Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về tốc độ tăng trưởng của nhà máy bia phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.47 KB, 19 trang )

Trang 20

Nền kinh tế xã hội ngày một phát triển, đời sống của nhân dân ngày một
nâng cao nên sản phẩm với chất lượng cao, mẫu mã đẹp ngày càng được ưa
chuộng. Thực tế cho thấy, khúc dạo đầu của chất lượng sản phẩm rất quan trọng,
lần đầu tiên sản phẩm xuất hiện trên thị trường, chỉ cần một vài người tiêu dùng
nếu thấy chất lượng sản phẩm đảm bảo độ tin cậy cho họ thì họ sẽ tiếp tục dùng.
Không những thế " Tiếng lành đồn xa", chẳng bao lâu người tiêu dùng sản phẩm
sẽ tăng lên đáng kể, chất lượng sản phẩm đương nhiên sẽ trở thành một công cụ
quảng cáo hữu hiệu, rẻ tiền gây uy tín cho Công ty. Ngoài ra, chất lượng sản
phẩm giúp cho người mua, mua mạnh dạn ít nghĩ tới giá cả, miễn là thoả mãn
được nhu cầu của họ.
Ngược lại, nếu chất lượng sản phẩm tồi thì giá có rẻ đến mấy vẫn không có
hoặc có thì rất ít người mua, sản phẩm bị tồn kho làm ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất của Công ty.
Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm là việc làm hết sức cần thiết, nó vừa
đem lại quyền lợi cho doanh nghiệp, vừa lợi cho khách hàng, vừa lợi cho xã hội.
Nói như vậy có nghĩa rằng chất lượng là một trong những yếu tố không kém
phần quan trọng để mở rộng thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp hiện nay.

3. ảnh hưởng của giá cả tiêu thụ
Giá cả tiêu thụ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ta có thể phân chúng thành
hai loại chính sau:
3.1. Nhóm các yếu tố khách quan
Giá cả phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu. Nếu cung trên thị trường lớn hơn
cầu thì giá giảm và ngược lại giá giảm sẽ kích thích cầu nhưng lại hạn chế cung.
Quan hệ này tồn tại một cách độc lập không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì phải có chính
sách giá cả hợp lý xuất phát trên cơ sở cung - cầu.
Giá cả phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, trong cơ chế mới
này để thoả mãn nhu cầu của khách hàng có hàng trăm, hàng nghìn loại sản


Trang 21

phẩm có thể thay thế nhau xuất hiện trên thị trường, cạnh tranh xẩy ra là lẽ
đương nhiên.
Vì mục tiêu sản xuất là để bán nên các doanh nghiệp đã sử dụng giá cả như
một thứ vũ khí lợi hại. Cạnh tranh sẽ làm giảm giá nhưng chi phí yểm trợ cho
bán hàng lại tăng lên. Kết quả là người tiêu dùng có lợi nhưng doanh nghiệp lại
tổn thương. Để chiến thắng trên thương trường đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư
vốn mạnh cho công tác yểm trợ.
3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan.
Chi phí sản xuất bao gồm các chi phí vật tư, nguyên vật liệu, năng lượng,
thiết bị nhà xưởng Tổng hợp chi phí đặc biệt là chi phí cho đơn vị sản phẩm
vừa tác động đến giá cả, lại vừa chịu tác động của giá cả do khối lượng sản phẩm
bán ra nhiều hay ít. Khi xây dựng chính sách giá cả, doanh nghiệp cần quan tâm
đến vấn đề này. Việc tạo ra nguồn đầu vào là do biết địa điểm mua hoặc do dùng
sản phẩm thay thế nhưng vẫn đảm bảo chất lượng là hết sức cần thiết làm giảm
giá thành sản phẩm, khuyến khích khách hàng tiêu dùng.
Sản phẩm bia là loại nhu cầu mềm. Nó chịu tác động mạnh của giá cả, nếu
đắt thì họ sẽ không mua hoặc hạn chế mua. Vì vậy để mở rộng và chiếm lĩnh thị
trường cần đặc biệt quan tâm tới giá cả của sản phẩm, nghiên cứu kỹ tới những
tác động cơ bản để có những biện pháp phù hợp.

4. ảnh hưởng của phương thức tiêu thụ
Phương thức tiêu thụ là yếu tố cần thiết giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị
trường. Tuỳ từng mặt hàng, khối lượng mặt hàng mà ta lựa chọn các phương
thức tiêu thụ khác nhau. Nếu căn cứ vào quá trình vận động hàng hoá từ người
sản xuất đến người tiêu dùng, người ta chia phương thức phân phối - tiêu thụ
thành các loại sau đây:
4.1. Phương thức tiêu thụ trực tiếp
Là phương thức nhà sản xuất bán trực tiếp sản phẩm của mình cho người

tiêu dùng bằng cách mở cửa hàng bán và tiêu thụ sản phẩm, tổ chức dịch vụ tiêu
Trang 22

