Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Lí luận vai trò Nhà nước Việt nam về kinh tế thị trường định hướng XHCN - 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.17 KB, 9 trang )

Trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước XHCN trên thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng, chúng ta chỉ thấy một mô hình kinh tế thuần nhất đó là mô
hình kinh tế chỉ huy tập trung bao cấp. Có thể nói đây là một mô hình kinh tế kém
năng động và khó thích nghi với sự phất triển chung của kinh tế thế giới, chính vì
vậy mà một số các quốc gia và cả nước ta khi áp dụng mô hình này đã gặp phải
những khó khăn không nhỏ. Từ việc nhận thức đúng đắn những ưu khuyết tật trong
thực tiễn tồn tại của nền kinh tế lúc bấy giờ nên đại hội đảng VI đã đi đến quyết
định mang tính cách mạng trong con đường cái cách nền kinh tế. Bắt đầu từ đó mô
hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN lần đầu tiên được áp dụng vào Việt
Nam .
Cũng bắt đầu từ đó thì có không ít ý kiến tranh luận cho rằng có phải cơ chế thị
trường là sản phẩm của CNTB hay không và sự vận dụng của ta có phải là sự vận
dụng kinh nghiệm của CNTB hay không ? Nhiều ý kiến thì cho rằng kinh tế thị
trường và CNXH là như nước với lửa không thể dung nạp với nhau, bởi kinh tế thị
trường tồn tại trong nó rất nhiều những khuyết tật không thể chấp nhận được. Như
vậy, tư tưởng phát triển kinh tế hàng hoá thị trường dưới chế độ XHCN ở nước ta là
chưa thống nhất.
Việc vạch định ra ưu điểm và hạn chế của nền kinh tế hàng hoá-kinh tế thị trường
là điều cần thiết. Vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm phân tích, và theo
em thì dường như mọi người đã có những nhận định khá toàn diện về những ưu,
những khuyết của nền kinh tế thị trường. Nhưng vấn đề chính lại là ở chỗ khi chung
ta đã quyết tâm đi theo xây dựng nền kinh tế thị trường rồi thì chúng ta phải làm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
như thế nào, phải dùng những công cụ nào và ai là người đứng ra sử dụng những
công cụ đó để hạn chế những khuyết tật, phát huy những ưu điểm của nó.
Từ những lý do trên em lựa chọn đề tài : “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”
Đi theo những định hướng nội dung mà thầy giáo đã cung cấp, em sẽ cố gắng nêu
được trọn vẹn bốn ý chính:
- Làm rõ tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền


kinh tế.
- Làm rõ những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN
ở nước ta.
- Phân tích những mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước.
- Nêu được một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của
Nhà nước ta hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu về đề tài này, em đã cố gắng hết sức, song em tin chắc
mình không thể tránh khỏi những thiếu xót. Dù vậy, em cũng mong rằng bài viết
của em được kết quả tốt, được thầy giáo đánh giá cao.







Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

PHẦN I: Lí LUẬN CHUNG VỀ VAI TRề KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
I. Tính tất yếU khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước ĐốI với nền kinh tế
thị trường.
1. Những điều kiện hình thành nền kinh tế hàng hoá & nền kinh tế thị trường.
* KTHH là sự phát triển kế tiếp và biến đổi về chất so với nền kinh tế tự nhiên
trên cơ sở phân công lao động xã hội đã phát triển. KTHH là nền kinh tế hoạt động
theo quy luật sản xuất và trao đổi hàng hoá, sản xuất sản phẩm cho người khác tiêu
dùng thông qua trao đổi mua bán, trao đổi hàng-tiền. Nừu sản xuât để tự tiêu dùng
thì không phải là nền KTHH,mà là nền kinh tế tự nhiến tự cấp tự túc. Ngay cả khi
sản xuất cho người khác tiêu dùng như phân phối dưới dạng hiện vật ( hàng đổi

