Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.7 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 54, 2009


BI
ẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
Nguy n V n M nh
Tr
ng i h c Khoa h c, i h c Hu
TÓM TẮT
Các xu h ng bi n i v n hoá trong nh ng n m g n ây vùng ng bào các dân t c
thi
u s Qu ng Bình v a mang y u t tích c c v a có nh ng m t tiêu c c; vì v y vi c nghiên
c
u, tìm hi u các di s n v n hoá t c ng i, ng th i n m b t các quy lu t t t y u th i i
thúc
y phát huy nh ng m t tích c c, h n ch nh ng m t tiêu c c trong quá trình bi n i v n
hoá các dân t
c thi u s n i ây là m t vi c làm c n thi t và c p bách.
Ở Quảng Bình, về cơ bản có hai tộc người thiểu số cư trú; đó là tộc người Chứt,
bao g
ồm các nhóm Sách, Mày, Rục, Arem và Mã Liềng với dân số 4.901 người chiếm
26% dân s
ố các tộc người thiểu số trong tỉnh; tộc người Bru – Vân Kiều gồm các nhóm
Vân Ki
ều, Trì, Khùa, Ma Coong với dân số 13.550 chiếm 73%; còn các tộc người khác
chi
ếm khoảng 0,9%
1
. Các tộc người thiểu số Quảng Bình sớm có sự hội tụ, giao thoa


v
ăn hoá của các tộc người Môn-Khơme giữa sườn Đông và sườn Tây Trường Sơn, giữa
các t
ộc người thiểu số phân bố ở miền núi với người Việt ở đồng bằng. Theo chúng tôi,
s
ự hội tụ, giao thoa văn hoá các tộc người thiểu số nơi đây đang diễn ra các xu hướng
bi
ến đổi văn hóa truyền thống sau đây:
- Xu h
ướng giao lưu văn hoá giữa các tộc người trong khu vực
Tr
ước hết sự giao lưu đó được thể hiện ở trong việc phân bố dân cư giữa các tộc
ng
ười thiểu số nhau và giữa các tộc người thiểu số với người Việt. Hiện nay, về cơ bản
ng
ười Vân Kiều phân bố ở huyện Lệ Thuỷ, Quảng Ninh và một bộ phận nhỏ ở huyện
B
ố Trạch; người Trì, Ma Coong ở huyện Bố Trạch, người Khùa ở huyện Minh Hoá; các
nhóm thu
ộc tộc người Chứt cư trú chủ yếu ở các huyện Bố Trạch, Minh Hoá, Tuyên
Hoá, nh
ưng đi vào cụ thể rất ít các bản làng thuần nhất chỉ có một tộc người cư trú.
Hi
ện tượng trong một bản của người Bru – Vân Kiều hoặc người Chứt có sự cộng cư
c
ủa các tộc người khác và xuất hiện một số gia đình người Việt làm ăn buôn bán là phổ
bi
ến. Ngoài ra, trong không gian một xã, huyện việc cư trú xen kẽ bản tộc người Bru –
Vân Ki
ều kề cận với bản người Chứt hay bản của người Chứt, Bru – Vân Kiều kề cận

1
S li u c x lý t ngu n: S li u th ng kê Ban Dân t c t nh Qu ng Bình n m 2006.
với người Việt là hiện tượng thường gặp ở các huyện miền núi hiện nay. Thêm vào đó,
m
ột bộ phận người Mường, Tày, Thổ trong những năm gần đây đã di cư vào vùng miền
núi Qu
ảng Bình sống xen cài trong cùng một bản làng với các tộc người thiểu số nơi
đây.
Đặc biệt, sự giao lưu giữa các tộc người thiểu số ở miền núi Quảng Bình được
th
ể hiện rõ nét trong lĩnh vực văn hoá. Mặc dù khi nói đến người Vân Kiều chúng ta nói
đến những ngôi nhà sàn, tục đi sim, người Khùa là điệu hát Khắp, khèn bè; người Ma
Coong là l
ễ hội đập trống, nhưng nhìn chung sự giao lưu văn hoá đã tạo nên những
y
ếu tố văn hoá tương đồng giữa các tộc người thiểu số trong khu vực. Có thể những yếu
t
ố văn hoá tương đồng này bắt nguồn từ cùng một nguồn gốc tộc người (hoặc là các
nhóm Bru – Vân Ki
ều trong cộng đồng Môn Khơme miền núi, hoặc là các nhóm người
Ch
ứt trong cộng đồng Việt - Mường), nhưng cũng phải thấy rằng tương đồng về văn
hoá th
ể hiện sự giao lưu học hỏi lẫn nhau giữa các nhóm của tộc người Chứt, Bru – Vân
Ki
ều. Đi vào cụ thể chúng ta thấy, các tộc người này xét về phương diện làng bản và
nhà c
ửa, đều là những bản làng với cây cối, núi rừng bao quanh và cũng đều là những
ngôi nhà sàn b
ằng chất liệu gỗ, tranh, tre, nứa, lá; về công cụ sản xuất, nhà cửa, đi lại,

