Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các trận không chiến trên bầu trời Việt nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.37 KB, 84 trang )

^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

History E-Books: HD300306008
Compile by Rosea
Các trận không chiến trên bầu trời Việt Nam
Chiến thuật mới của Mig .
Trang 127-128.
Thời tiết tháng 8/1967 thật tốt, nên KQ và HQ tiếp tục các cuộc không kích quyết liệt. Phần lớn
nỗ lực tập trung vào Route Package VI chống lại các đường liên lạc, đặc biệt là 2 đường xe lửa
chạy đông bắc và đông tây từ Hà nội sang TQ và hệ thống vận tải từ Hà nội đến cảng Hải phòng.
Mig không hoạt động mạnh kể từ tháng 6, và cho đến lúc đó các đơn vị không thấy có dấu hiệu
nào của chiến thuật mới. Nhưng, thật không may, họ đã nhầm.
Ngày 23 tháng 8, 1967, một lực lượng lớn gồm 9 phi đội 105 và 4 phi đội F4 (1 chống Mig
(MigCap) và 3 cường kích) tấn công ga Vinh Yên. F105 tấn công trước, có F4 MigCap ở trái sau
và 3 biên đội F4 ném bom bay theo đội hình chữ V ngay đằng sau. THời tiết tốt, trần mây 25,000
feet (overcast).
Lực lượng tấn công không biết đã có 2 Mig21 xuất phát từ Phúc Yên, bay thấp chặn đánh. Mig
bay gần mặt đất (stay in the ground cluster [1]) để tránh bị rada máy bay Mỹ phát hiện, nhưng tín
hiệu transponder của nó đã bị thiết bị QRC-248 trên một chiếc EC-121 đang bay vòng nhận
được. CHiếc EC-121 thông báo vị trí của Mig, nhưng đơn vị hỗ trợ không có phản ứng.
Khi dẫn đường mặt đất thấy MIg đã ở bên sườn của đội hình ném bom, và ngoài tầm của F4
MigCap, họ ra lệnh Mig vọt lên 28,000 feet (kqndvn ~ 9,000m), đưa Mig vượt trên trần mây và ở
sườn của một trong các phi đội ném bom, trong khi vẫn không bị rada của F4 phát hiện. Mig21
tiếp cận lực lượng, và theo lệnh của dẫn đường mặt đất, họ đâm xuyên trần mây với tốc độ cực
nhanh vào phi đội Ford, một trong 3 phi đội F4 ném bom bay phía sau đội hình chính. Mig tấn
công bằng tên lửa Atoll; Cảnh báo đầu tiên mà F-4 nhận được là khi số 3 thấy một tên lửa bắn


trúng số 4, biến nó thành một quả cầu lửa. Cùng lúc đó, số 2 thấy một tên lửa Atoll bay sượt bên
cạnh và phá huỷ số 1.
Mig bay thoát không bị tổn thương (unscathed).
Nhưng trận đánh vẫn chưa hết; trên khu vực mục tiêu, thêm nhiều Mig21 và Mig17 tấn công với
chiến thuật conventional. Một F-4 phóng tên lửa Aim-7 vào một F4 khác mà nó nhận lầm là quân
địch, nhưng đã kịp tắt rada (break lock) trước khi tên lửa trúng mục tiêu. Một F4 nữa bị cao xạ
bắn rơi. Số 3 của biên đội Ford hết dầu khi chưa bắt kịp máy bay tiếp dầu, khiến tổng số máy bay
bị mất là 4 chiếc, 3 trong số đó thuộc biên đội Ford. Tổ bay của Ford 3 được đón về; ít nhất 3 dù
đã được nhìn thấy bung ra từ Số 1 và số 4, nhưng không ai trong các tổ bay được cứu thoát.
Cuộc tấn công chết chóc này của Mig21 lại càng gây bối rối khi sau đó các phi công biết đuợc bộ
phận quân báo Mỹ đã quan sát được Mig luyện tập chiến thuật này từ 10 ngày trước đó, nhưng
chẳng ai báo lại cho các phi đội. Họ còn lo âu hơn nữa khi biết rằng đó chỉ là khởi đầu của sự
thay đổi căn bản chiến thuật của Mig 21 KQ Bắc Việt.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Ở bên HK100 đã có lần nói về cái này rồi. Cuộc không chiến trên không ở Triều Tiên diễn ra rất
khốc liệt. Ban đầu, Mỹ và đồng minh tuyên bố hạ được 10/1 máy bay Bắc TT và TQ. Sau đó,
Liên Xô thành lập một đơn vị đặc biệt tham chiến trực tiếp, các phi công bắt buộc nói tiếng TT
hay TQ. Tỷ lệ được mất của đơn vị này lên đến gần 10/1. Tỷ lệ này thực tế còn cao hơn nữa, vì
đây là các con số được hai bên công nhận khi Liên Xô giải mật tài liệu. Thực tế cao hơn vì Mỹ
chỉ công nhạn máy bay bmất do không chiến khi máy bay rơi tại trận, còn nếu máy bay lê lết ra
khỏi không gian trận đánh thì Mỹ tính là tai nạn. Do đó, có sự chênh lệch con số máy bay Mỹ bị
máy bay Liên Xô hạ. khoàng gần 1200 đến 1400 máy bay Mỹ và đồng minh mất, Liên Xô mấy vài
chục cái. Sau chiến tranh, có nhứng phi công hạ 24 chiếc, có nhứng đơn vị mà hầu hết phi công
trở thành ace. Trước đây, khi tài liệu mật về tỷ lệ thắng khủng khiêp của phía Liên Xô chưa giải