thụ sản phẩm của doanh nghiệp đối với sản phẩm nội địa. Còn đối với hàng xuất
khẩu, nếu được phép doanh nghiệp giao thẳng cho các tổ chức xuất khẩu hoặc
người xuất khẩu nước ngoài hoặc đại lý xuất khẩu nước ngoài ở nước ta. Phương
thức này thường được sử dụng cho sản phẩm đơn chiếc, giá trị cao, chu kỳ sản
xuất dài hoặc sản xuất có tính chất phức tạp, khi sử dụng đòi hỏi phải có hướng
dẫn chi tiết hoặc có những sản phẩm chỉ bán trong phạm vi tập trung hẹp.
Phương thức này có ưu điểm là doanh nghiệp trực tiếp quan hệ với người tiêu
dùng và thị trường, doanh nghiệp biết rất rõ nhu cầu của thị trường và tình hình
giá cả, hiểu rõ tình hình bán hàng, do đó có khả năng thay đổi kịp thời sản phẩm
và phương thức bán hàng. Tuy nhiên nó còn có nhược điểm là hoạt động phân
phối tiêu thụ được diễn ra với tốc độ chậm, phương thức thanh toán phức tạp, rủi
ro lớn.
4.2. Phương thức tiêu thu gián tiếp
Là hình thức tiêu thụ, người bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng
cuối cùng thông qua các khâu trung gian như: Người bán buôn, đại lý, người bán
lẻ Phương thức tiêu thụ này thường được áp dụng với các loại sản phẩm đòi
hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đặc biệt, chuyên dùng hoặc loại sản phẩm
được sản xuất tập trung ở một hoặc một số nơi nhưng cung cấp cho người tiêu
dùng ở nhiều nơi trên diện rộng.
Phương thức này có ưu điểm là việc phân phối tiêu thụ được tiến hành
nhanh chóng, công tác thanh toán đơn giản, rủi ro ít. Nhưng có nhược điểm là
không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, không kiểm soát được giá
bán.
4.3. Phương thức hỗn hợp
Thực chất của phương pháp này là tận dụng ưu điểm của hai phương pháp
trên và hạn chế nhược điểm của nó. Nhờ phương thức này công tác tiêu thụ sản
phẩm diễn ra một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Muốn bán được nhiều hàng,

các doanh nghiệp phải chủ động đến với khách hàng và trở hàng đến cho họ.
Trang 23

Cách bán hàng như vậy gọi là cách bán hàng tại áp biên. Còn nhiều chiến lược
nữa là bán hàng thông qua quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
Việc lựa chọn, áp dụng đúng kênh tiêu thụ có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Nếu lựa chọn đúng kênh tiêu thụ sản phẩm thì lượng hàng hoá tiêu thụ rất nhanh
và nhiều, làm tăng doanh thu, đây cũng là một hình thức giúp doanh nghiệp phát
triển thị trường.

5. ảnh hưởng của phương thức thanh toán.
Phương thức thanh toán nhanh gọn, đảm bảo chắc chắn và an toàn sẽ thu
hút được nhiều khách hàng hơn. Ngược lại, những quy định chung về tài chính
quá chặt chẽ, rườm rà, thêm vào đó thủ tục giấy tờ quá nặng nề qua nhiều khâu
trung gian đã gây ức chế lớn về mặt tâm lý của khách hàng, gây mất thời gian
không cần thiết. Vì vậy, nơi có phương thức thanh toán thuận lợi sẽ đượckhách
hàng tự tìm đến. Hơn nữa hoạt động thanh toán không đảm bảo an toàn cũng là
một cản trở lớn đối với khách hàng trong việc tiếp cận với sản phẩm của Công
ty.

6. ảnh hưởng của công tác yểm trợ trong tiêu thụ hàng hoá
Công tác yểm trợ trong tiêu thụ là nhân tố hết sức quan trọng trong việc
chiếm lĩnh và phát triển thị trường. Nó bao gồm rất nhiều khâu, trong đó quảng
cáo là khâu ảnh hưởng rất lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Mục đích của quảng cáo là tăng cường công tác tiêu thụ, thu hút sự quan
tâm của khách hàng đối với sản phẩm, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tiêu thụ
sản phẩm, giới thiệu sản phẩm mới, tác động một cách có ý thức đến người tiêu
dùng. Vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp, khi tiến hành quảng cáo cần định hướng
nhằm và ai ? Cần phải tác động đến ai ? Nghĩa là cần phải xác định được nhóm

đối tượng mục tiêu đón nhận quảng cáo Phương tiện, hình thức quảng cáo nào,
thời điểm quảng cáo nào để thu hút được nhiều đối tượng mục tiêu nhất. Như
Trang 24

vậy quảng cáo phải có tính nghệ thuật, phải kích thích nhu cầu của đối tượng
được quảng cáo. Điều quan trọng của quảng cáo là phải có tính thiết thực phù
hợp với mọi người, mang nhiều ý nghĩa, quảng cáo ít nhưng nói hết được những
ưu điểm của sản phẩm. Khi tiến hành quảng cáo, các doanh nghiệp phải tính toán
chi phí quảng cáo, đồng thời phải dự đoán được hiệu quả từ quảng cáo đem lại.
Tất cả những nhân tố nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau nên đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách đồng bộ, không thể tách
rời nhau được. Tuy vậy trong từng phân đoạn thị trường khác nhau, mức độ và
ảnh hưởng của mỗi nhân tố là khác nhau, ta không thể áp dụng được máy móc,
một chính sách chung, đồng loạt cho mọi nơi, mọi chỗ, cho tất cả các sản phẩm.
Nói tóm lại, thời kỳ mở cửa nền kinh tế, vạn vật thay đổi, để vững vàng
trong cơ chế mới, doanh nghiệp cần phải áp dụng mở rộng thị trường thông qua
hoạt động chiếm lĩnh. Nhưng quy luật tự nhiên đã chứng minh rằng: Đã chấp
nhận kinh doanh là chấp nhận rủi ro. Vì vậy " Máu" kinh doanh tiếp sức cho các
doanh nghiệp luôn có tư tưởng làm " Bá chủ", cạnh tranh ắt xảy ra. Để dành
thắng lợi cần sáng suốt lựa chọn con đường tiếp cận nhanh chóng với khách
hàng. Xong để tiếp cận được với khách hàng không phải Công ty nào cũng làm
được. Điều tra nghiên cứu nhu cầu của khách hàng theo từng vùng, từng độ tuổi,
mức thu nhập không phải dễ dàng. Cần phải mạnh dạn đầu tư lớn và biết cách
lựa chọn những thông tin chính xác, kịp thời. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải
biết khả năng của mình để lựa chọn những phần, những đoạn thị trường của
mình, những loại sản phẩm cho phù hợp.