đều cơ bản giống nhau, được chế tác từ các nguyên liệu gỗ, tre, nứa; về sinh hoạt kinh tế
đều chủ yếu là sản xuất nương rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm…
V
ề ẩm thực, ngoài các món ăn truyền thống của từng tộc người, như bột nhúc
c
ủa người Chứt, cơm lam của người Vân Kiều… đã xuất hiện, đan xen món ăn tộc
ng
ười này với tộc người khác mà rất khó để xác định món ăn này là của tộc người này
hay t
ộc người kia, ví như món cơm, món bồi đang trở thành món ăn chung không chỉ
c
ủa người Nguồn (một nhóm địa phương của người Việt) mà cả các nhóm của tộc người
Ch
ứt, Vân Kiều ở Minh Hoá, Tuyên Hoá và miền núi Bố Trạch, hay món ốc suối, rượu
c
ần, các món bánh nếp, như bánh chưng, bánh giày, bánh lá…Về tổ chức bữa ăn, chúng
ta c
ũng thấy có sự biến đổi rõ nét; đó là nếu như trước đây đồng bào tổ chức hai bữa ăn
chính: bu
ổi sáng và buổi chiều tối (buổi trưa người ta mang theo một ít sắn khoai ăn tạm
trên r
ẫy), hiện nay do kinh tế vườn, chăn nuôi chuồng trại, sản xuất ruộng vãi, ruộng
n
ước được chú ý, đường giao thông phát triển… nên cơ cấu bữa ăn của một bộ phận lớn
dân c
ư chuyển sang buổi trưa và buổi tối. Cách thức ăn uống của đồng bào các dân tộc
thi
ểu số nơi đây cũng đã có những biến đổi đáng kể; đó là việc người dân sử dụng phổ
bi
ến bát đũa, môi thìa trong bữa ăn, hiện tượng ăn bốc gần như đã được xoá bỏ.

V
ề trang phục, chúng ta thấy hiện nay các trang phục bằng vỏ cây chỉ tồn tại
trong ti
ềm thức, còn các bộ váy áo truyền thống của đồng bào gần như còn lại rất ít ỏi,
có ch
ăng chỉ có trong dịp lễ hội tết; ngay cả những loại áo váy đó người dân không dệt
được, họ phải mua các sản phẩm từ Lào thông qua các chợ hoặc các thương nhân đến
buôn bán tr
ực tiếp ở bản. Do sở thích váy áo từ sản phẩm zèng gắn với núi rừng, nên
đồng bào cũng mong muốn có được những váy áo đó. Nhưng một thực tế loại váy áo từ
sản phẩm zèng giá đắt đỏ, trong lúc các loại quần áo bằng chất sợi cotton được sản xuất
t
ừ các nhà máy công nghiệp lại có giá thành rẻ nên đa số đồng bào chọn lựa loại trang
ph
ục này. Đó là lý do cơ bản làm cho trang phục các tộc người thiểu số nơi đây không
còn gi
ữ được cái riêng truyền thống dân tộc mình, mà đã hoà vào trong dòng chảy giao
l
ưu và hội nhập văn hoá.
V
ề phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo, chúng ta thấy rất khó phân biệt đâu là
c
ủa tộc người này hay tộc người khác; các phong tục cúng phát rẫy, gieo hạt, cơm mới,
hay phong t
ục chọn đất lập bản làm nhà,… của nhóm tộc người này với nhóm tộc người
khác c
ũng gần như tương tự nhau. Lễ hội đập trống nay cũng không chỉ riêng của người
Ma Coong; bây gi
ờ lễ hội này đã trở thành lễ hội khu vực, có quy mô toàn xã, bao gồm
c

ả người Ma Coong, Trì, Arem và cả người Việt… Nhiều nghi lễ tôn giáo đều chung
cho c
ả các tộc người trong khu vực, ví như người Bru – Vân Kiều dùng phương pháp
“th
ổi” chữa bệnh, biết dùng độc dược để “thư” kẻ thù, thì người Chứt cũng biết thổi,
bi
ết thư như vậy[1;27].
Trong v
ăn học nghệ thuật, những mô típ truyền thuyết, truyện cổ dân gian, như
ngu
ồn gốc con người, sự tích cây cối, muông thú ở rừng, người giàu gian ác, người
nghèo hi
ền hậu, đáng thương… chúng ta rất khó phân biệt đâu là của tộc người này, đâu
là c
ủa tộc người khác, hay các loại hình nhạc cụ, như sáo Pi, sáo K’nông, tù và, đàn môi
đều thấy xuất hiện ở các nhóm tộc người Vân Kiều và người Chứt.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, do tác động của kinh tế thị trường, sự mở
r
ộng các nông lâm trường của vùng rừng núi, những yếu tố văn hoá của người Việt lại
càng có
điều kiện giao lưu, hội nhập với văn hoá các tộc người thiểu số. Những ngôi
nhà
đất bê tông, mái ngói hoặc lợp tôn, những trang phục, dụng cụ sinh hoạt gia đình
đều được mua hoặc trao đổi từ người Việt hay người Lào, rồi các món ăn, dụng cụ chế
bi
ến món ăn, dụng cụ ăn uống cũng như người Việt. Ngay đến cả những phong tục tập
quán – y
ếu tố ít chịu ảnh hưởng và biến đổi nhất, cũng có xu hướng giao lưu, biến đổi,
nh
ư một số bản làng của tộc người thiểu số học theo cách người Việt tổ chức tảo mộ vào