mật, người ta cũng rất khôn ngoan khi nói về không chiến ở chiến tranh này, những box chúng ta
không phải ai cũng có trình độ văn hóa như tác giả, do Liên Xô vừa ra khỏi chiến tranh, phi công
có trình độ cao rất nhiều, tướng chỉ huy không quân cũng giỏi, không thể có trận không chiến bại
như vậy.
Tỷ lệ thắng cao của Liên Xô được Mỹ và đồng minh cho là:
1, Liên Xô dùng mày bay tiêm kích đánh máy bay ném bom.
2, Liên Xô thành lập một đơn vị nhiều phi công anh hùng giầu kinh nghiêm chiến đấu.
Tuy thiếu tài liệu và cùng Liên Xô giữ tuyệt mật trận này, tránh để bọn xấu sử dụng để tuyên
truyền ww3, nhưng nhiều phi công Mỹ lúc đó họ chiến đấu với phi công Nga, do các phi công
Nga không thạo tiến nước ngoài và nói bằng tiếng mẹ đẻ.
Như vậy, box cũng đã nói đến và tài liệu nước ngoài cũng nhiều, việc "F-86 của Mỹ đã hạ Mig-15
phần lớn do phi công Nga lái với tỉ lệ tiêu diệt 10:1 " là việc làm cố ý, rẻ tiền. Thực tế đây là chiến
tranh thắng lợi huy hoàng nhất của không quân Soviet. Cũng do quá cay cú về thất bại này,
những tài liệu mang nặng tính quảng cáo không hề ngượng mồn bôi bác bóp méo nó.
Tài liệu này dù do chính người Tây phương viết nhưng họ lại đề cao không quân việt nam . Nói
chính xác là đề cao phi công và chỉ huy VN . Họ cho rằng Không quân VN bé tí tẹo , vũ khí lạc
hậu của Nga . Nhưng vẩn tìm được cách đánh và hạ được quân đội đông hơn , hiện đại hơn và
được huấn luyện kỹ . Tài liệu như vậy tại sao không đăng ? nếu bảo vũ khí Nga là vô địch thủ , là
đi trước thời đại , là đỉnh cao của kỹ thuật quân sự . vậy người vn ta có gì tài giỏi nào? xài đồ tốt
đương nhiên là thắng đồ tồi dể dàng lắm thôi . Nhưng thực tế là VN ta được trang bị vũ khí kém
nhưng vẩn thắng . Đấy là yếu tố con người . Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có nói : Vũ khí có hiện
đại cũng chỉ là cổ máy , quan trọng là người sử dụng nó .
Sách nói lên tính Anh Hùng của người VN thì nên dịch . Tôi không hiểu tại sao có quá nhiều
người sẵn lòng làm mọi thứ để bảo vệ danh dự tối cao của vũ khí Nga và quân đội Nga . Tại sao
không dùng bấy nhiêu đó tâm huyết để ca ngợi sự Anh hùng của dân tộc VN ta ? Tôi nói câu từ
đáy lòng . Ngày xưa tôi luôn nghĩ mổi vũ khí có thế mạnh và yếu riêng của nó . không có vũ khí
nào là vô địch . Tôi thích một số đặc điểm của vũ khí Nga . Nhưng từ ngày thấy ở đây vài người
xem nó như thượng đế vì nó mà xảy ra chia rẻ nghiêm trọng trong room tôi thật sự không muốn
nhắc đến ngay cả cái tên vũ khí Nga nữa . Thời đại nay đã khác xưa , thông tin toàn cầu . người
ngu cũng đọc được rất nhiều và biết rất nhiều . Vì nước Nga thân yêu mà ca ngợi thái quá chỉ

đem đến kết quả ngược , làm người ta nhìn nước Nga như một cổ máy tuyên truyền mà thôi .
Bác không quân cứ dịch di, việc ta thì ta cứ làm thôi.
Các bác ở trên này cãi nhau làm gì, có gì chỉ tranh luận thôi, hề hề, mà tranh luận phải có luận
cứ làm người khác tâm phục khẩu phục chứ không phải chửi bới linh tinh. Các bác cũng đừng
phân biệt trong nước hay ngoài nước, kiểu gì chả là người VN và đều hướng đến 1 mục đích
cuối cùng là vì VN thôi.
Vài ý kiến, để box ngày càng phát
Hê hê công nhận bạn Phù đổng nói đúng. Mình cũng có đôi chút cảm tình với nước Nga vì lớn
lên hoàn toàn trong môi trường này mà. Ngay cả bộ đồ chơi lắp ghép ở nhà mình cũng phần lớn
là xe tăng tàu bò của Nga chỉ có vài cái là của Mỹ , Pháp. Nhưng càng được tiếp cận nhiều với
thông tin toàn cầu đầu óc mình cũng sáng ra nhiều. Và từ khi vào đây chứng kiến những phát
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

ngôn không biêt ngượng mồm của một số người làm mình càng ngày càng mất cảm tình với
nước Nga nói chung và vũ khí Nga nói riêng. Người ta gọi đấy là ép phê ngược, càng tuyên
truyền lắm thì càng bị ghét.
Trong 1 lần lướt qua 1 forum nước ngoài đề tài F-16 vs Mig29 câu chuyện dẫn đến A2A ở Triều
Tiên, tôi thấy 2 phe Pro Nga và Pro Mỹ cãi nhau như mổ bò mà chẵng đi đến đâu. Tôi thấy 2 phe
đều có lý của nó. Phe Nga nói diệt cả ngàn máy bay, quá đúng vì Mig của Nga nó gặp thằng nào
là nó độp thằng đó bất kể là F-86 hay thứ gì khác. Ở Triều Tiên Mỹ và LHQ sử dụng rất nhiều B-
26, B-29, A-1H, F-8 để oanh tạc vào vị trí của BTT. Ở WW2, B-29 thì hầu như Zero không "sờ"
vào nó đc nhưng 6,7 năm sau thì là chuyện quá dễ với Mig-15. Về phía Mỹ đơn thuần chỉ là A2A
giửa F và Mig nên số lg kill ít hơn . Tỉ lệ Kill/Loss cả 2 phe đưa ra chắc chắn là phải bigmouth thôi
thời nào chả thế. Pilot Nga thay thế mấy chú nông dân China, Triều Tiên lái máy bay thì tình hình
phải khác hơn trước chứ, Mỹ có 1 đối thủ xứng tầm hơn để đọ sức. Pilot Mỹ có thể bị Pilot Nga,