Trang 25





Trang 26

Chương II
Khảo sát thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty Bia Hà nội

I. Sự ra đời và phát triển của Công ty Bia Hà nội.
* Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty Bia Hà nội nằm ở 70A Hoàng Hoa Thám, phường Ngọc Hà - Quận
Ba Đình - Hà nội. Công ty Bia nằm trong Bộ công nghiệp quản lý. Công ty đươc
thành lập từ năm 1890 do một người chủ tư sản Pháp tên là Homel đứng ra đầu
tư xây dựng dưới dạng nhà máy. Mục đích chính là kinh doanh kiếm lời và phục
vụ nhu cầu cho quân viễn chinh Pháp và lính đánh thuê tại Việt Nam.
Năm 1954, Pháp thua trận phải về nước, Nhà máy được chuyển quyền sở
hữu sang Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Trong những năm 1954 - 1957
hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn vì chưa có đội ngũ cán bộ lành nghề
cùng với hầu hết máy móc đã bị thu hồi về Pháp, một số ít còn lại cũ nát và hư
hỏng. Đứng trước khó khăn về thiết bị máy móc, nguyên liệu (men, nước, đại
mạch ) nhưng anh chị em cán bộ vẫn quyết tâm khắc phục nhà máy. Ngày
15/8/1957 Chính phủ ra quyết định khôi phục lại nhà máy với sự giúp đỡ của các
chuyên gia Tiệp khắc, CHLB Đức. Ngày 15/8/1958 Nhà máy đã nấu thử mẻ bia
đầu tiên, sản phẩm bia chai mang nhãn hiệu Trúc Bạch ra đời. Trong năm đó sản

lượng đạt 300.000 lít. Từ đó đến nay, nhà máy được mang tên là Nhà máy Bia
Hà nội và phát triển qua các giai đoạn chủ yếu sau:
* Giai đoạn 1: (1958-1981).
Công ty hạch toán theo hình thức hạch toán độc lập với mô hình nhà máy
trực thuộc Bộ chủ quản là Bộ công nghiệp nhẹ. Trong thời gian sản phẩm Nhà
máy sản xuất là bia chai, bia hơi và các loại nước ngọt giải khát đóng chai. Khi
mới khôi phục lại, Nhà máy chưa có người nào được đào tạo qua trường lớp.
Trong giai đoạn này, năng suất lao động của một công nhân hàng năm tăng 4%,
các khoản lợi nhuận và tích luỹ đều nộp đầy đủ và đúng kỳ. Sản lượng bia của
Trang 27

Công ty không ngừng tăng, năm 1981 đạt 20 triệu lít/năm. Nhiệm vụ của Công
ty chủ yếu là sản xuất mà không phải lo các yếu tố đầu vào và đầu ra.
* Giai đoạn 2: (1982-1989).
Công ty hoạt động theo hình thức hạch toán phụ thuộc với mô hình xí
nghiệp thuộc liên hiệp xí nghiệp Rượu - Bia - Nước giải khát I. Trong giai đoạn
này nhờ sự giúp đỡ của CHLB Đức, Công ty đã được đầu tư xong bước 1 đưa
công suất của Công ty lên 40 triệu lít/năm. Đến năm 1988 tổng số cán bộ công
nhân viên của Công ty là 530 người, trong đó có 25 cán bộ trung cấp, kỹ sư, bình
quân bậc thợ là 3,2/6.
* Giai đoạn 3: (1989-1993).
Nhà máy hoạt động theo hình thức độc lập. Nhà máy đã lắp đặt và hoàn
thiện hai dây truyền chiết bia chai (10.000 chai và 15.000 chai/giờ). Hoàn tất hệ
thống lên men ngaòi trời, hệ thống tinh khiết CO
2
, đầu tư cả dây truyền bia lon.
Tuy nhiên giai đoạn này không tăng do phụ thuộc vào nhà nấu.
* Giai đoạn 4: (1993 đến nay).
Ngày 9/12/1993 theo quyết định số 388/HĐBT nhà máy bia Hà nội được
đổi tên thành Công ty bia Hà nội để phù hợp với tính chất và quy mô hoạt động

sản xuất kinh doanh của mình. Từ tháng 11 năm 1995 đến nay, Công ty hoạt
động theo hình thức hạch toán độc lập với mô hình Công ty trực thuộc Tổng
Công ty Rượu - Bia - Nước giải khát. Từ năm 1997 đến nay Công ty đang tiếp
tục đầu tư bước tiếp theo về máy móc thiết bị mới để tăng công suất từ 50 triệu
lít/năm lên 100 triệu lít/năm.