d
ịp lễ tết, thắp hương lập bàn thờ tổ tiên, tổ chức lễ hội tết cùng với người Việt, hôn
nhân ch
ịu ảnh hưởng trang phục, bài trí tổ chức như người Việt. Thậm chí xu hướng
t
ầng lớp thanh thiếu niên bây giờ chỉ học và nói tiếng Việt, sử dụng rất ít tiếng tộc người
mình
Giao l
ưu văn hoá giữa các tộc người ở vùng núi Quảng Bình có cả những tác
động tích cực, tiêu cực. Trước hết, giao lưu góp phần thúc đẩy quá trình xích lại gần
nhau và hi
ểu biết lẫn nhau giữa các tộc người; giao lưu cũng là tác nhân quan trọng thúc
đẩy nhanh quá trình biến đổi văn hoá truyền thống theo xu hướng học hỏi những giá trị
tinh hoa c
ủa các tộc người khác. Tuy nhiên, do cường độ, phạm vi của quá trình giao
l
ưu văn hoá diễn ra mạnh mẽ và rộng lớn nên đã tạo ra sự nhiễu loạn của văn hoá truyền
th
ống. Một số yếu tố văn hoá truyền thống chưa đủ sức bảo tồn hoặc không còn thích
ứng cao với sự biến đổi xã hội đã dần mất đi, thay vào đó là các yếu tố văn hoá tộc
ng
ười khác dần được xuất hiện. Và như vậy cái truyền thống chưa bị mất hoàn toàn đã
hoà vào nh
ững yếu tố văn hóa tộc người khác, tạo nên sự lai tạp không thuần nhất trong
đời sống văn hoá tộc người; ví như tục tảo mộ thắp hương, lập bàn thờ học theo lối
ng
ười Việt; tục cưới hỏi vừa của các tộc người thiểu số, vừa lễ nghi người Việt; nhà cửa
v
ừa nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất; trang phục vừa váy áo, vừa quần Jean, áo
thun; ngôn ng

ữ vừa tiếng các tộc người thiểu số vừa tiếng Việt, có khi tiếng tộc người
đang ngày càng bị thu hẹp Hậu quả tất yếu là cái truyền thống, cái nội lực bị lấn áp và
lai t
ạp.
- Hội nhập và ảnh hưởng văn hoá hiện đại
Trong nh
ững năm gần đây, chúng ta thấy các tộc người thiểu số ở miền núi
Qu
ảng Bình đang diễn ra một quá trình hội nhập văn hoá truyền thống và hiện đại mạnh
m
ẽ và rộng khắp. Nhiều bản làng của đồng bào đã kết hợp tốt những yếu tố văn hoá
hi
ện đại và truyền thống, ví như các nhóm của tộc người Chứt, đặc biệt là người Sách
đã biết chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường trồng lúa vãi, lúa nước, trồng rừng, chăm
sóc và b
ảo vệ rừng, trồng các loại cây ăn quả có giá trị cao, biết chăn nuôi bò lai, biết sử
d
ụng khoa học kỹ thuật để chăm sóc giống cây, con trong trồng trọt và chăn nuôi, người
Vân Ki
ều kết hợp các hoạt động kinh tế truyền thống với kinh tế VAC để tăng cường
các s
ản phẩm hàng hoá Trong nhà cửa, nhiều bản làng đã biết kết hợp xây dựng nhà
chung c
ộng đồng, nhà sàn theo lối hiện đại (bê tông hoá, xi măng hoá ), hoặc các
tr
ường học, trạm xá, trụ sở uỷ ban được xây dựng theo lối hiện đại bên cạnh bản làng
c
ủa đồng bào. Trong ẩm thực, các yếu tố văn hoá hiện đại ngày càng được du nhập một
cách m
ạnh mẽ vào bản làng của đồng bào các dân tộc, kể cả bản làng xa nhất; đó là sự

