Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Giáo trình điều dưỡng part 10 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.86 KB, 22 trang )

Cấp cứu người lớn: Trường hợp nạn nhân còn tỉnh.
Người cứu đứng phía sau nạn nhân. Giúp nạn nhân cúi người về phía trước
đầu thấp hơn ngực. Một tay người cứu đỡ ngực nạn nhân. Dùng gốc bàn tay
đập mạnh vào phần giữa 2 xương bả vai 1-4 lần. Mỗi lần đập phải đủ mạnh
để làm bật dị vật ra ngoài. Hoặc có thể cho nạn nhân cúi người bụng dựa
trên thành ghế tựa, hai tay bám lấy mặt ghế. Người cứu đứng phía sau dùng
gốc bàn tay đập mạnh vào phần giữa 2 xương bả vai từ 1-4 lần.
Hình 194. Cấp cứu đối với người lớn
Trường hợp nạn nhân bất tỉnh:
Đặt nạn nhân nằm ngửa, làm thông đường thở và tiến hành hô hấp nhân tạo.
Nếu không có kết quả thì lại xoay nạn nhân đối diện với người cứu, ngực
dựa vào đùi người cứu, đầu nghiêng hắn về phía người cứu. Làm động tác
đập vào lưng như mô tả ở trên.
Chú ý:
Trước khi tiến hành động tác đập vào lưng thì phải kiểm tra miệng nạn nhân.
Tháo rǎng giả hoặc móc bất kỳ một thứ gì còn vướng lại trong miệng nạn
nhân. Sau mỗi lần đập lại kiểm tra miệng nạn nhân xem dị vật đã bật ra
chưa. Nếu dị vật đã bật ra miệng, thì móc dị vật ra ngoài. Nếu chưa thì làm
động tác cấp cứu.
Nếu nạn nhân ngừng thở hoặc bị tím tái thì phải tiến hành hô hấp nhân tạo
giữa mỗi lần vỗ hoặc đập vào lưng. Trong một số trường hợp dị vật có thể di
chuyển về phía trước (xuống sâu thêm) và lọt vào một nhánh phế quản chính
do tác động của hô hấp nhân tạo. Trong trường hợp này sẽ chỉ có một bên
phổi bị tắc và sự hô hấp có thể đảm bảo đầy đủ nhờ phổi bên kia. Nạn nhân
sẽ được xử trí lấy dị vật ra tại bệnh viện.
b) Phương pháp ép vào bụng (thủ thuật Heimlich).
Nguyên lý của phương pháp này là sức ép vào phía trên của bụng sẽ đẩy cơ
hoành lên trên và ép khí đọng ở trong phổi ra ngoài và như vậy có thể làm
bật dị vật ra ngoài bằng "ho nhân tạo".
Hình 195. Vị trí đặt tay để ép vào bụng (điểm đám rối dương)
Đối với người lớn và trẻ lớn:


Người cứu đứng phía sau nạn nhân, xiết chặt 2 tay với nhau ở điểm "đám rối
dương" khoảng giữa rốn và mũi ức, điểm X ở hình vẽ. Sau đó kéo mạnh 2
tay lên phía trên và vào trong. Lặp lại động tác vài ba lần.
Chú ý:
Nếu đặt tay sai vị trí có thể gây nên tổn thương các cơ quan ví dụ gan, lách,
dạ dày Nếu nạn nhân bất tỉnh thì cho nạn nhân nằm trên một mặt phẳng
chắc chắn, người cứu quỳ ở phía đùi nạn nhân 2 chân dạng ra hai bên và đặt
2 gốc bàn tay chồng lên nhau lên trên điểm đám rối dương, sau người cứu
ngả người về phía trước 2 tay vẫn giữ thẳng để ép vào bụng nạn nhân.
Đối với trẻ em (trẻ dưới 6 tuổi):
Người cứu ngồi đặt trẻ ngồi trên lòng nấm một bàn tay lại đặt lên giữa bụng
trẻ rồi ép vào phía trong và lên trên bụng trẻ với áp lực nhẹ hơn người lớn.
Lặp lại động tác vài ba lần. Nếu trẻ bất tỉnh thì đặt trẻ nằm và làm động tác
như người lớn nhưng chỉ dùng một tay và với áp lực nhẹ hơn.
Hình 196. ép bụng ở trẻ em
Hình 197. ép bụng ở trẻ còn bú
Đặt trẻ nằm trên một mặt phẳng chắc chắn, đầu ngửa tối đa. Người cứu đặt 2
đầu ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) vào vùng giữa rốn và mũi xương ức
rồi ấn nhanh với góc độ 45
o
(ấn xuống và về phía trước).
Lặp lại động tác vài ba lần.
Nếu thấy trẻ ho vì sự tắc nghẽn dường như đang di chuyển thì tiếp tục bằng
phương pháp vỗ vào lưng.

sơ cứu BệNH NHÂN GãY xƯơng
Gãy xương là một tình trạng mất tính liên tục của xương, nó có thể biểu hiện
dưới nhiều hình thức từ một vết rạn cho đến một sự gãy hoàn toàn của
xương.
1. NGUYÊN NHÂN GÂY GãY XưƠNG.