Trang 28

II. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng tới việc ổn định và
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của
Công ty Bia Hà nội.
1. Đặc điểm cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của Công ty.
* Cơ cấu quản lý của Công ty theo kiểu trực tuyến chức năng và theo chế
độ một thủ trưởng. Toàn bộ Công ty có 8 phòng ban và 2 phân xưởng. Bộ máy
lãnh đạo của Công ty gồm một Giám đốc, hai Phó giám đốc, các trưởng phòng
ban và các quản đốc phân xưởng.
+ Giám đốc là người nắm toàn bộ quyền hành, chỉ đạo chung toàn Công ty,
chịu trách nhiệm quản lý mọi mặt hoạt động trên cơ sở chấp hành đúng các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất: Là người chịu trước giám đốc về toàn bộ
việc thực hiện kế hoạch sản xuất và công tác kỹ thuật từ thiết kế, chế thử, chuẩn
bị sản xuất, tổ chức và cân đối dây truyền sản xuất, hoàn thiện và đổi mới
phương pháp công nghệ đến khâu thành phẩm. Phó giám đốc còn có nhiệm vụ tổ
chức hợp lý hoá sản xuất, xét nghiệm, đo lường, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật, đồng thời còn thực
hiện hợp tác nghiên cứu khoa học - công nghệ với các đơn vị bên ngoài.
+ Phó giám đốc kinh doanh: phụ trách mảng đổi ngoại từ việc sản xuất, liên
doanh liên kết công tác mua vật tư, tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
+ Các phoàng là các bộ phận chức năng của Công ty, được phân công
chuyên môn hoá theo chức năng quản trị, có nhiệm vụ giúp Giám đốc và Phó

giám đốc chuẩn bị các quyết định, theo dõi hưỡng dẫn các phân xưởng thực hiện
đúng đắn, kịp thời các quyết định quản lý.
* Cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty Bia Hà Nội được tổ chức theo kiểu:
Công ty - phân xưởng - tổ sản xuất - nơi làm việc.
Các bộ phận sản xuất được tổ chức theo hình thức công nghệ. Loại hình sản
xuất của Công ty là loại hình sản xuất khối lượng lớn, phương pháp tổ chức sản
xuất là phương pháp dây truyền liên tục từ khi nấu cho đến khi thu được bia
thành phẩm.
2. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh của Công ty
Trang 29

Đối với mọi Nhà nước sản xuất kinh doanh, điều họ quan tâm đầu tiên và
nhiều hơn cả là chính bản thân sản phẩm của họ có được thị trường chấp nhận
tiêu thụ hay không? có hợp lý thị hiếu hay không? Chỉ khi các sản phẩm của họ
làm ra được thị trường chấp nhận thì họ mới có căn cứ cụ thể để xác định lên
các yếu tố khác. Công ty Bia Hà Nội với lợi thế là đã tạo cho sản phẩm của mình
một hương vị rất riêng, không giống với bất kỳ loại bia nào khác trên thị trường
nên đã dễ dàng được thị trường chấp nhận. Hiện tại Công ty đã cung cấp cho thị
trường ba loại sản phẩm: Bia lon, bia chai, bia hơi mang nhãn hiệu "Hà Nội".
Bia lon Hà Nội: được đóng trong lon nhôm, dung tích 0,33 lít, đậy nắp đảm
bảo vệ sinh an toàn, bảo quản chắc chắn, thời hạn sử dụng một năm, thuận tiện
cho việc vận chuyển đi xa. Đây là loại bia cao cấp (theo quan niệm của người á
Đông) nên người tiêu dùng chú trọng hơn đến chất lượng, hình thức, mẫu mã và
uy tín của loại bia này. Tuy nhiên, Công ty Bia Hà Nội chưa thực sự làm nó nổi
bật, lưu lại hình ảnh trong tâm trí khách hàng, nên doanh số bán ra chưa cao.
Bia chai Hà Nội: được chiết vào chai thuỷ tinh, dung tích 0,5 lít, được dán
giấy, bảo đảm vệ sinh an toàn, bảo quản tốt trong thời hạn sử dụng 90 ngày. Bia
chai Hà Nội được đựng trong két nhựa, rất thuận tiện cho việc vận chuyển đi xa.
Hiện tại nó là một loại sản phẩm mũi nhọn của Công ty và đang đáp ứng một
cách mạnh mẽ nhu cầu tiêu dùng của thị trường.