xu
ất hiện của các phương tiện chế biến món ăn, như nồi cơm điện, bếp ga, nồi lẩu điện,
th
ậm chí xuất hiện một số món ăn công nghiệp đóng hộp, bánh mì, bơ, sữa, mì ăn liền.
Trong trang ph
ục, bên cạnh các trang phục quần áo Âu bằng cotton đã được người dân
s
ử dụng từ lâu, nay đã xuất hiện complet, áo len, áo dài và thậm chí còn có cả trang
ph
ục hiện đại của cô dâu chú rể trong ngày cưới. Việc tổ chức lễ hội đã có sự kết hợp
các y
ếu tố truyền thống và hiện đại, như bên cạnh việc cúng tế, lễ nghi tôn giáo còn tổ
ch
ức liên hoan văn nghệ, thi đấu thể thao. Nhiều gia đình các tộc người thiểu số đã sử
d
ụng các phương tiện hiện đại trong sinh hoạt hàng ngày, như xe máy, tivi, radio… Tất
c
ả những điều đó đã làm cho đời sống các tộc người thiểu số ở vùng rừng núi ngày càng
đổi mới. Một số bản làng nhanh chóng đón nhận các giá trị văn hoá hiện đại một cách
h
ồ hởi, như loa phát thanh, tivi màn ảnh rộng, phim ảnh, sách báo, các bài hát, điệu múa,
nh
ạc cụ hiện đại và những bộ quần áo theo mốt mới, dây chuyền vàng, nhẫn vàng,
nh
ững đồ dùng bằng nhựa, bằng ni lông và cả những dàn karaoke vốn chỉ có ở phố
huy
ện cũng dần có mặt ở các bản làng.
Rõ ràng, quá trình h
ội nhập và ảnh hưởng văn hoá hiện đại đã làm cho đời sống
kinh tế của người dân nơi đây không ngừng được cải thiện, tạo cơ hội cho quá trình hội

nh
ập và giao lưu với bên ngoài. Từ đó, đời sống văn hoá cũng có điều kiện để biến đổi,
ti
ếp nhận tinh hoa văn hoá hiện đại, để họ dần loại bỏ các hủ tục lạc hậu, thay vào đó
các y
ếu tố văn hóa mới, hiện đại, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội
các c
ộng đồng dân cư nơi đây.
C
ũng phải nhận thấy rằng, các sản phẩm văn hoá hiện đại thâm nhập vào xã hội
các t
ộc người thiểu số Quảng Bình phần nào làm đảo lộn đời sống văn hoá cổ truyền
c
ủa họ; nó là tác nhân làm mất dần những truyện cổ, những điệu múa, những nhạc cụ,
nhà c
ửa truyền thống, những tri thức bản địa của đồng bào. Đó là thực tế mà chúng ta
ph
ải chấp nhận để tìm ra giải pháp nhằm vừa tiếp nhận những yếu tố văn hoá hiện đại
v
ừa bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống, chứ không phải “đóng cửa” bản làng để
ng
ăn chặn ảnh hưởng của văn hoá hiện đại.
- Xu hướng đồng hoá về văn hoá
Trong ti
ến trình phát triển của các tộc người, một xu hướng biến đổi văn hoá
th
ường diễn ra đó là đồng hoá văn hoá, bao gồm cả đồng hoá tự nhiên và đồng hoá
c
ưỡng bức. Đồng hoá tự nhiên là quá trình tiếp nhận văn hoá một cách tự nguyện giữa
các t

ộc người, thường giữa các tộc người có dân số lớn hơn, có trình độ phát triển kinh
t
ế văn hoá – xã hội cao hơn với tộc người hay nhóm tộc người nhỏ sống cận cư. Xu thế
này d
ẫn đến tình trạng các tộc người và nhóm tộc người nhỏ tiếp thu văn hoá một phần
ho
ặc hoàn toàn (khi bị đồng hoá) với tộc người có trình độ cao hơn. Đồng hoá khác với
giao l
ưu văn hoá ở chỗ, nếu giao lưu văn hoá là tiếp nhận văn hoá của tộc người khác
trên c
ơ sở cái truyền thống của mình để bổ sung và đổi mới. Còn đồng hoá văn hoá là
vay m
ượn thuần tuý, để bổ sung vào các yếu tố văn hoá của tộc người cận cư có trình độ
phát tri
ển cao hơn (trong nhiều trường hợp đồng hoá làm suy giảm các yếu tố văn hoá
truy
ền thống). Còn đồng hoá cưỡng bức là áp đặt, ép buộc khi cộng đồng dân cư đó
ch
ưa tự nguyện tiếp nhận văn hoá.
Trong nh
ững năm gần đây, cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường, các
xu h
ướng đồng hoá mà chủ yếu là đồng hoá tự nhiên đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở
vùng
đồng bào tộc người thiểu số nước ta. Đối với đồng hoá tự nhiên ở vùng đồng bào
các dân t
ộc thiểu số Quảng Bình, quá trình đó được diễn ra ở hai trường hợp sau đây:
+
Ở vùng thung lũng thấp của các huyện Tuyên Hoá, Minh Hoá có nhóm người
Sách, kho