Gãy xương thường là do tác động của một lực vào xương. Lực náy có thể
bắt đầu từ bên ngoài của cơ thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trực tiếp: nếu do lực trực tiếp thì đường gãy thường cắt ngang thẳng qua
xương và ổ gãy ở ngay vùng bị ảnh hưởng (H.198).
Gián tiếp: Lực gián tiếp thường gây ra gãy xoắn. ổ gãy thường ở xương nơi
bị lực tác động vào ví dụ: ngã chống tay có thể gây nên gãy xương đòn
(H.199).
Hình 198. Gãy xương do lực trực tiếp
Hình 199. Gãy xương do lực gián tiếp
2. các loại gãy xương
Gãy xương được chia làm 2 loại chính: gãy xương kín và gãy xương hở và
cả 2 đều có thể là gãy xương biến chứng.
Gãy xương kín: (H.200)
Là loại gãy xương mà tổ chức da ở vùng xung quanh or gãy không bị tổn
thương hoặc có thể tổn thương nhưng không thông với ổ gãy.
Gãy xương hở (H.201)
Là loại gãy xương khi có tổn thương thông từ bề mặt của da với ổ gãy hoặc
1 đầu xương gãy chòi ra ngoài.
Gãy xương hở là một tổn thương nghiêm trọng vì không những nó gây nên
chảy máu ngoài trầm trọng mà còn vì vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào or gãy
gây nên những biến chứng nhiễm khuẩn rất nặng nề khó điều trị.
Gãy xương biến chứng (H.202)
Cả gãy xương hở và gãy xương kín đều được coi là gãy xương biến chứng
khi có một tổn thương kèm theo ví dụ khi đầu xương gãy làm tổn thương
dây thần kinh và mạch máu hay một tổ chức, cơ quan nào đó hoặc khi gãy
xương kết hợp với trật khớp.
Hình 200. Gãy xương kín
Hình 201. Gãy xương hở
Hình 202. Gãy xương biến chứng
3. TRIệU CHứNG Và DấU HIệU CHUNG

- Nạn nhân có thể cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng kêu "rǎng rắc" của xương
gãy.
- Đau ở chỗ chấn thương hoặc gần vị trí đó. Đau tǎng khi vận động.
- Giảm hoặc mất hoàn toàn khả nǎng vận động.
- Có phản ứng tại chỗ gãy khi ấn nhẹ lên vùng bị thương
- Sưng nề và sau đó bầm tím ở vùng chấn thương
- Biến dạng tại vị trí gãy: ví dụ chi gãy bị ngắn lại, gập góc hoặc xoắn vặn,
v.v
- Khi khám có thể nghe hoặc cảm thấy tiếng lạo xạo của 2 đầu xương gãy cọ
vào nhau.
Không được cố gắng tìm dấu hiệu này vì làm nạn nhân rất đau.
Có thể có triệu chứng của sốc.
Tình trạng sốc thường xảy ra và được nhận thấy rõ trong các trường hợp gãy
xương đòn hoặc vỡ xương chậu.
Chú ý:
Không phải tất cả các xương, đều có những dấu hiệu và triệu chứng trên. Để
tìm ra những dấu hiệu của gãy xương phải chủ yếu dựa vào sự quan sát,
đừng cho vận động bất kỳ nơi nào của cơ thể nếu không cần thiết. Nếu có
thể thì hãy so sánh chi bị thương với chi lành.
Nếu có sự kết hợp của 2 hay 3 triệu chứng của các triệu chứng kể trên hoặc
nếu nạn nhân có biểu hiện của tình trạng sốc và đau nhiều ở chi hoặc nếu có
nghi ngờ về tính nghiêm trọng của một chấn thương thì hãy xử trí như một
trường hợp gãy xương.
4. mục đích
4.1. Giảm đau
- Chống đau cho nạn nhân: Tuyệt đối không vận động phần bị tổn thương
nếu không cần thiết. Nếu có điều kiện thì nên phong bế novocain quanh ổ
gãy hoặc tiêm morphin dưới da nếu không có tổn thương sọ não, ổ bụng
kèm theo (dùng theo chỉ định của thầy thuốc).
- Bǎng kín các vết thương nếu có.

