Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đông y điều trị xơ gan pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.02 KB, 8 trang )

Đông y điều trị xơ gan


Xơ gan là một bệnh thường có ở Việt Nam, là một bệnh nặng, nhất là đã có cổ
trướng hoặc đã vàng da. Bệnh được ổn định lâu hay mau phụ thuộc chủ yếu vào
chế độ làm việc, chế độ dinh dưỡng và việc phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn,
nhiễm độc
Nhưng nói chung xơ gan tiên lượng rất xấu. Tuy đã điều trị ở bệnh viện, nhưng tỷ
lệ tử vong khá cao. Vì vậy việc phòng bệnh để tránh mắc bệnh viêm gan, dẫn đến
xơ gan là rất quan trọng, cần hiểu biết để phòng tránh.
Xơ gan thường tiếp theo sau một viêm gan mạn tính. Rất khó xác định được lúc
nào viêm gan mạn đã chuyển sang xơ gan nếu không quản lý bệnh nhân, theo dõi
định kỳ và nhất là soi ổ bụng hoặc sinh thiết.
Cổ trướng thường được coi là một biểu hiện mất bù của xơ gan, tiến triển dần dần.
Khi to nhiều, bệnh nhân mới để ý đến. Nước cổ trướng màu vàng chanh, còn nước
màu hồng hay đỏ là có ý nghĩa xấu: xơ gan đã ung thư hóa, hoặc có áp lực tĩnh
mạch cửa tăng nhiều, lách to, cứng chắc, có khi đến tận rốn.
Theo y học cổ truyền, xơ gan cổ trướng là do viêm gan, sốt rét, uống rượu, kém
dinh dưỡng. Căn cứ vào triệu chứng và phương pháp chữa, các thầy thuốc Đông y
chia làm 3 thể bệnh với phép điều trị như sau:
1. Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa
Triệu chứng: Sắc mặt xạm tối, đầu choáng, mệt mỏi, ăn kém, đau vùng gan, tức
vùng thượng vị, ợ hơi, bụng trướng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyết tê.
Phép chữa xơ can kiện ty:
Bài 1: Rau má 12g, mướp đắng (khổ qua) 12g, thanh bì, chỉ thực, uất kim, hậu
phác, mỗi vị 8g; ý dĩ, hoài sơn, biển đậu, đinh lăng mỗi vị 12g. Nước 3 bát, sắc
còn 1 bát, uống lúc bụng đói, uống ấm.
Bài 2: Đan sâm 16g, huỳnh kỳ 10g, bạch phục linh 10g, bạch truật 12g, bạch
thược 10g, nhân trần 20g, chi tử 8g, ngũ gia bì 8g, đại phúc bì 6g, sài hồ 10g, ý dĩ
16g, cam thảo 6g, đại táo 6g, gừng khô 6g. Sắc uống như trên ngày một thang.
2. Xơ gan do khí trệ huyết ứ:


Triệu chứng: đau nhiều vùng mạng sườn, bụng trướng, người gầy, lách to, môi
lưỡi tím, mạch tế. Phép chữa: hành khí hóa ứ:
Bài 1: Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g,
chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ấm ngày một thang.
Bài 2: Bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa
8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày một thang. Nếu lách to, thêm tam
lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 10g, mai ba ba 20g.
Bài 3: Đào nhân 12g, hồng hoa 8g, đương quy 12g, xích thược 12g, đan sâm 22g,
tam lăng 8g, nga truật 8g, hương phụ chế 8g, chỉ xác 8g. Sắc uống ngày một thang.
3. Thể xơ gan cổ trướng: Thể này có 3 loại:
Âm hư thấp nhiệt: Thể này thường kèm theo chảy máu. Triệu chứng: sắc mặt vàng
tối, chảy máu cam, chảy máu chân răng, chân phù, sốt hâm hấp, hoặc sốt cao,
phiền táo, miệng khát, họng khô, lợm giọng, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ,
ít rêu, mạch huyền tế sác. Phép chữa: thanh nhiệt, hóa thấp, dưỡng âm, lợi thủy:
Bài 1: Nhân trần 20g, thạch hộc 20g, sa sâm 12g, sinh địa 12g, xa tiền 12g, trạch
tả 12g, bạch mao căn 12g, hậu phác 6g, trần bì 6g, bán hạ chế 6g, chi tử 8g, nước 3
bát sắc còn 1 bát, uống trong ngày một thang.
Bài 2: Thục địa 12g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đơn bì 8g, phục linh 8g,
bạch truật 12g, đương quy 8g, địa cốt bì 12g, bạch mao căn 20g.
Tỳ thận dương hư: Triệu chứng: mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, chân phù, tiểu tiện
ít, đại tiện lỏng, sợ lạnh, sắc mặt vàng hoặc xanh nhợt, chất lưỡi nhạt hoặc bệu, rêu
trắng mỏng, mạch trầm tế. Phép chữa: ôn thận tỳ dương, hành thủy.
Bài 1: Phụ tử chế 12g, nhục quế 4g, chỉ xác 6g, mộc hương 6g, bạch truật 12g, ý dĩ
16g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, kê nội kim 4g, xa tiền tử 12g.
Bài 2: Phụ tử chế 12g, quế chi 6g, gừng khô 6g, phục linh 12g, hậu phác 6g, trạch
tả 12g, đại phúc bì 12g, huỳnh kỳ 12g, xuyên tiêu 6g.
Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: Triệu chứng: cổ trướng tăng nhanh,
không nằm được, tiểu tiện ít, đại tiện không thông, mạch huyền sác. Phép chữa:
công hạ, trục thủy. Chú ý theo dõi mạch, huyết áp tránh trụy mạch do mất nước và
điện giải quá nhiều.