Bia hơi Hà Nội: là loại bia tươi mát, được mọi người tiêu dùng ưa thích
nhưng lại khó vận chuyển đi xa. Thời gian vận chuyển bảo quản của loại bia này
rất ngắn (24 giờ) nên chỉ được tiêu thụ chủ yếu ở Hà Nội và một số ít các tỉnh lân cận.
Hiện tại các loại bia trên được sản xuất trên hai dây truyền hiện đại, thiết bị
đóng lon, chiết chai hoàn toàn tự động với công suất 7.500 lon/giờ và 15.000
chai/giờ. Hàng năm Công ty có thể đưa ra thị trường 50 triệu lít bia. Mặc dù có
công suất lớn như vậy nhưng Công ty bia Hà Nội vẫn thường xuyên bị "cháy"
hàng, nhất là các dịp hè oi bức.
Là loại mặt hàng thực phẩm tươi sống, có ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu
dùng, nên các sản phẩm của Công ty bia Hà Nội được kiểm định rất khắt khe. Từ
Trang 30

khâu đầu đến khâu cuối phải trải qua 3 lần lọc và chiết lọc sau đó phải trải qua
thanh trùng để diệt men gây chua còn lại và diệt các vi sinh vật có hại đến sức
khoẻ con người. Đối với từng mẻ, hàng ngày phòng KCS phân tích mẫu bia bán
thành phẩm, có đúng tiêu chuẩn mới cho phép xuất xưởng. Hàng tháng Công ty
gửi mẫu về trung tâm chất lượng quốc gia để phân tích chỉ tiêu lý hoá, vệ sinh và
độ dinh dưỡng xem có đủ tiêu chuẩn quy định hay không? vì luôn thực hiện các
tiêu chuẩn về chất lượng cho nên chất lượng sản phẩm của Công ty luôn được
đảm bảo, gây niềm tin trong giới tiêu dùng và được thị trường ưa chuộng.
Không dừng lại chất lượng hiện có, Công ty bia Hà Nội vẫn không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó chất lượng sản phẩm của Công ty bán ra
trên thị trường ngày càng cao, không ngừng thu hút người tiêu dùng sử dụng sản
phẩm của mình. Gắn liền với chất lượng sản phẩm là mẫu mã, bao bì. Bao bì sản
phẩm cũng là một tiêu chuẩn chất lượng, nó làm tăng giá trị sản phẩm. bao bì
càng hoàn thiện thì vừa bảo vệ được hàng hoá trong quá trình lưu trữ, luân
chuyển vừa thực hiện được chức năng thông tin cho khách hàng về sản phẩm và
nhà sản xuất. Những mẫu sản phẩm đẹp, hài hoà, hợp thị hiếu sẽ có sức lôi cuốn,
hấp dẫn người tiêu dùng. Trong thời đại ngày nay, nhãn mác được coi là một
công cụ sắc bén trong cạnh tranh, góp phần làm tăng tốc độ lưu thông hàng hoá

trên thị trường.
Công ty bia Hà Nội từ khi thay thế dây chuyền sản xuất bia lon mới năm
1997 đã chọn mầu xanh làm biểu tượng của sản phẩm. Mầu xanh phản ánh sinh
động của biển cả và bầu trời mênh mông vô tận, mầu xanh đưa con người đến
với thiên nhiên. đồng thời mầu xanh cũng thể hiện sự lạc quan, mạnh mẽ và
quyết đoán, năng động và hướng về tương lai. Nhưng cho đến nay Công ty bia
Hà Nội vẫn chưa thực sự làm xuất hiện được mầu xanh này trong dân chúng vẫn
chưa đánh bại được màu tím than của Tiger, màu xanh lá cây của Carlsbeg. Hơn
nữa nền xanh biểu hiện của sự mền mại lại đi kèm với chữ Hà Nội thanh và cứng
không tạo được cảm tình như chữ Carlsbeg hoa lá cành trong nền xanh. Đây là
một điểm bất lợi lớn trong Công ty bia Hà Nội trong việc duy trì và mở rông thị
Trang 31

trường, nhất là khi Công ty chọn sản phẩm bia lon làm sản phẩm mũi nhọn trong
tương lai.
3. Đặc điểm về lao động của Công ty.
* Đặc điểm cơ cấu lao động của Công ty.
Một điều đáng lưu ý là sản phẩm của Công ty mang tính thời vụ nhưng hiện
tạo kinh doanh của Công ty lại tương đối ổn định vì sản xuất của Công ty còn ít,
sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó, vào mùa đông lại đúng là mùa cưới nên
doanh số bán ra không bị giảm mạnh. Vì vậy lao động của Công ty biến động rất
nhỏ. Tuy nhiên, Công ty cần lưu ý khi sản xuất với quy mô lớn đủ để ảnh hưởng
đến lượng khách hàng nhất định thì đặc điểm lao động của Công ty lục này lại
mang tính thời vụ.

Biểu số 1: Cơ cấu lao động của Công ty bia Hà Nội.

1998 1999 2000
STĐ % STĐ % STĐ %
Tổng số lao động 695 100 672 100 671 100

1. Đại học 72 10,4 70 10,4 84 12,5
2. Trung cấp 30 4,32 30 4,46 45 6,71
3. Phổ thông 593 85,3 572 85,1 542 80,8

Qua biểu trên ta thấy, tỉ lệ cán bộ công nhân có trình độ đại học năm 2000
chiếm 12,5% tỉ lệ này tương đối thấp. Trong khi đó số cán bộ công nhân viên có
trình độ phổ thông lại chiếm tỉ lệ rất cao chiếm khoảng trên 80%. Để đáp ứng
nhu cầu đổi mới công nghệ trong những năm tới thì Công ty cần phải có kế
hoạch về công tác đào tạo và đào tạo lại, tuyển chọn thêm các kỹ sư mới ra
trường.
Để động viên cán bộ công nhân viên toàn Công ty đẩy mạnh sản xuất, Công
ty thực hiện trả lương theo doanh thu. Để việc trả lương được công bằng Công ty
N
ă
m

Ch


Trang 32

đang phối hợp với viện nghiên cứu lao động của Bộ công nghệ nghiên cứu quy
chế trả lương phù hợp với việc làm của người lao động.
Công ty cũng rất quan tâm đến điều kiện vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động.
Cụ thể là:
- Duy trì được mạng lưới an toàn lao động.
- Mua đầy đủ trang thiết bị bảo vệ lao động và phát tận tay người lao động.
- Tổ chức một giảng viên về giảng công tác an toàn lao động cho toàn thể
cán bộ công nhân viên để họ thấu hiểu được vai trò quan trọng của công tác an
toàn lao động để thực hiện tốt nhiệm vụ.