- Cố định tạm thời gãy xương.
- Thường xuyên nâng cao chi bị gãy sau khi cố định để giảm sự sưng nề, khó
chịu.
- Phòng, chống sốc (xem bài cấp cứu sốc)
- Thường xuyên quan sát theo dõi nạn nhân về tình trạng toàn thân đặc biệt
là tình trạng tuần hoàn ở phía dưới ổ gãy.
4.2. Phòng sốc
4.3. Hạn chế sự di lệch của đầu xương bị gãy (tránh gây tổn thương mạch
máu, thần kinh, phần mềm nơi gãy, tránh gãy kín thành gãy hở).
5. nguyên TắC Cố ĐịNH GãY Xương.
5.1. Không đặt nẹp trực tiếp lên da thịt nạn nhân phải có đệm lót ở đầu nẹp,
đầu xương (không cởi quần áo, cần thiết rạch theo đường chỉ).
5.2. Cố định trên, dưới ổ gãy, khớp trên và dưới ổ gãy, riêng xương đùi bất
động 3 khớp.
5.3. Bất động ở tư thế cơ nǎng: Chi trên treo tay vuông góc, chi dưới duỗi
thẳng 180
o
.
5.4. Trường hợp gãy kín phải kéo chi liên tục bằng một lực không đổi trong
suốt thời gian cố định.
5.5. Trường hợp gãy hở: Không được kéo nắn ấn đầu xương gãy vào trong
nếu có tổn thương động mạch phải đặt ga rô tùy ứng, xử trí vết thương để
nguyên tư thế gãy mà cố định.
5.6. Sau khi cố định buộc chi gãy với chi lành thành một khối thống nhất.
5.7. Nhanh chóng, nhẹ nhàng, vận chuyển nạn nhân đến cơ sở điều trị.
6. Kỹ THUậT SƠ CứU BệNH NHÂN GãY XưƠNG Các loại
6.1.1. Nẹp: nẹp phải đảm bảo đủ độ dài, rộng và dày
- Nẹp chính quy
Nẹp gỗ: nẹp có kích thước như sau:
Chi trên: dài 35-45cm, rộng 5-6mm

Chi dưới: dài 80-100cm, rộng 8-10cm, dày 8mm
- Nẹp kim loại (nẹp Cramer): Nẹp này có thể uốn cong theo các khuỷu
thường dùng để cố định gãy xương cánh tay, cẳng tay và cẳng chân.
- Nẹp Thomas: (giá Thomas) Loại này dùng cho trường hợp gãy xương đùi.
Hình 203. Nẹp kim loại
Hình 204. Nẹp Thomas
- Nẹp Beckel (máng Beckel): loại này thường dùng trong gãy xương cẳng
chân.
- Nẹp tùy ứng: là loại nẹp làm bằng tre hay bất kỳ vật liệu gì sẵn có.
6.1.2. Bông
Dùng để đệm lót vào đầu nẹp hoặc nơi ụ xương cọ xát vào nẹp, nếu có điều
kiện nên dùng bông mỡ (không thấm nước). Nếu không có, có thể dùng
bông thường (không thấm nước) hoặc dùng vải hay quần áo.
6.1.3. Bǎng
Dùng để buộc cố định nẹp. Bǎng phải đảm bảo: Rộng bản, dài vừa phải, bền
chắc.
Nếu không có bǎng thì có thể dùng các dải dây buộc.
Chi trên cần 3 dây, cẳng chân cần 4-5 dây dải. Đùi cần 7 dây dài.
Chú ý: trên thực tế không phải lúc nào cũng có sẵn các vật dụng để cố định
gãy xương nên người ta thường dùng khǎn tam giác dể bất động tạm thời
một số loại gãy xương và dùng nẹp cơ thể như: cố định chi gãy vào chi lành,
buộc tay vào ngực, v.v
Hình 206. Kích thước của nẹp
Hình 207. Bất động gãy xương chân bằng cách buộc bên gãy vào bên lành
(dùng nẹp cơ thể)
Hình 20S. Bất động gãy xương đùi bằng nẹp, sử dụng bǎng rộng bản và
buộc nút trên nẹp.
6.2. Gãy xương hở.
6.2.1. Trường hợp xương chồi ra ngoài vết thương
Chú ý:

- Không bao giờ kéo đầu xương gãy vào trong
- Bǎng bó vết thương rồi mới cố định theo tư thế gãy
a) Cầm máu bằng cách ép mép vết thương sát vào đầu xương
b) Nhẹ nhàng đặt một miếng gạc hoặc miếng vải sạch lên trên đầu xương
chồi ra.
c) Đặt một vành khǎn hoặc một đệm bông hình bán nguyệt lên trên vết
thương.
d) Bǎng cố định gạc vào vùng đệm bằng bǎng cuộn.
e) Xử trí các bước tiếp theo như gãy xương kín.
g) Chuiyển nạn nhâ n tới bệnh viện ngay. Đây là cấp cứu ưu tiên. Lưu ý giữ
gìn tư thế đúng trong khi vận chuyển và theo dõi sát tình trạng toàn thân của
nạn nhân.
Chú ý: vành khǎn hoặc đệm bông phải có chiều dày đủ để không gây áp lực
lên đầu xương khi bǎng ép.
6.2.2. Trường hợp xương gãy không chìa đầu ra ngoài.
a) Cầm máu bằng cách ép nhẹ nhàng mép vết thương lại.
Không ấn mạnh vết thương ớ vị trí gãy.
b) Đặt một miếng gạc lên trên vết thương và đệm bông ở xung quanh miệng
vết thương.
c) Xử trí như trường hợp gãy xương hở có xương chồi ra ngoài.
6.3. Vỡ xương sọ
- Nạn nhân tỉnh. Đặt nạn nhân ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dùng gối hoặc
đệm đỡ đầu và vai.
- Nếu có máu, dịch não tủy chảy ra từ tai thì đặt nạn nhân nằm nghiêng về
phía đó. áp vào tai đó một miếng gạc vô khuẩn hoặc vật liệu tương tự sau đó
bǎng lại bằng bǎng cuộn (không đút nút lỗ tai).
- Nạn nhân bất tỉnh nhưng vẫn thở bình thường thì đặt nạn nhân nằm ở tư thế
hồi phục nghiêng về bên bị tổn thương.
- Kiểm tra nhịp thở, mạch và mức độ đáp ứng (tỉnh táo) 10 phút/1ần.
- Nếu ngừng thở ngừng tim thì tiến hành hồi sinh hô hấp - tuần hoàn ngay.

