Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bàn về xã hội dân sự - 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.1 KB, 6 trang )

Bàn về xã hội dân sự - 2

3. Thừa nhận xã hội dân sự như là điều kiện cơ bản của quá trình tổ chức và rèn
luyện nền dân chủ
Một số người cho rằng chúng ta cần phải xây dựng một xã hội dân sự nhưng tôi
cho rằng nhà nước không thể xây dựng được xã hội dân sự, bởi xã hội dân sự tự nó
hình thành, còn nếu chúng ta xây dựng hay phổ biến nó thì đó lại là sản phẩm của
sự áp đặt. Trên thực tế, cho dù không được thừa nhận thì xã hội dân sự vẫn và
đang tồn tại, nó tồn tại vì nhu cầu của con người. Bên cạnh đó, xã hội dân sự là
đặc trưng của quá trình dân chủ bởi chỉ có quá trình dân chủ mới tạo ra được xã
hội dân sự và chỉ có xã hội dân sự mới tạo ra được sự yên tĩnh tự nhiên của con
người với đầy đủ các quyền của mình. Vì thế, hợp pháp hoá hay thừa nhận xã hội
dân sự trở thành một đòi hỏi và trở thành điều kiện quan trọng của việc tổ chức và
rèn luyện nền dân chủ ở các quốc gia đang phát triển trong quá trình hội nhập toàn
cầu.
Thừa nhận quyền sở hữu là tạo nền tảng vật chất cho xã hội dân sự
Có thể nói, quyền sở hữu là một trong những điều kiện cơ bản và cần thiết nhất
của một xã hội dân sự. Ở đây, tôi muốn nói đến trạng thái thấp nhất của sở hữu, là
sở hữu cái anh dùng chứ tôi không nói đến sở hữu tư liệu sản xuất. Tôi không
muốn cường điệu vai trò của tư liệu sản xuất. Nếu như 100 năm trước đây sở hữu
tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng thì bây giờ trong thời đại của chúng ta sở hữu tư
liệu sản xuất không còn quan trọng như thế nữa. Lý do là người ta bán rao sở hữu
tư liệu sản xuất thông qua thị trường chứng khoán, thông qua các công ty cổ
phần… Do sự cường điệu vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, người ta cho rằng
chế độ sở hữu quyết định toàn bộ, tức là thể chế kinh tế quyết định đời sống chính
trị, nên người ta xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân và tư liệu sản xuất mà không biết
rằng quyền sở hữu là một phát minh vĩ đại xác lập xã hội con người. Có sở hữu thì
con người mới có nhu cầu lập ra các khế ước xã hội, nhà nước và pháp luật nhằm
bảo vệ sở hữu của mình. Sở hữu chính là một vùng tinh thần mà con người có
quyền làm mọi thứ trên đấy. Nếu không công nhận quyền sở hữu của con người
đối với những đối tượng cụ thể thì chúng ta đã tước bỏ một phần quan trọng để


con người có thể có kinh nghiệm ban đầu về các quyền của mình đồng thời người
ta đã tiêu diệt ý thức về đời sống xã hội dân sự.
Theo tôi, không bao giờ được xem quyền sở hữu như một khái niệm kinh tế mà
phải xem đó là một khái niệm đạo đức, một khái niệm văn hoá, một khái niệm tinh
thần. Toàn bộ nhân cách của con người hình thành xung quanh sở hữu. Không có
sở hữu thì con người không biết đi đâu, về đâu, không biết chăm sóc cái gì, không
có chỗ để hình thành nhân cách. Có sở hữu thì con người sẽ có ý thức về quyền sở
hữu của mình, con người bắt đầu thức tỉnh về các giá trị của xã hội dân sự và
người ta sẽ đòi hỏi phải có luật pháp, phải có một nhà nước văn minh để bảo vệ sở
hữu của mình. Để bắt đầu có sở hữu, con người phải được quyền tự do kinh tế. Tự
do kinh tế tạo tiền đề cho sở hữu, tạo ra một số đông những người có sở hữu và vì
có sở hữu nên họ biết đòi hỏi quyền tự do chính trị, đòi hỏi nền dân chủ để đảm
bảo cho các quyền sở hữu của mình. Do vậy, sự tự do về kinh tế là động lực đầu
tiên và quan trọng nhất để xúc tiến sự tự do về chính trị vì xã hội dần dần nhận
thức được rằng nếu không có tự do về chính trị thì tất cả sự cố gắng lao động, sự
tích luỹ của họ không được đảm bảo và không tạo ra được giá trị gia tăng. Chính
sự không tự do về chính trị đã xâm phạm vào các quyền lợi lâu dài của họ vì thế
họ bắt đầu đòi quyền tự do chính trị để đảm bảo cho quyền lợi của chính họ và
cũng là quyền lợi của xã hội.
Thừa nhận quyền tự do văn hoá là tạo nền tảng tinh thần cho xã hội dân sự
Như phần trên đã phân tích, văn hoá là đối tượng điều chỉnh, hạn chế sự cực đoan
hay các hành vi không phù hợp với lợi ích công cộng trong xã hội dân sự, do vậy,
để có một xã hội dân sự lành mạnh thì các giá trị văn hoá phải được hình thành
một cách tự nhiên. Văn hoá là kết quả của hình ảnh tự nhiên, kinh nghiệm hoặc
thói quen của đời sống con người trong sự tương tác của cộng đồng nó với chính
nó, và sự tương tác của cộng đồng nó với các cộng đồng khác, thậm chí còn là sự
tương tác của các cộng đồng con người với thời gian. Nếu áp đặt, tác động lên đời
sống tinh thần của con người thì sẽ hình thành một nền văn hoá phản tự nhiên.
Đại bộ phận các nhà cầm quyền ở các quốc gia lạc hậu có xu hướng tác động vào
văn hóa và biến văn hóa trở thành công cụ hỗ trợ việc cầm quyền mà không biết