4. Đặc điểm nguyên liệu và vốn.
4.1. Đặc điểm nguyên liệu.
Nguyên liệu sản xuất bia được chia thành nhóm nguyên liệu chính và nhóm
nguyên liệu phụ.
* Nguyên liệu chính: Gồm men, Malt, hoa Houblon, gạo và đường.
- Malt: là một loại hạt đại mạch nẩy mầm được phơi khô.
- Hoa Houblon: Có vai trò quan trọng trong việc tạo nên hương thơm và vị
đắng đặc trưng của bia.
Hai loại nguyên liệu này được trồng ở xứ ôn đới, nước ta đã thử thí điểm
trồng nhưng cho năng xuất thấp. Hiện nay Công ty phải nhập ngoại hai loại
nguyên liệu này.
- Gạo và đường là hai loại nguyên liệu hỗ trợ cho Malt nhưng nó chỉ đóng
vai trò phụ liệu. Nguyên liệu này có sẵn ở Việt Nam, song để nâng cao chất
lượng bia thì phải tuyển chọn kỹ loại gạo và đường.
- Ngoài những nguyên liệu trên thì cần phải nói đến giống men đây được
coi là một bí quyết công nghệ của Công ty, giống men cũng là một yếu tố quan
trọng để tạo nên hương thơm, chất lượng bia. Giống men của Công ty được lưu
trữ hơn 100 năm, đây là giống men quý cần được bảo quản.

Trang 33



Biểu số 2: Biểu kết cấu nguyên liệu chính theo sản lượng mẻ nấu của bia Hà Nội.

Loại
bia
Sản
lượng

(1000 lít)

Malt
(kg)
Gạo
(kg)
Đường
(kg)
Hoa
Houblon
(khách
hàng)
Cao
hoa
(kg)
Bia hơi 400 2900 2000 800 20 3
Bia
chai
400 3100 2000 800 20 5
Bia lon 400 3100 2000 800 20 5

Qua bảng trên chúng ta thấy Malt và gạo chiếm một tỷ trọng rất lớn (gần
90%) trong thành phần cấu thành nên sản phẩm. Điều này chứng tỏ bia là một
loại nước giải khát có nhiều dinh dưỡng, rất bổ và kích thích tiêu hoá.
Trong những nguyên liệu để sản xuất ra bia thì không thể không nói đến
nước, nước là một nguyên liệu thiết yếu, không thể thiếu, mà trong bia nước
chiếm tới 98,2%, chất lượng của nguồn nước ảnh hưởng lớn tới chất lượng bia.
Hàm lượng Ca
++
và Mg

++
trong nước sẽ ảnh hưởng tới quá trình lên men và nấu.
Chính vì nguồn nước này mà sản phẩm bia của Công ty bia Hà Nội có một
hương vị đặc trưng mà không loại bia nào có được, đây chính là lợi thế về nguồn
nước của Công ty bia Hà Nội, do hàm lượng Ca
++
và Mg
++
rất thấp. Năm 2000
nhu cầu sử dụng nguyên liệu chính của Công ty tăng lên là: Malt (7,5kg/lít), gạo
(5kg/lít), đường (2kg/lít), cao hoa (0,01kg/lit), hoa viên (0,025kg/lít).
* Nguyên liệu phụ.
Để sản xuất ra sản phẩm bia thì ngoài nguyên liệu chính thì còn cần đến
nguyên liệu phụ. Vật liệu phụ dùng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm
được hoàn hoả hơn, tạo điều kiện để máy móc hoạt động bình thường. Vật liệu
phụ để sản xuất bia bao gồm:
Trang 34

- Xăng, dầu, các loại: dùng để vận chuyển bia, nấu bia.
- Mỡ, bột phấn chì, sơn các loại: Dùng để bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị.
- Xút, muối,nước Javen: Dùng làm vệ sinh, sát trùng bao bì.
- Nhãn bia: làm nhãn cho sản phẩm.
- Vỏ chai (0,5 lít), két nhựa: Dùng làm bao bì của bia chai.
- Thùng nhôm (100 lít) làm bao bì của bia hơi.
- Vỏ hộp, nắp hộp, cất tông, hồ dán: Làm bao bì cho bia lon, hộp bia.
- Hơi hàn, đất đèn: Dùng để sửa chữa thiết bị
Trong báo cáo tổng kết cuối năm của phòng cung ứng vật tư cho biết: lượng
vật tư, nguyên liệu dự trữ của Công ty bia Hà Nội có thể đảm bảo cho quá trình
sản xuất diễn ra bình thường trong 6 tháng liền. Thực tế cho thấy, nhiều năm
qua, Công ty làm được điều này là nhờ công tác khai thác trực tiếp nguồn