- Phòng chống và xử trí sốc nếu xảy ra (xem phần cấp cứu sốc)
- Chuyển nạn nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
Lưu ý: nếu não phòi ra ngoài sọ không được bôi thuốc và bǎng ép. Vỡ nền
sọ thường do lực gián tiếp. Đồng tử hai bên không.đều, máu và dịch não tủy
chảy qua lỗ tai.
Hình 209. Vị trí thường bị vỡ
6.4. Gãy xương sườn và xương ức.
6.4.1. Cách 1:
- Dùng bǎng dính to bản cố định
- Treo tay cùng bên với bên lồng ngực có xương gãy vào cổ
- Xử trí vết thương lồng ngực nếu có.
6.4.2. Cách 2:
- Buộc bằng 3 khǎn:
+ Khǎn 1 đặt giữa nơi xương sườn bị gãy, bảo nạn nhân thở ra, buộc nút
trước nách bên đối diện xương sườn gãy.
+ Khǎn 2, 3 đặt trên và dưới khǎn 1, buộc giống như trên.
* Sau khi xử trí như cách 1 hoặc 2 thì:
- Treo tay cùng bên với bên lồng ngực có xương gãy vào cổ.
- Chuyển nạn nhân tới bệnh viện. Trường hợp biến chứng thì phải chuyển
ngay lập tức.
- Trường hợp gãy xương sườn có biến chứng (xem phần xử trí cấp cứu các
vết thương lồng ngực).
6.5. Gãy xương đòn.
6.5.1. Dùng nẹp chữ T.
- Cho nạn nhân ưỡn ngực hai vai kéo về phía sau.
- Chèn bông hoặc bǎng dưới hai hố nách và hai bả vai.
- Đặt nẹp chữ T sau vai, nhánh dài dọc theo cột sống, nhánh ngang áp vào
vai.
- Quấn bǎng vòng tròn từ nách qua vai buộc nút ở bả vai.
Quấn bǎng vòng thắt lưng, buộc nút ở vị trí thích hợp không để vướng.

Chú ý nẹp chữ T phải đảm bảo. Nhánh dài phải đủ dài qua thắt lưng, nhánh
ngang phải to bản và dải qua khỏi vai.
6.5.2. Dùng bǎng số 8: cần 2 người tiến hành.
Người thứ nhất: Nắm 2 cánh tay nạn nhân nhẹ nhàng kéo ra phía sau bằng
một lực vừa phải, không đổi trong suốt thời gian cố định.
Người thứ hai: Dùng bǎng bǎng kiểu số 8 để cố định xương đòn.
Chú ý: Phải đệm lót tốt ở hai hố nách để tránh gây cọ sát làm nạn nhân đau
khi bǎng.
6.6. Gãy xương tay
6.6.1. Trường hợp gấp được khớp khuỷu.
- Treo tay bằng khǎn chéo lên cổ
- Buộc cánh tay vào thân bằng khǎn chéo
Cố định gãy xương đòn
Hình 210. Dùng bǎng treo
* Trường hợp gãy xương cánh tay
- Để cánh tay sát thân mình, cẳng tay vuông góc với cánh tay (tư thế co).
- Đặt 2 nẹp, nẹp trong từ hố nách tới quá khuỷu tay, nẹp ngoài từ quá bả vai
đến quá khớp khuỷu. Có thể dùng nẹp Cramer làm thành góc 90
o
đỡ cả cánh
tay và cẳng tay bǎng lại.
- Dùng 2 dây rộng bản buộc cố định nẹp: một ở trên và một ở dưới ổ gãy.
- Dùng khǎn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực, cẳng tay vuông góc với
cánh tay, bàn tay cao hơn khuỷu tay, bàn tay để ngửa.
- Dùng bǎng rộng bản bǎng ép cánh tay vào thân mình. Thắt nút phía trước
nách bên lành.
* Trường hợp gãy xương cẳng tay:
- Để cẳng tay sát thân mình, cẳng tay vuông góc cánh tay. Lòng bàn tay
ngửa.
- Dùng hai nẹp: Nẹp trong từ lòng bàn tay đến nếp khuỷu tay, nẹp ngoài từ