hàng ) cũng không gọi là KTHH.
Vậy, KTHH hình thành dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội, của
trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Đó là kiểu tổ chức kinh tế xã hội,
trong đó quan hệ trao đổi giữa người và người được thực hiện thông qua quan hệ
trao đổi hàng hoá giá trị.
* KTTT là nền kinh tế vận động theo những quy luật của thị trường trong đó
quy luật giá trị giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cấp trên thị
trường. Các vấn đề về tổ chức sản xuất hàng hoá được giải quyết bằng sự cung ứng
hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường. Các quan hệ hàng hoá phát
triển mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
xuất và tiêu dùng. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ được quyết định từ thị trường về
giá, sản lượng, chất lượng vì động cơ đạt tới lợi nhuận tối đa.
Nền KTTT là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàn hoá. Nó nằm trong tiến trình
phát triển khách quan về kinh tế trong xã hội loài người.
* Những điều kiện bảo đảm cho nền KTTT hình thành và phát triển:
Thứ nhất : Phải có nền KTHH phát triển, đIều đó có nghĩa là phải có sự phân
công lao động xã hội phát triển, có các hình thức, các loại hình sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất.
Thứ hai : Phải có sự tự do trong trao đổi hàng hoá trên thị trường, tự do lựa
chọn bạn hàng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Trong một nền kinh tế có nhiều chủ thể cùng sản xuất một loại sản phẩm; và
ngược lại mỗi chủ thể sản xuất và tiêu dùng cũng cần nhiêu loại hàng hoá khác
nhau. Việc tự do lựa chọn, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng là điều kịên không
thể thiếu được để các chủ thể kinh tế lựa chọn cho mình những phương án tối ưu.
Đó là một điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho nền KTTT phát triển.
Trước đây trong đIều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ yếu tố đầu
vào, đầu ra, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, bằng cách nào và phân phối theo địa
chỉ nào…tất cả đều theo một hệ thống pháp lệnh chi tiết, cụ thể theo kế hoạch. Do
vậy các quan hệ thị trường trao đổi ngang giá không còn đúng nghiã nữa mà biến

dạng đi rất nhiều.
Thứ ba : Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo những quy luật của thị
trường, theo giá cả thị trường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Quy luật giá trị đòi hỏi : hao phi lao động cá biệt của mỗi đơn vị sản phẩm
của chủ thể sản xuất kinh doanh bất kì phải nhỏ hơn hao phí lao động xã hội để sản
xuất ra đơn vị sản phẩm cùng loại trong cùng một thời gian và không gian nhất
định. Đó là điều kiện tiên quyết cho các chủ thể sản suất kinh doanh tồn tại và phát
triển.
+Trong nền KTTT, một sản phẩm hàng hoá trao đổi phải thông qua giá cả thị
trường. Giá cả là hình thái biểu hiện bằng tiền của giá trị, có thể cao hơn hay thấp
hơn đối với một số hàng hoá nào đó. Song giá cả vẫn xoay quanh trục giá trị, xét
trên một thời gian dài tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị. Và giá cả thị trường là hạt
nhân của cơ chế thị trường.
Muốn hình thành và phát triển KTTT, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải tuân thủ giá cả thị trường. Đương nhiên giá cả thị trường không phải là yếu
tố duy nhất có tác động quyết định đến người sản xuất. Căn cứ vào yêu cầu phát
triển chung của nền kinh tế, Nhà nước có thể cần phải điều tiết giá cả ở một số mặt
hàng thiết yếu quan trọng có, liên hệ chặt chẽ đến sự ổn định đời sống kinh tế xã
hội, có lợi cho quốc kế dân sinh nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường.
Thứ tư: Trong điều kiện phân công lao động quốc tế đã vượt ra khỏi biên
giới quốc gia, việc tham gia phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước
với thị trường quốc tế là một yêu cầu khách quan. Không thể có một nền KTTT nào
phát triển được nếu hoạt động của nó bó hẹp trong khuôn khổ một quốc gia nhất
định. Do vậy việc tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ với bên
ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài là điều kiện quan trọng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cho sự phát triển kinh tế nói chung và nền KTTT mang mầu sắc Việt Nam nói
chung.

2. Các giai đoạn phát triển của nền KTTT.
*Giai đoạn 1 : Những yêú tố cơ bản nhất của nền KTTT được tạo ra với ưu
thế của bàn tay vô hình của thị trường, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu
đòi chế độ tự quản.v.v Nhưng ngay từ đầu đã có sự can thiệp của bàn tay hữu hình
của Nhà nước, đồng thời phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá.
*Giai đoạn 2 : Tạo lập một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh mà ở đó vai trò
của Nhà nước ngày càng tăng. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô theo đó được nâng
lên bao hàm một sự biến đổi căn bản trong các hình thức tổ chức thị trường về cơ
cấu quản lý KTTT. Sự tác động qua lại và quy định lẫn nhau đó, theo nguyên tác tự
dovà được kết hợp chặt chễ theo khuôn khổ mục tiêu của nền KTTT có sự quản lý
của Nhà nước.
*Giai đoạn 3: Những yếu tố mới của sự tiến bộ xã hội (khoa học công nghệ,
dân trí, quốc tế hoá) càng đòi hỏi ở nền KTTT sự phát triển cao, tính xã hội của nền
KTTT càng tăng ,vai trò cuả Nhà nước càng lớn và tương ứng với nó là sự thay đổi
phương thức quản lý thích hợp.
3. Những ưu, khuyết điểm của nền KTTT.
a/ Những ưu điểm của nền KTTT.
Thứ nhất: Thúc đẩy sản xuất, gắn sản xuất với tiêu thụ-mục tiêu của sản xuất.
Do đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kì sản xuất, thục hiện tái sản xuất mở
rộng, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ…nhằm đat được lợi nhuận tối
đa
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thứ hai: Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các
điều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng mới và
thị trường tiêu thị, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, tìm cách đạt lợi nhuận tối đa.
Thứ ba: Thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, kích thích tăng năng
suất lao động , nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và của thị trường
Thứ tư: Thúc đẩy sự tăng trưởng dồi dào của sản phẩm hàng hoá dịch vụ,
thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh

doanh đối với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ năm: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, tập trung sản xuất.
Tích tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một
mặt, các đơn vị chủ thể làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép mở rộng quy mô sản
xuất. Mặt khác, chỉ những đơn vị làm ăn có hiệu quả thì mới tồn tại, mới đứng
vững được trên thị trường. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy
tích tụ và tập trung sản xuất.
b/ Những khuyết tật của nền KTTT.
Thứ nhất: Nền KTTT mang tính tự phát tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kì giá
nào, không đi đúng hướng của kế hoạch nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ
mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao, sinh
ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung.
Thứ hai: KTTT, “cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hoá đời sống dân cư, một
bộ phận dẫn đến phá sản, phân hoá giầu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp và số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo khó.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thứ ba: Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng
nền kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm đủ thủ đoạn,
mánh khoé làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, không từ bỏ một thủ đoạn nào nhằm
thu được lợi nhuận tối đa.
Thứ tư: Vì mục tiêu lợi ích cá nhân, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá các
nguồn tài nguyên và huỷ diệt một cách tàn khốc tài nguyên môi trường sinh thái,
không còn giữ lại cho đời sau, sự phát triển không bền vững.
Thứ năm: Nền KTTT vận hành theo CCTT, có chế này có thể gây ra sự mất
ổn định thường xuyên, phá vỡ sự cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu
cực của nó thường đi liền với những vấn đề nan giải. Thực tế phát triển nền KTTT
trong mấy chục năm qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu kỳ kinh doanh
là những căn bênh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp
của Nhà nước.
Thêm nữa, trong nền KTTT thường tồn tại những ngành nghề kinh tế thiếu

sự cạnh tranh vì ở đó có mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi
vốn rất chậm nhưng rất cần cho sự ổn định phát triển kinh tế và rất cần cho việc giải
quyết những vấn đề xã hội như: y tế, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công
trình công cộng khác.
Qua trên ta thấy, nền KTTT có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ và
tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của cả xã hội. Nhưng
nền KTTT không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó
cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục, hạn
chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường (CCTT) cần thiết phải có sự can
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Từ đó hình thành khái niệm CCTT có sự quản
lý của nhà nước. Đó là một dạng đặc biệt của loại hình KTTT. Nếu như sự vận động
của nền KTTT truyền thống, cổ điển, hoang dã tuân theo sự điều khiển của “bàn tay
vô hình” cung_cầu_giá cả thì sự vận động của nền KTTT có sự quản lý (điều khiển,
điều tiết) của Nhà nước tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng
một lúc của hai yếu tố :Yếu tố tự vận động bởi quan hệ cung_cầu và yếu tố nhà
nước tức là vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Theo bản chất của
mình, nền KTTT có sự quản lý của nhà nước không chỉ vận động theo CCTT, cũng
không chỉ vận động theo cơ chế chỉ huy mà vận động bởi sự tác động đồng thời của
hai cơ chế ấy. Chính vì vậy người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp. Như vậy, nền kinh tế
hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo CCTT có sự quản lý của Nhà nước.
Trong KTTT, Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là
khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu
điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…Nhà nước dùng
pháp luật để điều hành; dùng các chính sách như chính sách đối nội, đối ngoại,
chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển,
hạn chế những tiêu cực do KTTT sinh ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp v.v
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường, phục vụ tốt các
mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ; mặt khác, nhằm sửa chữa, khắc phục
những khuyết tật vốn có của KTTT, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị

trường mà không vi phạm cơ chế tự đIều chỉnh ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó, Nhà
nước kiềm chế sưc mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị
trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của KTTT.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×