập trung chỉ đạo rà soát và cải cách mạnh mẽ các TTHC, tạo môi
trường thuận lợi nhất cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu
chính đáng của người dân, như: thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp;
đăng ký kinh doanh và cấp chứng nhận đầu tư; đầu tư xây dựng công trình, dự
án và nhà ở; quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản; xuất, nhập khẩu; nộp

thuế; hộ tịch, hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thị thực nhập
cảnh; công chứng, chứng thực; thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ;
Các cấp chính quyền và từng cơ quan hành chính nhà nước phải khẩn
trương rà soát các loại TTHC, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền
hoặc hoặc trình cấp trên xem xét sửa đổi theo hướng tạo thuận tiện cho nhân
dân và doanh nghiệp. Xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức tùy tiện đặt ra
các quy định trái pháp luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân
dân. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính trong việc
cải cách TTHC; Mặt khác, phải công bố công khai các thủ tục (các loại giấy
tờ, biểu mẫu) và quy trình giải quyết công việc, thời gian giải quyết, phí và lệ
phí theo quy định để nhân dân biết và thực hiện thuận lợi;
Trong cải cách TTHC, cần tiếp tục thực hiện Đề án 30, điều chỉnh hợp
lý các quy định về TTHC trong các văn bản luật, pháp lệnh và pháp quy của
Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ các quy định về TTHC trong các văn bản pháp
luật mới ban hành. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế "một cửa - liên thông và hiện
đại" ở tất cả các cấp và mở rộng áp dụng tại các đơn vị sự nghiệp dịch vụ
công như bệnh viện, trường học [6], [21], [22].
1.3.3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Đối với Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cần tiếp tục hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan
hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất [27]. Cụ thể là:
20
Chính phủ tập trung thực hiện tốt chức năng QLNN trên các lĩnh vực.
Xác định rõ phạm vi và nội dung QLNN về kinh tế, xã hội cho phù hợp với
yêu cầu phát triển. Tập trung làm tốt hơn việc hoạch định thể chế, cơ chế,
chính sách, xây dựng giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ
mô, cải cách TTHC, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh
tế, xã hội. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực
chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra;

Xây dựng quy chế làm việc của Chính phủ chặt chẽ và thiết thực. Xác
định cụ thể nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng và từng thành viên Chính phủ, bảo đảm bao quát hết các chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ;
Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức của Chính phủ; hình thành bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực; giảm phù hợp số đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc
phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ,
ngành; chỉ duy trì một số cơ quan cần thiết thuộc Chính phủ là đơn vị sự nghiệp.
Các bộ được hoàn thiện để làm tốt chức năng chủ yếu là xây dựng thể chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đối với các lĩnh vực được phân
công; tổ chức chỉ đạo thực hiện và đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.
Sắp xếp hợp lý cơ cấu bên trong của các bộ, bỏ cấp trung gian, giảm tầng nấc, xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo, nâng cao trách nhiệm của từng
bộ phận và đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực hiện công việc [21, tr. 6-7];
Đối với chính quyền địa phương, cần thực hiện phân cấp mạnh và
giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc
quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với trung ương; đồng thời hoàn thiện thể chế, pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển để bảo đảm sự quản lý tập trung, thống
nhất của Trung ương; Xây dựng và đưa vào thực hiện quy hoạch tổng thể đơn
vị hành chính các cấp để ổn định cơ bản các đơn vị hành chính ở cả ba cấp
tỉnh, huyện, xã; Xác định rõ vị trí, trách nhiệm của chính quyền địa phương
21
trong hệ thống cơ quan nhà nước để bảo đảm tính thống nhất và thông suốt
của hệ thống hành chính nhà nước. Chính quyền địa phương được xây dựng,
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhà nước đơn nhất, quyền lực của Nhà
nước là thống nhất; Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ
những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị. Kiện toàn
hệ thống cơ quan chuyên môn của các cấp chính quyền [6], [21, tr. 7], [22].
1.3.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức
Xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh công chức trong
từng cơ quan của Nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và bố trí, sử dụng cán
bộ, công chức; đổi mới chế độ tuyển dụng công chức: Tuyển dụng cán bộ,
công chức phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, công chức. Thông qua việc thi tuyển, sát hạch, kiểm tra để tuyển dụng cán
bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực vào làm việc trong bộ máy. Thực
hiện việc thi tuyển đối với một số chức danh lãnh đạo gắn với chuyên môn
nghiệp vụ trong bộ máy hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp; Bố trí,
phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức vừa phải bảo đảm sự ổn định để
chuyên môn hóa, đồng thời có sự luân chuyển cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và phòng ngừa tiêu cực; Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách
khác để đội ngũ cán bộ, công chức yên tâm thực thi công vụ;
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Đổi mới phương
thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
hướng vào các Chương trình đào tạo theo chức danh - vị trí công tác. Coi trọng
công tác giáo dục đạo đức và phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, công
chức để nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự hào dân tộc và tinh thần
trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức;
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ
máy hành chính, của cán bộ, công chức, đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính;
22
Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, công chức; thông qua việc đánh
giá, phân loại cán bộ, công chức, xác định rõ những người đủ và không đủ
tiêu chuẩn. Có chính sách thích hợp đối với những người không đủ tiêu chuẩn
phải đưa ra khỏi bộ máy; Đổi mới công tác quản lý biên chế bằng việc rà soát
lại đội ngũ công chức, đối chiếu với tiêu chuẩn để bố trí lại cho phù hợp. Tiếp
tục thực hiện mạnh chế độ hợp đồng đối với viên chức sự nghiệp và một số
loại việc trong cơ quan nhà nước [6], [21, tr. 9-10], [22].