đầu các ngón tay đến quá khuỷu.
- Dùng 3 dây rộng bản buộc cố định nẹp bàn tay, thân cẳng tay (trên, dưới ổ
gãy).
- Dùng khǎn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực.
6. 6.2. Trường hợp không thể gấp khuỷu tay được
Đừng cố dùng sức để gấp khuỷu tay. Bảo nạn nhân dùng tay kia đỡ tay bị
thương ở vị trí đó nếu có thể.
Đặt một miếng đệm dài vào giữa tay bị thương và thân.
Buộc tay bị thương vào cơ thể bằng 3 dải bǎng rộng bản ở các vị trí:
+ Quanh cổ tay và đùi.
+ Quanh cánh tay và ngực
+ Quanh cẳng tay và bụng
Cho nạn nhân nằm xuống và đặt tay bị thương dọc theo thân.
6.7. Gãy xương sống (gãy cột sống).
6.7.1. Gãy cột sống lưng.
Khuyên nạn nhân nằm yên không được cố vận động các phần của cơ thể
- Nếu có thể chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện thì đừng di chuyển nạn
nhân. Người cứu dùng tay giữ chắc đầu nạn nhân. Nếu có người đứng xung
quanh thì bảo họ đỡ 2 bàn chân nạn nhân. Gấp vải, chǎn hoặc gối hoặc quần
áo để dọc sát 2 bên thân nạn nhân để đỡ nạn nhân. Đắp chǎn cho nạn nhân
trong khi chờ đợi xe cấp cứu.
- Nếu không thể chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện hoặc đường đi tới bệnh
viện xa khó đi thì phải: đỡ vai và khung chậu nạn nhân và thận trọng đặt
đệm mềm vào giữa 2 chân. Buộc bǎng hình số 8 ở quanh cổ chân và bàn
chân, buộc các dải bǎng to ở đầu gối và đùi.
- Chuyển nạn nhân tới bệnh viện. Đặt nạn nhân trên một cánh cứng ở tư thế
giống như tư thế khi phát hiện thấy nạn nhân. Luôn luôn duy trì sự thông
thoát đường hô hấp và theo dõi sát nạn nhân trong suốt quá trình vận
chuyển.
Chú ý: Khi nâng nạn nhân lên cánh cần phải có nhiều người và phải nâng

đều để luôn luôn giữ nạn nhân trên một mặt phẳng. Khi đặt xuống bàn khám
hoặc giường cũng phải làm như vậy.
6.7.2. Gãy đốt sống cổ
- Khuyên nạn nhân không được cố vận động. Đỡ đầu và cổ nạn nhân cho
đến khi đội cấp cứu đến.
- Nếu không thể chuyển ngay nạn jnhân đến bệnh viện thì phải: nới rộng cổ
áo và lót một vòng đệm cổ (xem phần sau).
Đắp chǎn cho nạn nhân trong khi chờ đợi xe cấp cứu.
Nếu buộc phải di chuyển nạn nhân thì phải xử trí như trường hợp gãy cột
sống lưng.
Lót vòng đệm cổ.
+ Nếu không có sẵn vòng đệm cổ thì gấp 1 tờ báo lại với bề rộng khoảng
10cm. Sau đó dùng bǎng tam giác gói lại hoặc nhét tờ báo đã gấp lại đó vào
trong một bít tất dài.
+ Đặt phần giữa của vòng đệm cổ vào phía trước của cổ ngay phía dưới cằm.
+ Quấn vòng đệm cổ này quanh cổ nạn nhân và buộc nút ở phía trước của
cổ.
+ Đảm bảo chắc chắn rằng vòng đệm cổ không gây tắc nghẽn đường thở.
Hình 212. Quấn vòng đệm cổ quanh cổ nạn nhân, buộc nút phía sau cổ
6.8. Vỡ xương chậu
Giữ nạn nhân thoải mái, giảm đau và thu xếp chuyển ngay tới bệnh viện.
Hình 213. Đặt bệnh nhân nằm ngửa kê gối dưới khoeo chân
- Đặt nạn nhân nằm ngửa, chân duỗi thẳng hoặc hơi co đầu gối,nếu nạn nhân
cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn ở tư thế này. Dùng gối hoặc chǎn mỏng gấp
lại để kê dưới gối (H. 213).
- Nếu nạn nhân đòi đi tiểu thì khuyên nạn nhân cố gắng chịu đựng vì nước
tiểu có thể tràn vào các mô.
Nếu chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện thì đắp chǎn cho nạn nhân và đợi
xe cấp cứu đến.
Nếu không chuyển ngay được đến bệnh viện và đường đi tới bệnh viện xa

