Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lao màng bụng ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.69 KB, 5 trang )

Lao màng bụng


Lao màng bụng là tình trạng tổn thương viêm đặc hiệu của màng bụng do vi khuẩn
lao Mycobacterium tuberculosis, thường là thứ phát sau ổ lao khác. Bệnh có thể
gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới, nhưng thường gặp nhiều ở tuổi thanh niên, ở nữ giới
gặp nhiều hơn ở nam
Trong giai đoạn sớm bệnh khó phát hiện vì lâm sàng mờ nhạt, các triệu chứng
nghèo nàn, còn ở giai đoạn cuối là sự quá phong phú ở những biểu hiện lâm sàng
do bệnh đã làm tổn thương các cơ quan khác. Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ
tiến triển phức tạp với nhiều biến chứng nặng nề có thể đe dọa tính mạng.
1. Biểu hiện lâm sàng của bệnh như thế nào?
Biểu hiện lâm sàng đa dạng từ nghèo nàn đến phong phú tùy theo thể bệnh và giai
đoạn của bệnh.
- Thể cổ trướng : Biểu hiện đầu tiên là sốt, thường sốt về chiều, có thể sốt cao 39 -
40oC hoặc sốt nhẹ từ 37,5 - 38oC, thậm chí có bệnh nhân không nhận ra là có sốt.
Kèm theo có ăn uống kém, chán ăn, đầy bụng, khó tiêu, mệt mỏi, gầy sút, đau
bụng âm ỉ với vị trí đau không rõ ràng, ra mồ hôi trộm, đại tiện phân táo lỏng thất
thường. Bụng to dần lên thường ở mức độ vừa, cảm giác tức nặng, khi thăm khám
có thể thấy những mảng chắc, rải rác khắp bụng. Ngoài ra có thể có hạch mềm, di
động, không đau ở dọc cơ ức đòn chũm (nếu có hạch thì cần phải kiểm tra xem có
lao hạch phối hợp không). Cũng có thể có tràn dịch màng phổi hoặc màng tim
phối hợp.
- Thể bã đậu hoá: Có các triệu chứng tương tự như thể cổ trướng nhưng bệnh nhân
thường sốt nhẹ về chiều hoặc không sốt. Triệu chứng rối loạn tiêu hoá rầm rộ hơn:
thường đau bụng, chướng hơi, sôi bụng, đi ngoài phân lỏng, màu vàng. khi thăm
khám có thể thấy vùng cứng xen kẽ vùng mềm, ấn tay vào vùng cứng có thể nghe
thấy tiếng lọc sọc của hơi di động trong ruột. Ở thể này, đôi khi có vùng dính cứng
lớn ở các vị trí đặc biệt như hạ sườn phải, vùng hạ vị thì dễ nhầm với gan to hoặc
khối u trong ổ bụng.
- Thể xơ dính: Rất hiếm gặp thường xơ dính toàn bộ phúc mạc với các tạng trong ổ


bụng.Thể này thường diễn biến nặng, dễ dẫn đến tử vong. Với các biểu hiện như
bụng chướng đau, trung tiện được thì đỡ đau nhưng cũng có thể có triệu chứng của
tắc ruột: đau bụng, chướng hơi, bí trung đại tiện. Khi thăm khám thấy
bụng cứng, lõm lòng thuyền, khi sờ khó xác định được các tạng trong ổ bụng, chỉ
thấy các khối cứng, dài, nằm ngang như những sợi thừng (do mạc nối lớn xơ cứng
lại).
2. Con đường đưa vi khuẩn lao vào trong màng bụng?
Vi khuẩn lao vào trong màng bụng và gây tổn thương chủ yếu theo 4 con đường:
Từ hạch mạc treo bị lao, vi khuẩn lao lan tràn theo đường bạch huyết hoặc đường
tiếp cận tới màng bụng.
Lan tràn từ ống Fallop bị lao tới màng bụng, điều này giải thích tại sao tỷ lệ nhiễm
lao màng bụng ở nữ giới lại cao hơn.
Từ lao hồi manh tràng hoặc lao ruột non, lan tràn qua thành ruột tới màng bụng.
Lan tràn bằng đương máu từ các tổn thương lao ở xa.
Điều kiện thuận lợi cho lao phát triển là nghiện rượu nặng, suy giảm miễn dịch ,
làm việc quá sức nhát là trong điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu ăn nhất là thiếu đạm
và sinh tố.
3. Ta cần làm các xét nghiệm gì để chẩn đoán?
Khi bệnh nhân có các biểu hiện nghi ngờ bị lao màng bụng, sẽ được chỉ định làm
các xét nghiệm thường quy như xét nghiệm máu (bạch cầu tăng nhất là
Lymphocyt), làm phản ứng Mantoux, xét nghiệm dịch cổ trướng nếu có, soi ổ
bụng và sinh thiết màng bụng.
Trong đó soi màng bụng là một xét nghiệm có giá trị rất cao trong chẩn đoán, khi
soi ổ bụng có thể thấy các hạt lao như hạt kê trên phúc mạc thành và phúc mạc
tạng, trắng đục, bóng sáng, rải rác hoặc tụ thành đám. Đám dính che lấp các tạng,
dải dính ở hố chậu hoặc quai ruột với thành bụng.
Xung huyết nhiều ở quai ruột và phúc mạc. Ngoài ra tùy theo điều kiện có thể làm
các xét nghiệm miễn dịch gắn men ( ELISA: Enzyme linked Immuno Sorbent
Assay ), kỹ thuật sinh học phân tử PCR ( Polymeraza Chain Reation ) các kỹ thuật
này cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.

4. Nếu không điều trị kịp thời biến chứng nào có thể xảy ra?
Tùy theo giai đoạn và thể bệnh mà có thể gây ra các biến chứng khác nhau
- Thể cổ trướng: Là thể nhẹ nhất, nếu được điều trị sớm, đúng phác đồ thì đa số
khỏi. Nếu không được điều trị tốt thì sẽ chuyển nhanh sang thể bã đậu hoá hoặc xơ
dính hoá.
- Thể bã đậu hoá: thể này có thể gây ra những ổ áp xe địa phương và có thể vỡ
gây rò mủ ra thành bụng hoặc rò vào đại tràng chất bã đậu theo phân ra ngoài.
- Thể xơ dính: Vì xơ dính với các đoạn ruột nên có thể làm thắt ruột, gây hội
chứng bán tắc hoặc tắc ruột phải can thiệp bằng ngoại khoa.Ngoài ra thể xơ dính
còn có thể gây viêm dính quanh gan, mật, viêm tắc vòi trứng.
5. Điều trị như thế nào?
Tùy theo điều kiện có thể sử dụng các thuốc như Streptomyxin, Rimifon (INH),
Pyrazinamid, Rifampyxin, Ethambutol, Ethionamid, Cycloserin, Kanamyxin,
Thioacetazon. Việc sử dụng phối hợp thuốc như thế nào là tùy thuộc vào thể bệnh
và giai đoạn của bệnh, nhất thiết phảI có ý kiến của bác sỹ, bạn không nên tự ý
dùng thuốc. Ngoài chế độ dùng thuốc cần kết hợp chế độ ăn giàu đạm và sinh tố.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×