Tầu , TT bắn rơi thì VN mình cũng làm đc có thể còn hơn nữa. Pilot Nga cũng vậy thôi, khi bí mật
tham chiến ở Trung Đông cũng từng bị Israel bắn rơi ngay 5 cái sau đó lặng lẻ rút quân. Nói
chung là con người có hay có dở chớ có phải siêu nhân thần thánh gì đâu mà đánh nhau là
thắng. Bỏ qua chuyện này đi không thì nó là chủ đề, Bạn KQNDVN tiếp tục nhé cho anh em
thưởng thức.
MIG21 có một cái đặc biệt mà sau này F16 của Mỹ ra đời cũng rất chú ý đến.
Mình có nhận xét chung thế này: cả Nga, Mỹ và Tây âu đều có vũ khí tốt!!! thời đại bây giờ ai có
gì tốt thì bên kia bắt trước. Không như những năm 60-70 mỗi bên cố gắng theo đường riêng của
minh. Vấn dề chủ yếu là ai có nhiều tiền! Nga không mạnh về kinh tế nên chỉ những gì quan
trọng nhất mới làm bằng hoặc vượt bên Mỹ và Tây Âu (nếu có khả năng!!!)
Mình tuy không hề biết Nga, xong có một số cảm tình với vũ khí của Nga vì cách giải quyết vấn
đề. Bản thân người Đức thường tự cao tự đại, song cũng rất phục Nga về chuyện này. Nếu có
thành viên nào là kỹ sư thiết kế ở Đức có thể đồng ý với mình về chuyện này.
Đúng như bạn nói, người Đức gần đây đầu tư qua Nga rất nhiều(chủ yếu là đặt văn phòng
nghiên cứu).Ngay ông thủ tướng Đức trong bài phát biểu giới thiệu máy bay Airbus A380 cũng
mong muốn Châu âu hợp tác kỹ thuật hơn nữa , nhất là với Nga.
Tuy nhiên, vì tập tính lâu đời ( có lẽ do thiếu tiền) ngưòi Đức cũng có nhận xét "Công nghệ Nga
nền tản là giải quyết vấn đề chứ không phải như chúng ta ( Tấy Âu, Mỹ) Công nghệ là để hoàng
thiện hơn." Do vậy mà ta cũng thấy từ máy bay, tàu, cái gì Nga cũng có , nhưng nếu chụp hình
so sánh với đồ Âu , Mỹ thì không có tính thẩm mỹ, không có tư duy hoàn thiện.
Tôi có coi 1 chương trình về tàu không gian Nga, phóng viên làm ctrình rất ngạc nhiên, ông ta
thấy các ky sư gia cố các mối nối bên trong tên lửa bằng dây kẽm ( điều không tưởng ở Châu
Âu). và ông ta phát biểu: " Như vậy mà người Nga đã lên vũ trụ đầu tiên, trong khi chúng ta đặt
ra 1 loạt tiêu chuẩn cho an toàn kỹ thuật mà vẫn chưa có phi thuyền riêng (EADS)
, sao lại căt topic cãi nhau đi. Em hồi này bận quá, thính thoảng mới vào nét được, vào rồi chả
thấy chỗ chơi đâu
Không chiến quá tầm nhìn: chiến tranh bảo vệ bầu trời miền bác là chiến
tranh đầu tien sử dụng thứ này. Tất cả đều mới, đề chưa thử nghiệm, bất
ngờ.
Chúng ta đã nhiều lần nói về chiến tranh trên không, Miền Bắc.



^=^ Đặng Hoàng Hải ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Trong chuyn ny thỡ bỏc chiangshan úng gop rt nhiu cụng. Khụng hiu cú phong chc cho
bỏc úng nhiu cụng nht cho chuyn ny c khụng.
Nhng em cú ý riờng, ú l Bolo. Trc õy, em ó r mi ngi tham gia tỡm hiu, nhng ớt
ngi hng ng qua, ri li vo dp em bn, nờn quờn mt. Em khụng cú nhiu thụng tin, nờn
lm theo kiu ny, em v cỏc bỏc cựng post ba bói, song song trong lỳc ú, em s hi c th
nhng chi tit cn quan tõm, cú th mi khụng loóng v cú nhiu thụng tin m thụng tin li c
kim li chớnh xỏc. Hi forum cha sp t trc, em nh kộo di cai hk100 2. Nhng cha lm
c nhiu bt thỡ mng sp, ri quờn mt. Bõy gi d li cỏc ng ang lm gi, edit li,
post tm cho phớ cụng gừ hi ú.
Chỳng ta cú cn tỡm hiu quỏ chi tit v vic ny khụng???
Ti sao sỏch v nc ngoi núi v chin tranh ny nhiu n vy.
Cú th gii thớch iu ú rừ rng qua vớ d, cu Hm Rng ó ng vng vỡ sao v ti sao sau ú
nú trỳng n. Chin tranh ny c quan tõm mt cỏch c bit, nờn d nhiờn, nhiu k li dng
vic k v chin tranh ny nhi nhột nhng ý riờng thụng qua vic xuyờn tc. Nhng m, bn
cht chin tranh ny vn l cuc chin c bit c chỳ ý. Chỳng ta cú khi ch quan tõm n nú
nh l quan tõm n nhng chin cụng hin hỏch ca cha anh, cũn nugi nc ngoi v
nhng ngi cú trỏch nhim ca ta, li coi õy l chin tranh cú ý ngha c bit v khoa hc
quõn s. Nú l cuc chin tranh m cỏc mỏy bay ó thoỏt khi dogflight, hay l chin tranh cỏch
mng ca k thuõt khụng chin.
Theo em: chỳng ta cng nh ngi nc ngoi, nờn tỡm hiu k, rt k v chin tranh ny.
Ngi nc ngoi ngoi vic xut bn rt nhiu sỏch k v chin tranh ny vỡ nhiu mc ớch