(mất trên 30 phút) hoặc đường khó đi thì phải: nhẹ nhàng buộc 2 vòng bǎng
to bản ở khung chậu, buộc vòng bǎng phía dưới trước, vòng bǎng này đi
vòng qua khớp háng.
- Nếu chỉ có một đai chậu bị tổn thương thì bǎng vòng thứ 2 chéo lên phía
gai chậu của bên bị tổn thương.
Nếu cả 2 bên đai chậu đều tổn thương thì buộc chính giữa.
+ Đặt đệm mỏng vừa đủ vào giữa 2 đầu gối và mắt cá.
+ Bǎng số 8 xung quanh mắt cá và bàn chân và bǎng một bǎng rộng bản ở
đầu gối. Buộc nút ở bên phần không bị tổn thương.
- Phòng chống và xử trí sốc xảy ra (xem phần cấp cứu sốc).
- Chuyển nạn nhân tới bệnh viện. Phải coi đây là một cấp cứu ưu tiên. Trước
khi chuyển phải duy trì sự theo dõi sát người bị nạn và giữ nạn nhân ở tư thế
đúng.
6.9. Gãy xương đùi và khớp háng
- Giữ nạn nhân thoải mái, giảm đau, tránh gây tổn thương thêm và vận
chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện.
- Giữ yên chân gãy theo đúng tư thế cơ nǎng: bàn chân vuông góc với cẳng
chân. Cần nâng đỡ xương nhẹ nhàng đúng phương pháp để không làm nạn
nhân đau.
- Cố định xương gãy.
6.9.1. Cố định bằng nẹp gỗ: cần 3 người làm.
Người thứ nhất: luồn tay đỡ đùi ở phía trên và phía dưới ổ gãy.
Người thứ hai: đỡ gót chân và giữ bàn chân ở tư thế luôn vuông góc với
cẳng chân.
Người thứ ba: đặt nẹp. Cần 3 nẹp.
- Đặt 3 nẹp:
+ Nẹp ngoài từ hố nách đến quá gót chân
+ Nẹp dưới từ vai đến quá gót chân
+ Nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân
Dùng 9 dải dây rộng bản để buộc cố định nẹp ở các vị trí:

+ Trên ổ gãy
+ Dưới ổ gãy
+ Cổ chân: bǎng kiểu bǎng số 8
+ Ngang ngực
+ Ngang hông
+ Dưới gối
+ 3 dải bǎng buộc 2 chi vào nhau ở các vị trí: Trên đầu gối, dưới đầu gối, cổ
chân.
6.9.2. Cố định bằng nẹp cơ thể:
Trường hợp không có nẹp gỗ thì tiến hành buộc chân gãy vào chân lành ở
các vị trí:
+ Cổ chân: Dùng kiểu bǎng số 8 để buộc 2 chân và bàn chân lại với nhau.
+ Trên ổ gãy
+ Dưới ổ gãy
+ Dưới gối
+ Cẳng chân
Lưu ý: Phải đệm lót tốt ở phần giữa 2 đầu gối và 2 cổ chân.
Không được buộc nút ở phía chân gãy.
- Phòng chống và xử trí tốt (xem phần cấp cứu sốc)
- Sau khi cố định chân gãy xong, nâng chân cao lên một chút để giảm sự
sưng nề và khó chịu cho bệnh nhân.
- Chuyển nạn nhân tới bệnh viện: Phải coi đây là một cấp cứu ưu tiên.
Trong khi vận chuyển phải giữ tư thế đúng của nạn nhân, theo dõi sát nạn
nhân và xử trí kịp thời những diễn biến xảy ra.
6.10. Gãy xương cẳng chân.
- Giảm đau cho bệnh nhân
- Phòng chống và xử trí sốc
- Trường hợp cố định bằng nẹp: cần 2 nẹp dài bằng nhau và 3 người làm:
Người thứ nhất: đỡ nẹp và cẳng chân phía trên và dưới ổ gãy.
Người thứ hai: đỡ gót chân, cổ chân và kéo nhẹ theo trục của chi, kéo liên

tục bằng một lực không đổi.
Người thứ ba: cố định gãy xương.
Đặt 2 nẹp:
Nẹp trong từ giữa đùi đến quá gót.
Nẹp ngoài từ giữa đùi đến quá gót
- Buộc dây cố định nẹp ở các vị trí: Trên ổ gãy, dưới ổ gãy, đầu trên nẹp và
bǎng số 8 giữ bàn chân vuông góc với cẳng chân.
- Buộc chân vào với nhau ở các vị trí: Đầu trên nẹp, ngang đầu gối và cổ
chân.

sơ cứu bỏng
Có nhiều nguyên nhân gây nên bỏng như bỏng do lửa, do hơi nóng, hóa chất
và các tia Vết thương bỏng có thể làm chết người hoặc để lại những di
chứng nặng nề như mất chức nǎng vận động, biến dạng mất thẩm mỹ.
Tình trạng của cơ thể khi bị bỏng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ sâu của bỏng
- Diện tích của vết bỏng.
- Vị trí của vết bỏng trên cơ thể
1. độ sâu của vết bỏng
Bỏng được phân loại theo độ sâu thành 3 độ:
1.1 Độ I: Bỏng bề mặt:
Trường hợp này chỉ lớp ngoài cùng da bị tổn thương làm cho da nơi bị bỏng
đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút đây thần kinh bị kích thích. Loại bỏng này
thường lành hẳn sau 3 ngày.
1.2. Độ II: Bỏng một phần da:
Trường hợp này thì lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương,
các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước được
hìnhthành, nếu các túi phỏng nước vỡ ra sẽ để lộ một bề mặt màu hồng và
cũng rất đau. Nếu được giữ sạch vết bỏng sẽ tự lành sau khoảng 1-4 tuần
không cần điều trị gì mà cũng không để lại sẹo hoặc sẹo nhưng không đáng