ảng trên 2.000 người sống kề cận với người Việt (nhóm Nguồn). Nhóm tộc
ng
ười này đang ngày có xu hướng bị đồng hoá tự nhiên bởi tộc người kề cận có trình độ
phát tri
ển kinh tế- xã hội cao hơn. Bởi vậy, có hiện tượng một số người Sách tự nhận
mình là ng
ười Nguồn và ngược lại. Hơn thế nữa, hiện nay chúng ta rất khó phân biệt
ng
ười Sách, người Nguồn nếu chỉ xét về phương diện văn hoá vật thể của hai nhóm tộc
ng
ười này.
+ Trường hợp đồng hoá tạo nên những thay đổi mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của
đời sống các tộc người thiểu số Quảng Bình trong những năm gần đây là quá trình diễn
ra
đồng hoá tự nhiên với văn hoá người Việt. Trường hợp này được đồng nhất với quan
ni
ệm hiện đại hoá văn hoá các tộc người thiểu số. Việc đồng hoá tự nhiên này diễn khá
m
ạnh mẽ từ đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, như sự tiếp nhận quy trình và kỹ
thu
ật sản xuất ruộng nước, trồng trọt, chăn nuôi, cách thức cư trú, làm nhà, các phương
ti
ện sinh hoạt trong gia đình (giường, tủ, bàn, ghế ), dụng cụ và phương thức chế biến
món
ăn, cách ăn, các loại hình ca múa nhạc, và thậm chí cả tín ngưỡng lễ nghi tôn giáo
(cách th
ức tảo mộ, lập bàn thờ tổ tiên, lễ nghi trong tang ma, cưới hỏi
2
).
Đối với đồng hoá cưỡng bức, đây là một xu hướng chỉ diễn ra ở một số trường

h
ợp trong quá trình thực hiện chính sách định canh, định cư hoặc thực hiện chương trình
134, 135
ở một số bản như trường hợp các bản Mò O Ồ Ồ, bản Ón của người Rục. Việc
xây d
ựng những ngôi nhà đất với chất liệu bê tông cốt thép chật hẹp, mái lợp tôn xung
quanh không có
đất vườn, xa khu vực sản xuất và nguồn nước, hoặc đưa người dân về
s
ống ở các khu định cư khi người dân chưa đồng tình Những trường hợp như vậy, ở
m
ặt này, mặt khác đều là sự biểu hiện của hình thức đồng hoá cưỡng bức.
Rõ ràng,
đồng hoá cưỡng bức dù ở hình thức này hay hình thức khác đều mang
m
ột nội dung tiêu cực, không chỉ suy giảm văn hoá tộc người, mà còn làm ảnh hưởng
tâm lý,
đời sống của người dân. Còn đồng hoá tự nhiên, bản thân của nó là tích cực để
t
ạo nên hội nhập và biến đổi văn hoá, làm cho các giá trị truyền thống phát triển theo xu
h
ướng văn minh hiện đại. Tuy nhiên, ngay cả đồng hoá tự nhiên vẫn xuất hiện một xu
h
ướng tiêu cực là có thể đánh mất bản sắc văn hoá tộc người, bởi thế chúng ta cần có
nh
ững biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh các xu hướng đồng hoá nhằm hạn chế những
m
ặt tiêu cực của nó.
- Xu hướng mai một và đứt gãy văn hoá truyền thống
Đó là xu hướng biến đổi văn hoá truyền thống và chủ nhân của nó tự đánh mất

m
ột phần hoặc toàn bộ các yếu tố văn hoá trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó
không ph
ải là quá trình kế thừa, tiếp nhận, loại bỏ và bổ sung để phát triển mà là sự lãng
quên
đứt gãy truyền thống. Từ đó dẫn đến hiện tượng, cái cũ mất đi, nhưng cái mới
ch
ưa hình thành, tạo nên sự hẫng hụt mai một trong đời sống văn hoá mà hậu quả là các
giá tr
ị văn hoá của họ bị suy thoái và trở nên nghèo nàn.
Chúng ta có th
ể nhận thấy rõ nét sự biến đổi văn hoá theo xu hướng này ở mối
quan h
ệ xã hội và tổ chức xã hội. Ở đây, vai trò già làng, chủ đất và cả thầy cúng bị mờ
nh
ạt, thậm chí có một số bản chỉ còn tồn tại trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo, như bản
2
Th c ra xu h ng này v a bao hàm n i dung giao l u v n hoá và ng hoá t nhiên gi a
ng i Vi t v i các t c ng i thi u s .
người Sách, Mày, Rục, Mã Liềng; hoặc như trong quan hệ xã hội, các yếu tố tương trợ
giúp
đỡ lẫn nhau, bình đẳng và dựa trên quyền sở hữu tối cao của cộng đồng, những tri
th
ức bản địa, luật tục đang có xu hướng mai một, mờ nhạt dần vai trò của nó trong đời
s
ống của người dân. Trong lúc đó, ảnh hưởng và vai trò của pháp luật, của tổ chức hành
chính, nh
ững nguyên tắc nghiệt ngã của đời sống kinh tế thị trường chưa hội đủ các điều
ki
ện để bén rễ sâu đậm trong đời sống nhân dân. Trong đời sống văn hoá vật thể và phi