khỏc nhau, xuyờn tc hay tụn vinh, trung thc bay ba t, nhng tt c nhng iu mang tớnh
tỡnh cm ú khụng th ỏt c thỏi nghiờn cu cụng phu, khoa hc. Nhng trn ỏnh ca
chin tranh ny l nhng trn ỏnh u tiờn s dng phng phỏp khụng chin quỏ tm nhỡn,
chin tranh ny ó xy dng nờn nhng chin thut khụng chin mi, t nhng cỳ ũn c bn
n nhng chin lc khng l. Nhng trn khụng chin dựng tờn la ó cú t lõu, c th
nghim t ww2 n nhng trn chin quyt lit trờn eo bin i Loan. Nhng ch Bc Vit
Nam, tờn la mi tht s c hai bờn xõy dng chin thut s dng. Cựng vi chin thut l
chin lc mi hon ton c xõy dng, kt qu ca vic nghiờn cu th nghim phng
phỏp khụng chin cũn nh hng ln n c cu i hỡnh v cu to tng chic mỏy bay chin
u. Ngay trong chin tranh, nhng mỏy bay c ci tin khn cp bt nhng l hng khi
thit k, sau chin tranh, F-14, F-15 M ó c ch to t nhng kinh nghim khụng chin. C
cu mt s lng ln mỏy bay tiờm kớch (interceptor) cú tm ngn v r nh hi ww2 c Liờn
Xụ thay th bi c cu s lng nh hn ca nhng mỏy bay t hn: mỏy bay a nng
fighter.
Ti sao chin tranh trờn khụng ny li tr thnh mt cuc cỏch mng ln trong lch s khụng
chin ngn ngi: thi th. Chng phi ngi Vit Nam hay M tỡm cỏch tụn vinh chin tranh y,
m chớnh khi chin tranh y din ra, cỏc mỏy tớnh ra i, phỏt trin vi tc kinh khng, v ng
dng vo mỏy bay. Nhng khớ ti mi ũi hi nhng chin thut mi rrũi to ra y nhng bt
ng, v nhng phi cụng hai bờn ó em tớnh mng mỡnh ra xõy dng nờn phng phỏp
khụng chin mi, lm sỏch giỏo khoa cho cho khụng quõn th gii ngy nay. Mt vớ d v nhng
thay i ca iu kin chin u c bn nht, ch thiu tớ chỳt lng trc tớnh toỏn, l mt trong
nhng trn ỏnh u tiờn. Trc õy, chin tranh TT hay WW2 chng hn, vic mỏy bay sn mi
tun tiu l cn thit v rt li, rỡnh bt cỏc mỏy bay nộm bom nng n. Nhng ngy nay, c ta
v ch u cú radar mnh. ch cú nhng mỏy bay cnh gii t rt xa. K thut hin i cho
phộp chỳng phỏt hin ra ta k c mt s trng hp radar ca chỳng khụng vi ti, 2 mỏy bay
ca ta mt khi ang i tun m khụng rừ ti sao.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^




Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Chúng ta không cố ý để các phi công của mình và đối phương trở thành những người thực hiện
cuộc cách mạng không chiến, cũng không thể thực hiện được điều đó nếu muốn, vì chúng ta
không chủ động được khí tài. Nhưng không quân của chúng ta thật anh hùng. Vừa thành lập, rất
ít vũ khí, quá ít máy bay, lại vừa đánh vừa chứng kiến những bất ngờ kỹ thuật mới. Thế mà
chúng ta đã cùng người Mỹ viết nên nhứng trang sách kinh điển về kỹ thuật không chiến.
Em cùng các bác nhìn lại qua lịch sử không chiến ngắn ngủi, để hiểu số phận thế nào đã bắt
buộc những phi công, dẫn đường, chỉ huy của chúng ta, ở một đất nước chưa hề sản xuất ra
chiếc máy bay nào, lại phải thực hiện cuộc cách mạng không chiến. Thời cuộc nào đã làm họ trở
thành những chiến binh tiên phong, những trận đánh nào đã làm những phi công ta và Mỹ được
mô tả chi tiết trong những cuốn sách giáo khoa không chiến. Ngày nay, không ai nghi ngờ trình
độ của phi công ta ngày ấy, họ đã trở thanh những mẫu mực kinh điển. Ngay từ thời trước 1975,
Ngụy Sài Gòn cũng phải viết về phi công miền Bắc với những lời lẽ kính trọng nhất "đến các phi
công ace Mỹ cũng phải nể sợ". Phi công Mỹ và các nhà viết lách hay chỉ huy Mỹ thì khỏi nói, họ
khâm phục trong lòng và bên ngoài dùng những lời nể phục tôn vinh nhất khi nói về đối phương.
Ngoài không quân các nước phải nghiên cữu kỹ và nghiêm túc các trận đánh của ta và người Mỹ
ngày ấy thì các nhà văn và người đọc thế giới cũng quan tâm đặc biệt đến các trận không chiến
này. Ô, mà em lan man rồi, nhưng có lẽ em lan man vì không thể nào tìm được cách nói nào thể
hiện được tầm quan trọng của chiến tranh trên không này với kỹ thuật và chiến thuật không quân
thế giới hiện đại.
Những trận chiến anh hùng và những chiến thuật kinh điển đó tất nhiên không thể xây dựng
bẳng tinh thân màu hồng hay quyết tâm mày đen. Nó là cuộc đấu trí dai dẳng và khốc liệt. Cái giá
phải trả cho các chiến thuật ngày nay được không quân thế giới lấy làm sách giáo khoa đắt đỏ và
đau thương, Phạm Tuân khi cất cánh chỉ còn hơn chục máy bay trực chiến, nhiều phi công đã kể
lại cảm giác buồn bã phi nhìn giường ngủ đồng đội trống vắng.
Chiến tranh thế giới 2 kết thúc với hai trường phái không chiến. Đó là Mỹ-Nhật và Xô-Đức. Nếu
như ở Thái bình dương, những tầu sân bay, hạm đội lớn, máy bay ném bom đường dài và
những trận ném bom khủng khiếp là yếu tố quyết định thì ở châu Âu lại khác. Sau chiến tranh