nguyên liệu từ nước ngoài hoặc thông qua các Công ty buôn bán trung gian uy
tín đối với các loại nguyên vật liệu chính nhập ngoại như: Malt, hoa Houblon.
Đối với các loại nguyên vật liệu nội địa, Công ty cố gắng thiết lập và giữ mối
quan hệ với các nhà cung cấp trong nước. Mặt khác Công ty xây dựng và duy trì
hệ thống kho bãi bảo quản đạt tiêu chuẩn đã góp phần làm cho công tác dự trữ
thuận lợi hơn.
Qua đây chúng ta thấy rằng, chuẩn bị tốt nguyên vật liệu là khâu vô cùng
quan trọng đối với dây truyền sản xuất và tiêu thụ không chỉ ở Công ty bia Hà
Nội mà còn quan trọng đối với tất cả các Công ty , xí nghiệp sản xuất khác.
Chuẩn bị tốt nguyên vật liệu giúp quá trình chế biến nhịp nhàng, đồng bộ, tránh
gián đoạn trong quá trình sản xuất và bảo đảm được mối quan hệ cung - cầu trên
thị trường, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng và uy tín sản phẩm đối với
các khách hàng.
4.2. Đặc điểm về vốn kinh doanh.
Vốn là yếu tố có ý nghĩa quyết định trong việc duy trì và phát triển sản xuất
kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Có dư vốn thì doanh nghiệp mới có thể chủ
động trong mọi hoạt động. Nắm bắt được yêu cầu đó, trong những năm qua, dù
Trang 35

nguồn vốn do Ngân sách cấp là rất nhỏ, nhưng Công ty luôn cố gắng đảm bảo
nguồn vốn để sản xuất. Nguồn vốn của Công ty bia Hà Nội được hình thành từ
hai nguồn chính đó là nguồn vốn tự có và nguồn vốn Ngân sách. Với đặc thù là
một doanh nghiệp sản xuất để kinh doanh, vì vậy trong cơ cấu vốn thì vốn cố
định chiếm tỉ trọng lớn, trên 70% tổng vốn. So với các Công ty liên doanh, thì
tiềm lực về vốn của Công ty bia Hà Nội kém hơn nhiều, do đó vốn đầu tư cho
việc củng cố và mở rộng thị trường là rất ít. Điều này làm cản trở nhiều sự phát
triển hoạt động kinh doanh của Công ty. Có nhiều kế hoạch, nhiều chiến lược đã
được đưa ra nhưng không thực hiện được chỉ vì chưa đủ vốn. Việc phân chia
tiềm lực vốn nhỏ bé đó cho các công việc kinh doanh cụ thể luôn là vấn đề nan
giải với Công ty. Nhưng khi so sánh với các Công ty sản xuất nội địa thì Công ty

bia Hà Nội lại là một Công ty có nguồn vốn khổng lồ và do đó rất dễ dàng cạnh
tranh được với các Công ty này.

Biểu số 3: Cơ cấu vốn của Công ty năm 1999.

STT Loại vốn Số lượng
(tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)


1.
* Vốn cố định
-Vốn ngân sách
-Vốn tự bổ xung
-Vốn vay
-Vốn chiếm dụng
187
63
16
66
34
100
34
10
35
21

2.
* Vốn lưu động
-Vốn ngân sách cấp

-Vốn tự bổ xung
33
29
4
100
88
12

5. Đặc điểm về máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất (Biểu số 16).
Trang 36

Trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão, thì việc đổi mới công nghệ
sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của khoa học là một điều cần phải
làm. Nhận thức như vậy, nên từ năm 1990, mặc dù số vốn đầu tư còn hạn hẹp
nhưng Công ty đã tiến hành hiện đại hoá công nghệ sản xuất bằng cách đổi mới
công nghệ từng phần.
Công ty liên tục thay thế các thiết bị cũ lạc hậu của Pháp để lại bằng các
thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến như: hệ thống lạnh của Nhật, hệ thống thu
hồi CO
2
của Đan Mạch, lò hơi của Ba Lan đặc biệt Công ty không gần ngại
đầu tư để mua ba dây chuyền hiện đại của CHLB Đức gồm: Một dây chuyền
chiết lon công suất 7500 lon/giờ và một dây chuyền chiết chai công suất 15.000
chai/giờ và 10.000 chai/giờ.
Do không ngừng học hỏi, tiếp thu công nghệ mới trên thế giới, nên chất
lượng sản phẩm của Công ty bia Hà Nội tương đương với sản phẩm được sản
xuất ở nước ngoài và dĩ nhiên vượt xa so với chất lượng bia nội địa.
Ngoài ra, Công ty còn có hệ thống nhà xưởng, kho tàng với tổng diện tích
1.500m
2

, trang bị 78 quạt chống nóng, hai hệ thống quạt thổi khí lạnh đội vận
tải gồm 3 xe con, 1 xe ca, 14 xe tải, 5 xe nâng hàng Công ty đã thực hiện sửa
chữa, cải tạo hầm lên men cũ, đầu tư phụ tùng dự phòng thay thế, sửa chữa cải
tạo nhà kho 3 tầng. Hiện tại Công ty đang lắp đặt hệ thống lò hơi đốt dầu thay
thế lò hơi đốt than, vừa để giảm ô nhiễm môi trường, vừa làm tăng công suất hơi
nóng, tăng sản lượng. Tiếp theo đó là đầu tư xây dựng, lắp đặt hệ thống xử lý
nước, lắp đặt máy phát điện 1.000 KVA Điều đáng nói là việc đầu tư xây dựng
và sản xuất kinh doanh tuy được tiến hành trên cùng một mặt bằng nhưng không
ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của việc sản xuất kinh doanh. Có thể nói đây là lỗ lực
cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên toàn Công ty trong những năm qua.
Với hệ thống máy móc thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện nay, Công ty bia
Hà Nội là niềm tự hào của toàn ngành và là niềm mơ ước của nhiều đơn vị sản
xuất bia trong nước.
Trang 37