v
ật thể, chúng ta cũng bắt gặp những hiện tượng tương tự như vậy, dụng cụ đánh bắt,
trang ph
ục, đan lát truyền thống đang có nguy cơ bị mai một và dần bị đánh mất, thay
vào
đó là các trang phục, các dụng cụ sinh hoạt từ sản phẩm công nghiệp. Kể cả các lễ
nghi tôn giáo, l
ễ hội do quan hệ cộng đồng và vai trò già làng bị suy giảm, nên cũng
theo
đó bị mai một, đứt gãy; các kho tàng truyện cổ, ca múa nhạc của các tộc người do
tác
động của xã hội hiện đại mà cũng dần bị lãng quên Theo xu hướng này, hệ quả tất
y
ếu là cái cũ, cái truyền thống bị suy thoái trong lúc chủ nhân của nó chưa đủ nội lực để
ti
ếp nhận cái mới nên tạo ra một sự “nhiễu loạn” [2;36] văn hoá và tất yếu làm cho bản
s
ắc văn hoá của cộng đồng dân cư đó trở nên nghèo nàn. Đi vào cụ thể chúng ta thấy,
nh
ững yếu tố văn hoá truyền thống của đồng bào các tộc người thiểu số nơi đây, bị mai
m
ột và đứt gãy như sau:
+ Truy
ền thống cư trú theo cấu trúc làng bản vùng rừng núi với việc coi trọng
ki
ến trúc mật tập, coi trọng nguồn nước, kề cận với rừng núi, trong nhiều trường hợp
nh
ững ngôi làng hiện nay của người dân không còn giữ được truyền thống cư trú đó.
Làng
được xây dựng theo cấu trúc tán, chạy dọc theo đường giao thông, xa nguồn nước,

xa r
ừng, làng trơ trọi giữa bãi đất bằng, không cây trái bao quanh.
+ Nh
ững ngôi nhà sàn truyền thống được xây dựng trên những mảnh đất bằng tri
th
ức dân gian của người dân, bằng chất liệu gỗ, tranh tre nứa lá của rừng, nhà sàn chống
l
ại được những thách đố của môi trường rừng núi… nay nhiều bản thay vào ngôi nhà
sàn
đó là những ngôi nhà đất, nửa sàn nửa đất, hoặc những ngôi nhà sàn bằng chất liệu
hi
ện đại, cột bằng bê tông, mái lợp tồn. Từ đó, cách sắp xếp bếp lửa, không gian sinh
ho
ạt trong ngôi nhà cũng bị đảo lộn không còn như trước.
+
Ẩm thực với những món ăn truyền thống đặc trưng cho các tộc người thiểu số
n
ơi đây, như rượu cần, cơm lam ngày càng mai một, thay vào đó là rượu gạo, bia, rượu
Lào…
+ Trang ph
ục bằng chất liệu vỏ cây mất như là một điều tất yếu, nhưng trang
ph
ục bằng chất liệu Zèng ngày càng trở nên ít ỏi, thay vào đó gần như là một sự nhất thể
hoá trang ph
ục với người Việt.
+ Các d
ụng cụ sản xuất, phương tiện vận chuyển, dụng cụ sinh hoạt gia đình
truy
ền thống đang ngày càng bị mai một, đứt gãy. Bây giờ các công cụ như cung tên,
b

ẫy, còn lại rất ít ỏi; các loại đồ đựng, đồ dùng bằng tre nứa được thay bằng các công cụ
b
ằng nhựa, thậm chí cũng là gỗ những được mua từ người Việt ở đồng bằng; nhiều gia
đình còn sử dụng xe gắn máy làm phương tiện vận chuyển thay chiếc gùi trên lưng đã
g
ắn bó với họ bao đời này.
+ Thi
ết chế xã hội với vai trò già làng, hội đồng già làng, chủ đất, thầy cúng
đang ngày càng bị mờ nhạt. Theo đó, những tri thức địa phương, luật tục cũng bị suy
gi
ảm vai trò của nó trong đời sống cộng đồng.
+ Hôn nhân, gia
đình truyền thống của đồng bào cũng chịu một quá trình đứt
gãy và suy thoái. Nh
ững lễ tục trong hôn nhân truyền thống, như các bước tiến hành, lễ
v
ật, vai trò ông cậu, bà mối, những lễ nghi kiêng kị ngày càng được giản bớt sự rườm rà.
L
ễ cưới hiện nay so với trước đơn giản hơn nhiều. Thậm chí hôn nhân theo đời sống
m
ới, theo nghi thức hiện đại cũng được nhiều bản làng đồng bào dân tộc tiếp nhận. Gia
đình, cũng đang dần biến đổi theo xu hướng tăng cường sự bình đẳng giữa vợ và chồng,
gi
ữa con trai và con gái; sự phận biệt trai gái hay quyền lực của người cha gia trưởng
nh
ư trước đây ngày càng thu hẹp.
+ Trong nh
ững năm gần đây tín ngưỡng tôn giáo của người dân đã phần nào suy
gi
ảm – suy giảm về cả lễ nghi, lễ vật và cả vai trò tầm quan trọng của nó đối với đời