Tây Ban Nha, máy bay tiêm kích khẳng định vị trí. WW2, loại máy bay này và nhứng trận không
chiến trở thành yếu tố quyết định trên bầu trời. Không quân châu Âu chủ yếu thực hiện các
nhiệm vụ trên mặt trận với khoảng cách đến căn cứ 1-2-3 trăm km. Các sân bay dã chiến làm vội
di chuyển tiến lui theo mặt trận. Khác với máy bay ném bom, các máy bay không chiến có giá rẻ,
nhỏ, nhẹ. Nhưng chúng có tốc độ, lực đẩy mạnh. Phươngh pháp chiến đấu cơ bản là đogflight:
các máy bay làm xiếc để tìm cách bám đuôi nhau và nổ súng hạ mục tiêu phía trước. các mục
tiêu hầu như chỉ bị hạ trong góc bắn hẹp, tầm lúc đó chỉ vài trăm met hiệu quả. Đến giữa ww2,
các máy bay không chiến đã tách ra thành loại riêng, không như các máy bay ném bom tiền
tuyến Pe, các máy bay đáng chặn IAK được thiết kế chuyên không chiến, chúng làm chủ bầu trời
để các máy bay khác tấn công mặt đất, nhờ chuyên nghiệp như thế các interceptor(tiêm kích,
đắnh chặn) có tốc độ và độ linh hoạt rất cao và số lượng lớn. Đến cuối ww2, nhứng máy bay
không chiến càng chuyên nghiệp hơn, thậm chí người Đức còn thiết kế những tên lửa có người
lái, tầm rất ngắn, thời gian hoạt động động cơ và tầm chỉ vài phút và 30km. Những máy bay tiêm
kích đánh chặn thật sự mà Đức thiết kế là những máy bay dùng 1 động cơ turbine. Bản thiết kế
TA-183 có thành công vĩ đại, trở thành thủy tổ của nhứng MIG nổi tiếng. TA-183 là một bản thiết
kế máy bay 1 động cơ turbine, cánh xuôi sau, đuôi treo cao tự cân bằng, tải rất nhẹ vì không dự
định mang bom. Nó có tốc độ tối đa khoảng 700km/h hoặc 900km/h và tầm tối đa chỉ vài trăm
km. Tốc độ tối đa của nó không bao giờ có số chính xác, vì máy bay chưa thật sự được chế tạo.
Nó dự định sử dụng một động cơ mới, có tốc độ vòng quay cao và số tầng nén thấp, đây là cấu
hình động cơ rất đơn giản, rẻ tiền, thích hợp với nhiều tốc độ khác nhau, nhẹ. Ngày nay, chúng
chỉ được trang bị cho tên lửa vì tuổi thọ thấp và nhiều trục trặc, nhưng ngày đó, người ta dự định
rằng interceptor là loại máy bay rẻ và có thương vong lớn. Các bác có thể đọc topic của bác
dangngoc về phi công Liên Xô và Đức hồi đó. Phần lớn các phi công tiêm kích mất cùng máy bay
sau vài tháng tham chiến, họ phải chiến đấu liên tục với cường độ cao, đây là bài thi rất khắc
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms


nghiệt và hiệu qủa, những người còn lại thì lại sẽ sống rất dai, họ trở thành các ace khủng khiếp:
tiếp tục kiểm tra lớp học trò mới bằng mạng sống. Họ đã xây dựng nên chiến thuật chiến đấu 3
chiều thay cho chiến thuật đội hình nhiều tầng chiến đấu ngang. Họ đã xây dựng nên cơ cấu
không quân đặc trưng là số lượng khổng lồ máy bay tiêm kích. Động cơ của TA-183 không giờ
được chế tạo, khoảng 13 mẫu thử dùng động cơ Juno 004 được Liên Xô thu lại trước khi
chương trình thiết kế hoàn tất. Những người thực hiện chương trình tiếp tục công việc ở Liên Xô.
Các máy bay phản lực IAK sau khi tham gia cuộc trình diễn cùng MIG đã hoàn thành vai trò lịch
sử, nhường chỗ cho MIG-15, từ năm 1947 trở thành máy bay tiêm kích chủ lực Liên Xô. MIG-15
là bản mở rộng của TA-183 dùng động cơ RR N5, nặng hơn, bay nhanh hơn, vũ khí tốt hơn.
Không chỉ ở Liên Xô, MIG-15 còn được cải tiến và chế tạo thử ở Thụy ĐIển và Argentina. MIG-
15 được viện trợ với số lượng rất nhỏ, vài chục chiếc cho TQ và TT trước khi chiến tranh nổ ra
vài tháng. Sau MIG-15, cấu hình một động cơ và hai động cơ cùng được dự tuyển để thành MIG-
17, cấu hình một động cơ được chọn. Do chậm phát triển động cơ thích hợp, cấu hình MIG-17
hai động cơ được thiết kế muộn mằn và trở thành MIG-19. MIG-21 và F8, F-4 ra đời gần nhau,
khoảng cuối thập niên 1950. Đến đây, các máy bay không chiến như MIG-21 đã có tốc độ tối đa
M2. Việc phát triển MIG-21 rất công phu, có thể coi như là cuộc thử nghiệm ở Liên Xô cấu hình
cánh tam giác, người ta vô cùng quyết tâm và nỗ lực tìm một thiết kế máy bay nhỏ, rẻ nhưng có
khả năng không chiến mạnh. Một trong những mẫu thử thành công nhât của cuộc thi hoa hậu
MIG-21 là chiếc máy bay sau trở thành F-16 Mỹ với thay thế đuôi đặc trưng từ F-4. Mẫu thử này
đạt tốc độ tối đá M2,6 linh hoạt và mạnh mẽ, nó không được chọn vì giá cả, nhưng nguyên nhân
quan trọng nhất là điện tử hồi đó không cho phép sử dụng bào khí trước(yêu cầu ổn định tự động
thay cho máy bay tự cân bằng), loại "tiền F-16" này chỉ có 2 chiếc(Ye-8).
Vâng, nếu không có điện tử thì các cuộc không chiến trên bầu trời miền Bắc không trở thành các
trận không chiến kinh điển, các phi công ta và Mỹ không phải làm những lính tiên phong và
những chiến thuật của họ không trở thành giáo khoa mẫu mực.
Chiến tranh WW2 đã đẻ ra rất nhiều thứ, máy tính cũng thế. Người ta nói nhiều về những chiếc
máy tính trước đó, nhưng chỉ trong WW2 máy tính mới trở thành sự thật. Nhưng chưa phải là vũ
khí không chiến, vì máy tính ww2 to như những tòa nhà, không thể chất lên máy bay. Ô, cái này
thì cùng năm MIG-15, chiếc đèn bán dẫn ra đời. Tất cả mọi thứ đều to lớn ra, nhưng chiêc đèn

này thì càng ngày càng nhỏ lại. Có phải ông trời đã định cái số ấy của các phi công Việt Nam sau
này không. Đèn bán dẫn và máy bay tiêm kích. Thiết bị điện tử thông minh và tốc độ siêu âm. Sự
linh hoạt và vũ khí chính xác. Vâng, cõ lẽ thật sự có định mệnh. Năm 1947, nước VN đang ở gai
đoạn gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cầm bom ba càng và gậy tầm vông, có
người nào ở xứ sở lạc hậu xa lắc nơi chân trời ấy biết rằng, đâu đó trên quả đất này, ở hai nơi
rất xa nhau, người ta vỗ tay, reo hò hay chúc mừng hai thành quả kỹ thuật mới mà 20 năm sau
được những chiến sĩ thử nghiệm. Không, em cam đoan với các bác là, không một ai trên thế giới
này năm 1947 nghĩ rằng, những chú bé chân đất mắt toét 20 năm sau sẽ cùng đối thủ xây dựng
và thử nghiệm cuộc cách mạng trong không chiến: chiến đấu quá tầm nhìn. Hai yếu tố quan
trọng nhất được đẻ ra năm 1947 định mệnh ấy.
Vâng, tất cả 20 năm sau đều mới, bất ngờ, đều phải thử nghiệm. Đèn bán dẫn đã sinh ra radar,
tên lửa, liên lạc, máy hỏi. Bán dẫn có vai trò quan trọng, nó lại có thuộc tính là từ năm 1947 đến
nay, nó bé đi rất nhanh. Vì nó bé đi, năng lực của thiết bị điện tử mỗi ngày một mạnh. Vì điện tử
mạnh, vũ khí mỗi ngày một khác và luôn luôn phải thử nghiệm. Các phi công ta và Mỹ đã được
vinh dự có định mệnh thử nghiệm và tìm ra cách sử dụng nó.
Radar thì được sử dụng từ đầu ww2. Tên lửa đối không có từ WW2. Nước Đức đã chế ra những
SAM đầu tiên với phần động lực của V2. Hệ thống phòng không này sử dụng radar được trợ
giúp bởi loại máy tính dòng và tên lửa có điều khiển chống lại không quân trong mọi thời tiết.
AAM cũng được Đức chế tạo ww2, nó có động cơ nhiên liệu lỏng, điều khiển bằng dây dẫn và
kích nổ bằng ngòi nổ âm thanh. Enzian là AAM đầu dò hồng ngoại thử nghiệm, không thành
công. Hai thứ này, do máy tính rất tồi (X4 AAM không có hệ điện tử) nên chưa thể chiến đấu thật
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

sự. Nhưng rõ ràng, máy bay không còn tự do với mặt đất nữa khi bay trên tầm pháo phòng
không, vốn đã rất kém chính xác. Một thiết bị được người Đức phát triển và áp dụng, tối quan