rằng khi biến văn hoá trở thành công cụ chính trị, là người ta đã nhổ rễ cả một dân
tộc, làm cho dân tộc ấy trở thành kẻ vất vưởng về mặt tinh thần. Nhưng nếu con
người nhận thức được rằng tương lai của một nền văn hoá là nghĩa vụ của nó trong
đời sống phát triển thì ở các quốc gia này, trước khi nói đến việc xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, cần phải khôi phục lại trạng thái tự do và phi chủ quan của
việc áp đặt các giá trị văn hóa. Nói cách khác phải trả lại quyền tự do cho con
người trong việc nhận thức các giá trị văn hóa hay làm cho tự do trở thành công
nghệ chủ yếu để hình thành các giá trị văn hoá tiên tiến. Có như thế, văn hóa mới
trở thành công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội dân sự, đảm bảo tính
chất tự quản của xã hội dân sự.
Thừa nhận sự đa dạng của đời sống tinh thần của mỗi con người là đảm bảo cho
một xã hội dân sự phát triển lành mạnh
Để có một xã hội lành mạnh, chúng ta cần tôn trọng sự đa dạng của đời sống tinh
thần của mỗi con người. Một trong những yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã
hội là tính đa dạng của sự sáng tạo mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất
yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng của năng lực cá nhân
là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Như vậy, có thể nói, xã hội
dân sự bắt nguồn từ sự phát triển của con người. Sự phát triển của xã hội dân sự
gắn liền với sự phát triển ngày càng phong phú với các quyền cá nhân, tức là nhân
quyền. Sự phát triển của các quyền cá nhân, đến lượt nó sẽ thúc đẩy sự phát triển
của xã hội dân sự.
Tôn trọng và đảm bảo sự đa dạng tinh thần của con người chính là coi con người
là một đối tượng khách quan và là một đối tượng phát triển tự nhiên. Nếu chúng ta
bảo tồn hay giữ gìn sự đa dạng của quá trình tự nhiên, tức là sự đa dạng sinh học
của thế giới thì chúng ta phải xem nhận thức cũng là một quá trình sinh học thuộc
về con người. Do đó, việc nhận thức cái đúng sai phải là từ chính mỗi con người.
Nếu chúng ta cưỡng bức con người phải nhận thức cho được, phải theo bằng được
cái mà một ai đó muốn hoặc cái mà một ai đó cho rằng có lý thì vô tình chúng ta
đã tiêu diệt sự đa dạng trong nhận thức của con người và do đó, tiêu diệt năng lực
thích nghi của nhân loại trước những rủi ro có thực mà nhân loại luôn gặp phải

trong quá trình phát triển.
Kết luận
Xã hội dân sự là mục tiêu của tất cả các quốc gia, các cộng đồng trong quá trình
phát triển bởi chỉ với xã hội dân sự, con người mới tìm thấy không gian yên tĩnh tự
nhiên để sáng tạo và phát triển. Bản chất của sự phát triển hay sự thịnh vượng ở
mọi quốc gia là sự phát triển, sự thịnh vượng của xã hội dân sự. Xã hội dân sự chỉ
có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở một nền dân chủ về mặt chính trị,
tức là con người tự do trong việc lựa chọn các khuynh hướng chính trị, quan điểm
chính trị, còn không, các xã hội cho dù có ngụy trang cho mình bằng những cái tên
núp bóng dưới những khái niệm thiêng liêng của nhân loại thì đó cũng chỉ là vỏ
hình thức mà thôi.
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult

×