Bài 1: Cam toại nướng 6g, thương lục 6g, đại phúc bì 12g, đại hoàng 12g, hắc sửu
8g, úc lý nhân 8g, nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống nguội sáng chiều.
Bài 2: Nguyên hoa 8g, cam toại 8g, đại kích 8g, phơi khô tán bột. Ngày uống 2g
vào buổi sáng với nước đại táo.
Bài 3: Cây lá trạch lan 30g, rễ muồng trâu (sao rượu) 30g, rễ bồ ngót 30g, lá tía tô
10g, hậu phác 5g, lá dâu 12g. Nước vừa đủ, sắc còn 1/2 uống ấm trong ngày.
Bài 4: Hương phụ chế 12g, vỏ quýt sao 12g, vỏ cau sao 6g, hậu phác 6g, cam thảo
3g, nước vừa đủ, sắc uống như trên.
Bài 5: Hoàng cầm 12g, sơn chi tử 12g, nhân trần 12g, đình lịch tử 8g, long đờm
thảo 8g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống ấm trong ngày một thang.
4. Món canh, cháo chữa xơ gan cổ trướng
Cá chép nấu xích tiểu đậu: Cá chép 1 con 0,5 - 1kg, đánh vảy, bỏ mang và ruột,
đậu đỏ 120g và trần bì (vỏ quýt) 6g, rửa sạch, nhồi 2 vị vào bụng cá. Nước vừa đủ,
đun to lửa cho sôi, rồi nhỏ lửa, nấu tới nước sánh là được. Công dụng: thanh nhiệt,
giải độc, lợi thủy, tiêu thũng, trị xơ gan cổ trướng vàng da, viêm túi mật, viêm
tuyến tụy. Ngày ăn 2 lần, ăn cá, uống canh.
Canh thịt lợn mao căn: Mao căn, rễ cỏ tranh (rễ khô 50g, rễ tươi 150g), cắt từng
đoạn ngắn rửa sạch, thịt lợn nạc 350g, rửa sạch thái chỉ. Hai thứ cho vào nồi, nước
vừa đủ, nấu chín, cho gia vị là được. Công dụng: ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp,
thoái hoàng. Trị cổ trướng vàng da, mệt mỏi, cơ thể suy nhược.
Cháo tạm trúc diệp, đậu đỏ: tạm trúc diệp 100g, rửa sạch, cắt nhỏ, đậu đỏ loại nhỏ
50g, gạo nếp 100g đãi sạch, ngâm trương cho vào nồi, nước 1 lít, đun lửa to cho
sôi, khi hạt gạo nếp sắp nở mới cho tạm trúc diệp vào, nấu chín là được. Công
dụng: thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, cổ trướng, chia ngày ăn 2 - 3 lần.
Cháo ý dĩ, phục linh: Bột bạch phục linh 20g, xích tiểu đậu 50g, ý dĩ (hạt bo bo)
100g. Ngâm xích tiểu đậu nửa ngày rồi cho vào nấu cháo cùng ý dĩ, khi chín nhừ
thì cho bột phục linh vào nấu tiếp; sau đó cho ít đường đỏ, ăn trong ngày. Công
dụng chữa viêm gan, xơ gan vàng da.
Cháo táo tàu, ngó sen: táo tàu 10 quả (bỏ vỏ và hạt), hạt bo bo (ý dĩ) 50 - 100g, bột
ngó sen 15g. Nấu hạt bo bo cho chín, mềm, cho táo tàu vào, đun sôi tiếp, sau đó