trọng là con quay hồi chuyển.
20 năm sau chiến tranh ww2, các nhà kỹ thuật tìm mọi cách để thoát khỏi dogflight. Cả Liên Xô
và Mỹ đều tìm đến phương pháp chiến đấu cơ bản ngày nay: mục tiêu được radar phát hiện,
theo dõi, tên lửa có điều khiển từ máy bay mẹ hay đầu đạn tự động. Bước vào chiến tranh phá
hoại miền Bắc, máy tính vẫn còn rất yếu, chưa thể điều khiển đầu đạn tự động hoàn toàn. Người
ta đã chọn một cấu hình không chiến: máy bay có hai chỗ ngồi. Ngoài phi công, gunner sẽ là
người lái tên lửa qua tín hiệu radio. Đây là phương pháp không chiến sử dụng tên lửa tầm xa
ngày nay là phương pháp không chiến chủ lực của F-22. Nhưng ngày đó, các máy tính rất tồi
nen không thể tự động hóa đầu đạn hoàn toàn được. Nguyên nhân trực tiếp là các radar hầu
như không có khả năng phát hiện và theo dõi (lock) mục tiêu tự động, chúng truyền tín hiệu cho
máy tính nhận dạng mục tiêu hiện đại nhất lúc đó là cặp mắt của phi công hay gunner, qua thiết
bị converter tín hiệu cũng hiện đại cực kỳ là màn huỳnh quang của radar. ( Các bác đọc lịch sử
không chiến, à, cái này có khi bác Chiangshan nhỡ rõ và bác có thể kể thêm cho em không, một
ví dụ quan trọng như thế mà em quên hết cụ thể rồi, trong một trận đánh rất thuận lợi, một phi
công của chúng ta trên MIG-17 bị mất tín hiệu radar ngắm bắn trong tầm cực gần, 1 hoặc vài km,
vì radar dùng máy tính dòng không phân biệt được hai máy bay mục tiêu bay gần nhau. May
sao, ông lập công suất sắc một lúc sau đó(chơi hai loạt hai chú) vì mục tiêu bật đèn. Nhưng tí
nữa ông mất mạng mà chả được gì vì suýt nữa húc vào địch. Tất cả vì khả năng theo dõi phân
biệt phát hiện mục tiêu quá tồi).
Như vậy, phương pháp không chiến tầm xa lúc ấy vẫn rất thủ công. Có một điều là quân ta
không được viện trợ phương pháp này. Nửa sau thập kỷ 60, Liên Xô có loại máy bay không
chiến tầm xa như trên lớn nhất thế giới lúc đó (TU-28 năm 1961), tên lửa nặng và xa nhất, tầm
máy bay cũng xa nhất. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, các phi công ta không được sử dụng loại
máy bay không chiến tầm xa nào.
Người ta tìm mọi cách tự động hóa việc ngắm bắn. Tầm gần tạo nhiều thuận lợi hơn cho máy
tính điện tử. Để thi qua bài chiến đấu mọi thời tiết, các nhà kỹ thuật đã thử nghiệm nhiều loại tên
lửa tự bám mục tiêu. Liên Xô sản xuất và trang bị tên lửa đèn chiếu, được coi là tên lửa tầm
ngắn quan trọng nhất của Liên Xô trong những năm 1950. Người Đức đẻ ra ý định đầu dò hồng
ngoại đầu tiên, tên lửa Enzian. Ban đầu, đầu dò hồng ngoại là một gương quay, quét ảnh lên một
sensor độc nhất. Sau này, cùng với việc đèn bán dẫn nhỏ đi, số lượng điểm dò tăng lên. Việc

thiếu năng lực thiết bị điện tử được bổ sung bởi nhiều phát minh cơ học thú vị, như các bánh xe
ổn định ở đuôi tên lửa AIM9, nhưng để cân bằng tên lửa, con quay hồi chuyển vẫn là yếu tố quan
trọng nhất. Một việc quan trọng với cuộc không chiến của không quân ta, cái quan trọng nhất với
không chiến tầm ngắn xảy đến 28-10 năm 1958. Lúc này có một xung đột trên không ở eo biển
Đài Loan, không quân TQ yếu thế thua đau. (Bọn Tầu rất nhiều tiềm lực và hay khoe mẽ, nhưng
bao giờ không chiến cũng thua đau, ngay cả sau này Tầu và TT sang ta không chiến cùng quân
ta, cũng dở hơi thì phải, bác chiangshan có thể cho em rõ hơn về việc bọn này tham chiến trực
tiếp và kết quả của chúng được không). Tầu bị Đài Loan hạ bằng một thứ tên lửa lạ, mạnh, xa,
chính xác hơn súng máy nhiều. Một vài tên lửa bắn trượt rơi xuống biển, liền được tìm lại bằng
mọi cách và chở đến Moscow. Những quả tên lửa AIM-9 không nổ này gây ấn tượng mạnh với
các nhà kỹ thuật Soviet. Thế là, AAM chủ lực trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc Atoll ra
đời, tên lửa là phát triển tiếp theo của Enzian Đức bỏ dở trong ww2, chương trình phát triển hợp
tác với các nhà khoa học Đức . Nó nhanh chóng thay thế tên lửa đèn chiếu và trở thành tên lửa
tầm ngắn chủ lực. Ngày đó, các tên lửa này còn có đầu dò rất yếu nên chỉ có thể bắn được ở
góc hẹp và tầm ngắn. Trong lần tranh cãi trước về đuôi của AIM-9, bác Đức Xì có đưa một trang,
nói người ta không biết tại sao AIM lại được copy, rồi phỏng đoán bằng những câu chuyện tình
báo hấp dẫn. Đây là thông tin về việc copy này bác Đức xì à.
Như vậy, ước mơ về các cuộc không chiến điện tử được người Đức đặt ra từ trong ww2. Họ
không chỉ ước không, mà họ đã thiết kế và thực hiện những vũ khí không chiến chủ yếu, phụ vụ
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

cho cuộc không chiến điện tử quá tầm nhìn, điều kiện điện tử hồi đó đã không cho họ hoàn
thành. Chiến tranh Triều Tiên vẫn là trận hỗn chiến dogflight hoàn toàn. Các cuộc không chiến
trên eo biển Đài Loan, quân Đài Quốc yếu hơn nhiều quân Mỹ, thắng lợi lớn với những vũ khí tối
tân kỳ lạ. Tốc độ phát triển của kỹ thuật điện tử nhanh chóng.v.v.v Những điều đó, cho thấy linh