s
ống người dân. Bây giờ các lễ nghi tiến hành trong kinh tế nương rẫy, trong săn bắn
đơn giản hơn nhiều so với trước; hầu như lễ tìm đất, phát rẫy, gieo hạt, lễ cúng trong săn
b
ắn không còn nữa, chỉ còn lại lễ cúng cơm mới, lễ tết và ngay cả những lễ nghi này lễ
v
ật có phần đơn giản hơn nhiều. Còn các loại hình ma thuật, vai trò và niềm tin của nó
c
ũng bị giảm sút, ma thuật làm hại đã mất dần, còn ma thuật chữa bệnh không còn
quy
ền lực như nó đã từng ngự trị trong đời sống cộng đồng.
+ Hi
ện nay, các loại hình lễ hội này vẫn còn tồn tại, nhưng đã có sự biến đổi. Đó
là l
ễ hội đập trống mở rộng quy mô lễ hội vùng, lễ cơm mới, lễ tết mở rộng quy mô liên
k
ết giữa các gia đình, thậm chí có những nơi liên làng, bản; lễ vật trong lễ hội cũng
phong phú h
ơn, kể cả những lễ vật được chế biến từ những nguyên liệu lương thực, thực
ph
ẩm mua từ các chợ; phần hội cũng được mở rộng hơn, có sự tham gia của loa máy,
nh
ững bài hát hiện đại…
+ Hi
ện nay, tập tục trong sinh đẻ đã biến đổi nhiều so với trước đây. Đồng bào
không còn gi
ữ nguyên những tập tục kiêng kị, cấm đoán với sản phụ một cách nặng nề.
Nh
ững tập tục dựng nhà, như chọn đất, chọn ngày, những kiêng kị, nghiêm cấm trong
làm nhà gi

ờ chỉ còn tồn tại rất mờ nhạt và không chi phối nhiều lắm trong đời sống của
ng
ười dân. Những tập tục, lễ nghi, lễ vật trong hôn nhân cũng được đơn giản hơn nhiều
so v
ới trước, cưới hỏi chỉ còn lại chủ yếu ở lễ cưới tại nhà trai, còn các lễ nghi khác,
nh
ư lễ dạm ngỏ, lễ hỏi, lễ rước dâu đã được giảm bớt nhiều, có khi chỉ còn như là một
th
ủ tục. Lễ vật trong cưới hỏi như là một hình thức thách cưới đã bị phá bỏ, bây giờ chỉ
mang tính t
ượng trưng kỷ niệm. Một số đám cưới của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây
bây gi
ờ không khác gì đám cưới của người Việt. Tang ma của đồng bào cũng đã có ít
nhi
ều biến đổi so với trước đây; đó là việc người dân đã làm quan tài bằng gỗ để chôn
cất người chết, đã không còn nỗi sợ hãi hồn ma người chết để phải vội vàng đi về nhà
sau khi chôn c
ất người chết, không còn sự phân biệt nặng nề chết xấu và chết tốt…
+ V
ăn nghệ dân gian của các tộc người thiểu số nơi đây là một lĩnh vực chịu sự
đứt gãy và mai một nhiều nhất. Kho tàng truyện cổ giờ đây chỉ còn lại trong trí nhớ ít ỏi
c
ủa người già, các làn điệu dân ca đang có nguy cơ thất truyền, nhất là làn điệu Kà tơm
là lêng
ở các nhóm người Chứt, cũng như điệu Khắp ở người Khùa [3;176]. Các loại
hình nh
ạc cụ cũng chung số phận tương tự như vậy; có nghĩa là chỉ được người già sử
d
ụng và cũng chỉ tồn tại ít ỏi trong từng cộng đồng làng bản.
- Xu hướng phục hồi văn hoá truyền thống