cho bột ngó sen vào (bột hòa tan cho đều với nước sôi), đun sôi lại lần nữa là
được, chia 2 lần ăn trong ngày. Công dụng: an thần, lợi thủy, trừ xơ gan cổ trướng.
Cháo nhân trần: nhân trần 60g, gạo lức 100g. Nhân trần rửa sạch đun lấy nước, bỏ
bã, cho gạo lức vào, đã vo sạch, đun to lửa cho sôi, sau đun nhỏ lửa, nấu cháo
loãng, có thể cho ít đường đỏ, ăn ngày 2 - 3 lần. Ăn liền 7 - 10 ngày là một liệu
trình. Công dụng: trị xơ gan cổ trướng, vàng da cấp. Hoặc thay nhân trần bằng chi
tử nhân 30g, gạo lức 100g. Nấu ăn như cháo nhân trần. Công dụng: trị viêm gan
vàng da, thổ huyết, lỵ ra máu, tiểu ra máu, họng đau, bệnh lậu.
Ăn cá chép ốp thấm ba đậu: cá chép 1 con to 0,5 - 1kg, dùng dao mổ dọc 2 bên
sống lưng thật sâu, ba đậu 40 hạt, lột bỏ vỏ rồi nhét vào 2 bên dọc sống lưng cá
cho đầy, ốp cá lại, dùng giấy bạc bọc ngoài 3 lớp, ràng rịt kỹ, để lên lửa than,
nướng chín, rồi bỏ hết ba đậu, chỉ ăn cá chép với nước cơm sôi, ăn nhạt, kiêng
mắm, muối. Trong ngày sẽ đi đại tiện, tống hết vật tanh hôi. Bụng xọp dần. Nếu đi
đại tiện nhiều thì uống nước đun sôi để nguội sẽ đi bình thường.
Ăn cá chép, tỏi, đậu đỏ: Cá chép tươi sống khoảng 500g, mổ thịt, để cả vảy, bỏ
ruột. đậu đỏ nhỏ hạt 100g, tỏi vài nhánh. Đậu nấu chín, nhét tỏi và đậu vào bụng
cá, gói cá bằng lá chuối tươi, buộc kỹ rồi vùi vào tro nóng có than hồng, khi chín
dừ cá lấy ra ăn nhạt, ngày ăn một lần, ăn 3 - 6 ngày liền.
Các loại nước uống:
- Chi tử 12g, nhân trần 12g, nước 600ml, sắc còn 200ml, cho chút đường chia 3
lần uống trong ngày.
- Chi tử 16g, hoàng bá 12g, cam thảo 4g, sắc nước uống ngày một thang.
- Mẫu đơn bì 8g, rễ cỏ tranh 20g, thục địa, hoài sơn, bạch truật, địa cốt bì mỗi vị
12g, sơn thù, trạch tả, phục linh, đương quy mỗi vị 8g, sắc uống ngày một thang.
- Cây chó đẻ răng cưa 100g, sắc nước 4 lần. Lần 1: sắc với 3 bát nước lấy một bát
thuốc. Ba lần sau đều sắc với 2 bát nước lấy nửa bát thuốc. Trộn chung 4 nước,
thêm ít đường đỏ, đun sôi cho tan, chia 6 lần uống trong ngày. Khi hết triệu chứng
xơ gan, vàng da, thôi không uống thuốc chữa.
- Nhân trần, bồ công anh, uất kim mỗi vị 30g, nghệ vàng 12g, sắc uống ngày một
thang.

- Nhân trần 20g, quả dành dành 10g, đại hoàng 5g, sắc uống ngày một thang.
- Nhân trần 100g, bồ công anh 50g, đường đỏ 30g, nước 600ml, sắc với nhân trần
và bồ công anh còn 400ml, cho đường vào là được. Chia 2 lần uống trong ngày.
Thuốc thoa ngoài: Rễ trầu già 10g, bồ kết 5g, long não 3g, gừng khô 4g, tỏi 1 củ
nhỏ. Tất cả giã nát, ngâm với rượu trong một tuần. Dùng thoa bụng, ngày 3 lần,
nhiều hơn càng tốt.

×