kể. Nhưng tổ chức da sau khi lành vết bỏng có thể đỏ trong một thời gian dài
hơn. Nếu bỏng độ II bị nhiễm khuẩn thì lớp da dưới sẽ bị phá hủy và bỏng
độ II chuyển thành bỏng độ III.
1.3. Độ III
Bỏng toàn bộ các lớp da: Toàn bộ các lớp da đều bị tổn thương bao gồm cả
lỗ chân lông và tuyến mồ hôi. Vết bỏng trắng nhợt hoặc xám ìại, khô cứng
và mất cảm giác (không đau) và các đầu nút dây thần kinh bị phá hủy.
Trong trường hợp bỏng rất nặng toàn bộ các lớp da thì lớp mỡ dưới da cũng
có thể bị phá hủy và để lộ phần cơ.
Khi bị bỏng toàn bộ các lớp của da thì vết bỏng chỉ được lành dần từ phía bờ
các vết bỏng và các vết bỏng rất dễ bị nhiễm khuẩn do vậy thời gian lành vết
bỏng thường kéo dài rất lâu.
Độ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của các vết
bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ hóa chất và thời gian mà nhiệt độ
hoặc hóa chất tác động lên da. Da có xu hướng giữ nhiệt và quần áo bị đốt
cháy thành than làm cho vết thương trở nên nặng nề hơn, do đó việc sử dụng
quá nhiều nước để rửa vết bỏng khi mà vết bỏng vừa mới xảy ra (trong vòng
30 phút khi xảy ra tai nạn) sẽ có tác dụng làm giảm độ sâu của bỏng.
2. diện tích VếT BỏNG.
Có nhiều cách để ước tính diện tích vết bỏng nhưng thông thường diện tích
vết bỏng được tính toán bằng cách sử dụng quy tắc số 9.
ủa vết bỏng với các dịch của cơ thể phục thuộc vào phần. trǎm
ảnh hưởng của vết bỏng với các dịch của cơ thể phụ thuộc vào phần trǎm
diện tích bỏng so với diện tích cơ thể. Bỏng càng rộng thì càng nguy hiểm
hơn vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơ thể, gây đau nhiều
hơn, dễ bị sốc và nhiễm khuẩn. Đối với người lớn nếu bỏng từ 15% trở lên
và trẻ em từ 10% trở lên phải được coi là bỏng nặng và phải được chuyển tới
bệnh viện.
Hình 215. Cách tính diện tích vết bỏng
3. Vị TRí VếT BỏNG TRÊN CƠ THể.

Bỏng ở những vùng khác nhau cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và
quá trình hồi phục.
Ví dụ:
- Bỏng ở vùng mặt, cổ có thể gây phù nề chèn ép đường thở dễ bị sẹo xấu và
sự biến dạng
- Bỏng ở mắt có thể dẫn đến mù
- Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn đến co cứng, mất hoặc giảm
chức nǎng hoạt động
- Bỏng vùng lưng, vùng hậu môn sinh dục và những vùng gần hậu môn sinh
dục thường có nguy cơ nhiễm khuẩn cao, kéo dài thời gian lành vết bỏng.
- Nếu nạn nhân hít phải khói, hơi nóng thì có thể gây bỏng đường hô hấp
làm phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn dẫn đến suy hô hấp và rất dễ dẫn
đến viêm phổi
4. CHǍM SóC CấP CứU BỏNG NóI CHUNG.
4.1. Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo và làm mát vết bỏng.
Đây là việc làm trước hết để tránh cho nạn nhân bị bỏng sâu và rộng thêm.
- Dùng nước hoặc cát để dập tắt lửa, hoặc có thể dùng áo khoác, chǎn, vải
bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa (không dùng vải nhựa, ni lông để dập lửa).
- Xé bỏ phần quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay
các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh để dội vào vùng
bỏng.
- Bọc vùng bỏng chắc chắn rồi đổ nước lạnh lên. Với những vết bỏng ở táy
có thể để cho nước từ vòi nước máy chảy trực tiếp lên vùng bỏng hoặc ngâm
phần chi bị bỏng trong nước lạnh lên vùng bỏng nhưng phải thay thường
xuyên 3-4 phút một lần cho đến khi nào nạn nhân thấy đỡ đau rát.
- Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng nhẫn trước
khi vết bỏng sưng nề.
- Che phủ vùng bỏng bằng gạc, vải vô khuẩn nếu có hoặc bằng gạc hoặc vải
sạch.
Chú ý: Đừng bao giờ:

- Dùng nước đá để làm mát vết bỏng hoặc ngâm toàn bộ cơ thể vào trong
nước.
- Tháo bỏ quần áo bị cháy đã được làm mát
- Sờ mó vào vết bỏng
4.2. Phòng chống sốc.
- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm
- Động viên an ủi nạn nhân
- Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn
nhân đi xa.
Chú ý:
- Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không
có những chấn thương khác.
- Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn
nhân uông.
Pha vào 1 lít nước:
+ 1/2 thìa cà phê muối ǎn
+ 1/2 thìa cả phê muối na tri bicarbonat
2-3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.
Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống
nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc oreson.
- Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Dùng aspirin
Khi dùng thuốc giảm đau phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương
bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
- Nhanh chóng chuyển nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
4.3. Duy trì đường hô hấp.
Nạn nhân bị bỏng vùng mặt cổ, nhất là khi bị kẹt trong nhà bị cháy mà ở đó
có dầu, đồ đạc, bàn ghế, đang bốc cháy thì sẽ nhanh chóng bị phù mặt và
cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường
hợp này phải ưu tiên số 1 và phải được chuyển tới bệnh viện ngay. Nhưng
trong khi chờ đợi phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát

đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canul vào mũi hoặc
miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản )
4.4. Phòng chống nhiễm khuẩn.
Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy khi cấp cứu bỏng phải rất thận trọng
để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: không dùng nước không sạch để dội hoặc
đắp vào vết bỏng và có điều kiện người cấp cứu nên rửa tay sạch và tránh
động chạm vào vết bỏng.
4.5. Bǎng vết bỏng.
- Không dược bôi dầu mỡ, dung dịch cồn ngay cả kem kháng sinh vào vết
bỏng.
- Không được chọc phá các túi phỏng nước
- Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng
- Nếu có điều kiện thì phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng
vải càng sạch càng tốt.
- Vết bỏng sẽ chảy rất nhiều dịch nên trước khi dùng bǎng co giãn để bǎng
vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ
vết bỏng.
Chú ý: Nếu không có bǎng co giãn thì chỉ được bǎng lỏng vùng bỏng để đề
phòng khi vết bỏng sưng nề gây chèn ép.
- Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi bǎng lỏng cổ
tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhàn vẫn cử động được các ngón tay một
cách dễ dàng vừa tránh làm bẩn vết bỏng.
- Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô
khuẩn hoặc vải sạch sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi
bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bị bỏng
để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và phải khuyên nạn nhân vận
động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể được.
5. cấp cứu một số TRườNG HợP BỏNG đặC BIệT.
5.1. Bỏng điện
Điện giật hoặc sét đánh có thể gây bỏng rất sâu, một số bệnh nhân bị bỏng

điện thì cơ thể cũng bị ngừng tim do dòng diện đánh vào tim do vậy phải
tiến hành cấp cứu ngừng tim ngay nếu nạn nhân bị ngừng tim rồi mới sơ cứu
vết bỏng sau. Nhưng trước khi tiến hành vết bỏng phải:
- Ngắt điện
- Nếu không thể ngắt điện được thì phải gỡ nạn nhân ra khỏi sự tiếp xúc với
điện (phải dùng vật cách điện: Cao su, gậy gỗ khô để gỡ hoặc kéo nạn nhân).
- Khi sơ cứu vết bỏng xong phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới ngay
bệnh viện vì những bệnh nhân bị điện giật rất dễ có rối loạn về tim mạch.
5.2. Bỏng hóa chất
Một số loại hóa chất như acid, kiềm mạnh hoặc iod, phospho dùng trong
công nghiệp hoặc vôi mới tôi có thể gây nên tổn thương bỏng nặng và làm
nạn nhân rất đau đớn; với những loại bỏng nặng và làm nạn nhân rất đau đớn
với những loại bỏng do hóa chất phải:
- Rửa ngay, rửa liên tục bằng nước càng nhiều càng tốt, nếu không các tổ
chức ở vùng bỏng sẽ bị hoại tử hoàn toàn.
Nếu xác định được nguyên nhân gây bỏng là do acid thì rửa vết bỏng bằng
nước :ó pha bicarbonat. Nếu bỏng là do kiềm thì rửa bằng nước có pha giấm,
chanh. Nhưng nếu bỏng mắt do hóa chất chỉ được rửa bầng nước bình
thường. Nếu trong mắt vẫn còn những hạt vôi nhỏ thì phải rửa mạnh để làm
bật những hạt vôi đó ra.
- Phải tháo bỏ ngay quần áo bị dính hóa chất. Khi tháo phải lưu ý bảo vệ tay
của người làm động tác đó (không dùng tay trần để tháo).
- Nếu vết bỏng chảy nhiều máu thì phải xử trí như một vết thương chảy máu.
- Chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị.
Cấp cứu bỏng thì đơn giản không rắc rối phức tạp nhưng đòi hỏi phải cấp
cứu khẩn trương, linh hoạt. Người cấp cứu thành thạo có thể tránh được
nhiều biến chứng nguy hiểm cho nạn nhân. 70% số ca bỏng mà được giữ
sạch thì sẽ lành tự nhiên. Nhiều ca bỏng nặng, bỏng rộng nhưng được cứu
sống và để lại di chứng không đáng kể nhờ có sự cấp cứu và chǎm sóc cấp
cứu ban đầu tốt.



×