Cùng với sự tăng lên về số lượng là sự tăng lên về chất lượng. Trước đây,
bia Hà Nội trong, mầu vàng sánh, mùi thơm đặc trưng của Malt và hoa Houblon,
hương vị đậm đà, không có vị lạ. Khi rót ra cốc bọt cao 1,5cm, thời gian tan bọt
là 1 phút. Sau khi đổi mới công nghệ bia Hà Nội mầu vàng sánh, trong, mùi
thơm đặc trưng của Malt và hoa Houblon, đắnh dịu, đậm đà không có vị lạ. Khi
rót ra cốc bọt cao 3cm, thời gian tan bọt là 3 phút. Cũng nhờ đổi mới công nghệ
mà độ chua trong bia đã giảm từ 1,53g/lít xuống còn 1,2g/lít. Hàm lượng cồn
tăng từ 2,5% lên 3% và hàm lượng CO
2
tăng từ 3g/lít lên 5g/lít. Theo đánh giá
của người tiêu dùng thì sản phẩm của Công ty bia Hà Nội có phần đậm hơn sản
phẩm của các Công ty bia khác, nếu Công ty biết khai thác điểm này trong quảng
cáo thì có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn.
6. Đặc điểm quy trình sản xuất của Công ty bia Hà Nội.
Quy trình này được chia thành các giai đoạn:

* Giai đoạn nấu:
Nguyên liệu là Malt, gạo, hoa Houblon và đường được đưa vào sản xuất bia
theo một tỷ lệ nhất định phụ thuộc vào mục đích sản xuất loại bia thành phẩm
nào: Bia chai, bia lon, bia hơi.
* Giai đoạn lên men:
Là quá trình vi sinh nên để đạt chất lượng cao của bia thì phải chủ ý đến
men giống và nhiệt độ của quá trình lên men. Phương pháp lên men mà Công ty
đang sử dụng là lên men lạnh (từ 10
0
-12
0
C).
Giai đoạn lên men gồm có lên men chính và lên men phụ.
* Giai đoạn lọc bia thành phẩm:
Khi kết thúc lên men phụ sẽ lọc bia để loại bỏ các tạp chất hữu cơ và men
có trong bia để bia được trong và tăng thời gian bảo quản.
* Giai đoạn chiết bia là giai đoạn cuối cùng:
Sau khi lọc xong, bia được chiết vào vỏ và đóng hộp. Đối với bia chai thì
chiết vào chai thuỷ tinh, bia lon thì chiết vào vỏ lon bằng nhôm còn bia hơi thì
chiết vào thùng hay còn gọi là "bom".
Trang 38

Sơ đồ: Quy trình sản xuất bia ở Công ty bia Hà Nội (phần phụ lục).

7. Đánh giá chung ảnh hưởng của các đặc điểm kinh tế kỹ thuật tới ổn
định và mở rộng thị trường của Công ty bia Hà Nội.
Quá trình củng cố và mở rộng thị trường của Công ty bia Hà Nội đã gặp
không ít những khó khăn về các đặc điểm kinh tế kỹ thuật nhưng nhìn chung
Công ty bia Hà Nội đã có sự khắc phục tối đa những ảnh hưởng do các đặc điểm
đem lại. Điều này có thể được khẳng định qua nhận xét sau:

- Về tài chính: Công ty không có nợ dài hạn, mức tồn kho thấp, khả năng
huy động vốn cao.
- Về nhân sự: Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực tốt,
trình độ chuyên môn cao, có tinh thần yêu nghề gắn bó với Công ty. Công ty có
sự thù lao thoả đáng cho nhân viên.
- Về sản xuất: Công ty có máy móc trang thiết bị hiện đại, trình độ công
nghệ sản xuất cao, quy trình sản xuất nhanh chóng, hiện đại. Chi phí cho sản
xuất (có lợi thế về khấu hao).
- Về Marketting: sản phẩm của Công ty có chất lượng tốt, chủng loại sản
phẩm đa dạng, giá cả hàng hoá hợp lý với người tiêu dùng. nhưng điểm yếu của
Công ty là mẫu mã và mạng lưới phân phối sản phẩm.

8. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhìn vào biểu số 4 ta thấy:
* Về tổng doanh thu và tổng chi phí:
Tổng doanh thu của Công ty liên tục tăng qua các năm. Năm 1998 tổng
doanh thu là 380.025 triệu đồng. Năm 1999 tổng doanh thu tăng 6,31% so với
năm 1998, đạt 404.028 triệu đồng. Năm 2000 tổng doanh thu là 437.605 triệu
đồng tăng 8,31% so với năm 1999. Đồng thời doanh thu thuần của Công ty cũng
tăng lên. Doanh thu thuần năm 1999 so với năm 1998 tăng 11,11%. Năm 2000
so với năm 1999 doanh thu thuần tăng 9,58%. Tổng doanh thu tăng là kết quả

×