Trong nh
ững năm gần đây, đặc biệt từ sau nghị quyết TW V khoá VIII của ban
ch
ấp hành TW Đảng về việc phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
s
ắc dân tộc, phong trào phục hồi và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc được toàn Đảng,
toàn dân
đặc biệt quan tâm. Với tinh thần đó, xu hướng phục hồi văn hoá truyền thống ở
các t
ộc người thiểu số Quảng Bình được diễn ra hầu khắp ở các bản. Việc phục hồi văn
hoá truy
ền thống trước hết được thể hiện trong lĩnh vực tổ chức các lễ hội cộng đồng,
nh
ư lễ hội cúng cơm mới, lễ tết, lễ cúng thần núi và việc phục hồi các lễ nghi trong ma
chay, c
ưới hỏi… Bên cạnh đó, phục hồi văn hoá truyền thống còn được thể hiện trong
vi
ệc tổ chức các lễ hội liên hoan văn hoá các tộc người thiểu số, mà chủ yếu là phục
d
ựng những điệu múa, hát, nhạc cụ truyền thống của đồng bào và chủ trương xây dựng
nhà v
ăn hoá cộng đồng theo mô típ kiến trúc của nhà cộng đồng của các tộc người thiểu
s
ố Trường Sơn… Theo đó, các lễ nghi cúng tế, các món ăn truyền thống, các tri thức
b
ản địa, luật tục, vai trò già làng, các loại hình nhạc cụ, dân vũ, dân ca truyền thống của
đồng bào được phục hồi trong đời sống của người dân.
Tuy nhiên, quá trình ph
ục hồi văn hoá truyền thống trong xu thế đổi mới của đời
s

ống xã hội, trong sự tác động của nền kinh tế thị trường, nên các chuẩn mực của di sản
truy
ền thống có sự biến đổi. Nên nhớ rằng, có một xu hướng hiện nay khi bản làng có
điều kiện kinh tế phát triển, việc phục hồi văn hoá truyền thống ngày càng được đẩy
m
ạnh, nên việc biến đổi các giá trị truyền thống trong quá trình phục hồi, tạo dựng lại là
điều tất yếu. Hơn thế nữa, do chiến tranh chống ngoại xâm diễn ra quá dài, sự khốc liệt
c
ủa chiến tranh, sự nghiệt ngã của thời gian, của mưu sinh cuộc sống và cả sự tác động
c
ủa quá trình hiện đại hoá, đã làm cho nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị mai một,
lãng quên. Vì v
ậy, việc phục hồi văn hoá truyền thống trong những năm gần đây, rất
nhi
ều trường hợp chủ yếu dựa trên trí nhớ, tiềm thức, hồi cố của những người già nên
không th
ể không diễn ra một sự biến đổi so với cái cũ, cái truyền thống. Đó là chưa nói
đến có một xu hướng phục hồi truyền thống khi chưa có sự hiểu biết một cách đúng đắn

đầy đủ chính cái truyền thống đó nên đã tạo ra sự biến dạng. Ví như, việc tổ chức lễ
h
ội đập trống trên quy mô liên tộc người mà người tham gia lễ hội không biết mục đích
c
ủa lễ hội, lễ nghi, lễ vật truyền thống, không biết đâu là bài hát, nhạc cụ của tộc người
mình, và theo đó, các lễ vật cúng tế cũng pha tạp cả món ăn truyền thống và hiện đại,
hay vi
ệc xây dựng nhà sinh hoạt chung của cộng đồng chúng ta chỉ mới xây dựng dạng
th
ức ngôi nhà như là nơi tập trung hội họp của cộng đồng; nhà được xây dựng bê tông,
c

ốt thép, mái lợp ngói hoặc tôn và đó là những ngôi nhà đất, trong nhà chỉ bài trí một số
bàn gh
ế.
Rõ ràng, các xu h
ướng biến đổi văn hoá đó trong những năm gần đây ở vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Bình vừa mang yếu tố tích cực vừa có những mặt
tiêu c
ực; vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu các di sản văn hoá tộc người, đồng thời nắm
b
ắt các quy luật tất yếu thời đại để thúc đẩy, phát huy những mặt tích cực, hạn chế
nh
ững mặt tiêu cực trong quá trình biến đổi văn hoá các dân tộc thiểu số nơi đây là một
vi
ệc làm cần thiết và cấp bách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguy n V n M nh, D u n v n hóa truy n th ng các dân t c thi u s Qu ng Bình,
T
p chí KHXH Mi n Trung – Tây Nguyên, S 3, (2008).
2. Ngô
c Th nh, V n hoá truy n th ng các dân t c Tây Nguyên, ti m n ng, th c tr ng
và m
t s v n t ra trong b o t n và phát huy, T p chí KHXH Mi n Trung – Tây
Nguyên, S
1, (2008).
3. Nguy
n H u Thông, Nguy n Kh c Thái, Hoa trên á núi (Chân dung các dân t c thi u
s
mi n Tây Qu ng Bình), NXB Th ng kê, Hà n i, 2006.

CULTURAL CHANGES AMONG THE ETHNIC MINORITIES

IN QUANG BINH IN THE PRESENT TIME
Nguyen Van Manh
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
In recent years, there have been positive and negative factors regarding the cultural
changes among the ethnic minorities in Quang Binh. As a result, it is necessary and urgent to
study the cultural heritages and grasp the indispensable rules of the era in order to promote the
achievements, restrict the limitations in the process of cultural changes among the ethnic
minorities.

×