1.3.5. Cải cách tài chính công
Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, đồng thời phải bảo đảm tính
thống nhất của thể chế, luật pháp về ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của
ngân sách trung ương; Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong
quản lý ngân sách nhà nước. Xây dựng thể chế giám sát tài chính đồng bộ và
hiệu quả; Thí điểm thực hiện cơ chế cấp phát ngân sách theo kết quả công
việc thay thế cơ chế cấp kinh phí cho cơ quan hành chính chủ yếu dựa vào chỉ
tiêu biên chế đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp dịch vụ công;
Thực hiện cơ chế tổ chức và hoạt động (trong đó có cơ chế tài chính)
đối với các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công theo hướng tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, thực hiện hoạch toán thu - chi không vì lợi nhuận tối đa và nhà nước
không bao cấp bình quân. Ban hành cơ chế tài chính thích hợp cho đơn vị sự
nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; thực
hiện thí điểm cổ phần hóa một số đơn vị sự nghiệp công lập [6] [21, tr10] [22].
1.3.6. Hiện đại hóa hành chính
Chuẩn hóa theo tiêu chuẩn, từng bước hiện đại hóa trụ sở làm việc của
các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Hoàn chỉnh các mẫu quy hoạch, thiết
kế trụ sở từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và bộ, ngành Trung ương theo hướng
tổ chức các trung tâm hành chính, tạo thuận lợi cho người dân tới giải quyết
công việc, lấy vị trí giao dịch thuận lợi với dân làm trung tâm của các trụ sở -
tập trung vào nơi tổ chức giao dịch "một cửa liên thông - hiện đại".
23
Tin học hóa hành chính nhà nước, tiến tới xây dựng chính phủ điện tử.
Áp dụng triệt để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính
các cấp làm cơ sở cho việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành kịp thời, chính xác các
nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền từ trung ương tới cơ sở và được xử lý một
cách hệ thống. Mặt khác, ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện công khai,
minh bạch các chính sách, pháp luật và quy định hành chính với người dân, tổ
chức, doanh nghiệp, tạo điều kiện nhanh nhất trong việc giải quyết các công việc
của dân, tránh các biểu hiện sách nhiễu, phiền hà và tham nhũng [6] [10][22].

2.2.1.3.7. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với
nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội vào
hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước
Tập trung cải cách theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai về TTHC.
Xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định về quyền được thông tin của người
dân, tạo điều kiện để người dân tham gia, giám sát hoạt động của cơ quan hành
chính; Xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân trong quá
trình quản lý hành chính; hạn chế tối đa các oan sai và xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân trong quá trình công chức nhà nước thi hành công vụ;
Tạo lập cơ sở pháp luật nhằm bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của
nhân dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính, tăng cường các hình thức
dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước ngày
càng thực chất và có hiệu quả; đảm bảo cho người dân, tổ chức là đối tượng
chịu sự điều chỉnh của pháp luật được tham gia vào quá trình xây dựng pháp
luật và thực hiện pháp luật [6] [10, tr11][22].
Như vậy, thông qua các nội dung nói trên có thể thấy cùng với việc
ban hành các văn bản pháp lý, quan điểm, chủ trương và những biện pháp cần
thiết để thực hiện các nội dung cơ bản nhằm cải cách tổng thể nền hành chính
nhà nước đã được xác định rất rõ ràng. Đây là những căn cứ quan trọng để
các địa phương trong đó có cấp cơ sở tiếp tục triển khai thực hiện một cách
thống nhất.
24
1.4. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
1.4.1. Vị trí của Ủy ban nhân dân phường
Theo Điều 118 của Hiến pháp Việt Nam hiện hành, các đơn vị hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh
chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia
thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và

xã; quận chia thành phường. Việc thành lập Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định [24 ].
Như vậy, cơ cấu tổ chức hệ thống hành chính nhà nước địa phương
bao gồm 3 cấp: Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; Huyện, Quận, Thị
xã, Thành phố thuộc tỉnh và Xã, Phường, Thị trấn.
Chính quyền địa phương cơ sở là chính quyền được tổ chức ra nhằm
bảo đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân dân, nhân dân là đối
tượng cơ bản để chính quyền phục vụ. Dưới góc độ vai trò của nhà nước;
nhân dân chính là chủ thể của quyền lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa
phương cơ sở phải là chính quyền do nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và
hoạt động vì nhân dân. Các bản Hiến pháp của Việt Nam, từ 1946, 1959,
1980 đến 1992 đều khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Những biểu hiện căn bản của chính
quyền địa phương cơ sở là: về tổ chức do nhân dân tổ chức ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân; về hoạt động do cán bộ, công chức tiến hành phải xuất
phát trên nền tảng lợi ích của nhân dân và vì nhân dân để phục vụ.
Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các quy định,
quyết định của Nhà nước, giải quyết những yêu cầu, thắc mắc, bức xúc của
25

×