cảm rằng rằng quân ta sẽ phải bắt đầu chiến tranh bảo vệ bầu trời miền Bắc trong những điều
kiện rất lạ, rất khó khăn, những trận không chiến theo một kiểu chưa diễn ra bao giờ: kỹ thuật
không chiến quá tầm nhìn.
MIG-19 ít được Liên Xô chế tạo nhưng lại được các nước khác sản xuất rất nhiều. Đặc biệt là
TQ, như do bất đồng từ 1960, TQ đã không được chuyển giao đầy đủ công nghệ, máy bay có
động cơ yếu hơn nhiều so với MIG-19 nguyên bản, nó có súng rất mạnh. Nhưng khi nó ra đời thì
phương pháp không chiến bằng tên lửa và radar đã hình thành. Chiếc MIG-19 và anh em sinh
đôi của nó MIG-17 là MIG cuối cùng sử dụng phương pháp bắn súng làm vũ khí chủ lực. Phía
bên Mỹ, F-8 cũng vậy. Ban đầu đươc thiết kế để bắn súng, rồi phải cải tiến để dùng tên lửa. Ta
cũng có ý định cải tiến MIG-17 lắp tên lửa, nhưng không thành công. MIG-17 có thế mạnh đặc
biệt là vòng lượn hẹp. Thật ra, máy bay tiêm kích vốn đã có thể lượn hẹp, và MIG-17 còn có thể
lượn hẹp hơn do nó là đồ cổ. MIG 15, 17,19 là thế hệ máy bay không chiến phản lực đầu tiên
của Liên Xô. MIG-21 là máy bay không chiến đầu tiên sử dụng tên lửa là vũ khí chủ yếu. Máy
bay này sử dụng tên lửa tầm ngắn, một cách không chiến hơn dogflight một tí tẹo. Nhưng thừa
kế truyền thống máy bay tiêm kích, nó có động cơ rất khỏe so với khối lượng. Thế mạnh đặc biệt
cảu máy bay này là không chiến theo chiều thẳng đứng, cách không chiến của chim sơn ca. Lực
lượng không chiến Mỹ mạnh nhất là máy bay đa năng F-4. Mỹ không dùng cách xây dựng lực
lượng không quân giống Liên Xô và Đức. LX và Đức thiết kế những loại máy bay chuyên nghiệp
cho một nhiệm vụ, nhờ đó họ có đội máy bay rẻ và có thể có số lượng lớn. Mỹ chế tạo một mẫu
máy bay đa năng, rồi từ mẫu đó, họ làm ra nhiều loại con cho từng nhiệm vụ. Điều đó làm cho
các máy bay đắt đỏ, nhưng lại chỉ cần duy trì một số lượng nhỏ máy bay chiến đấu trong biên
chế. Một thay đổi lớn với cơ cấu không quân Liên Xô cũng như thiết kế máy bay không chiến Mỹ
sau chiến tranh. LX thì thiết kế máy bay đa năng như Mỹ, sử dụng động cơ đa năng turbofan
bypas như các loại SU thay cho hàng vạn MIG như MIG-15,17,21. Còn Mỹ thì chú trọng đến
không chiến tầm ngắn và chế tạo F-14, F-15.
Thê là, bước vào chiến tranh chống phá hoại miền Bắc, chúng ta thừa kế các ông anh kỹ thuật
không chiến. Đó là lực lượng máy bay tiêm kích. Đây là những máy bay rất linh hoạt, nhỏ rẻ.
Chúng được thiết kế để bảo vệ bầu trời tiền tuyến, tầm gần. Những điểm yếu của chúng được bù
lại bằng số lượng rất lớn. Điều cuối cùng đó thì ta không có. Cuộc thử nghiệm phương pháp
không chiến bằng thiết bị điện tử diễn ra với một lực lượng rất chênh lệch. Khó hiểu là máy bay

được thiết kế để sử dụng số lượng mới lại có thực tế chiến đấu số lượng ít.
Về lịch sử không chiến trên bầu trời bắc Việt. Có nhiều giai đoạn. Đến năn 1967, có thể chia ra
hai giai đoạn.
1: không quân nhân dân Việt Nam xuất hiện. Không quân nhân dân đã chiến đấu những trận đầu
tiên. Làm đối phương kinh hoàng bằng một lực lượng rất chênh lệch. Bản thân chúng ta chúng
gặp rất nhiều bất ngờ. Tính chủ quan xuất hiện ngay sau trận đánh đầu tiên, gây thương vong.
Giai đoạn này đã khẳng định phương pháp chủ lực của không quân ta: sử dụng ưu thế dẫn
đường mặt đất. Mỹ yếu thế hơn vì ở xa hậu phương, nhưng họ có những máy bay cảnh giới
mạnh. Mỹ cũng như ta, đều gặp phải khó khăn về kinh nghiệm chiến đấu. Các vũ khí mới làm
chiến tranh trên không hoàn toàn khác với những chiến tranh trước đây. Về cơ bản, càng đấu trí,
ta càng yếu thế do lực lượng chính lúc này là MIG-17, MIG-19 đã quá lạc hậu.
2: chiến dịch Bolo, hay "top gun", Hải quân Mỹ tìm được cách đối phó, đây là cuộc đấu trí ghay
gắt. Đây có lẽ là giai đoạn nhiều thú vị nhất. Càng ngày, ta càng yếu thế do sử dụng MIG-17 lạc
hậu. Nhưng những lần đầu tiên dùng MIG-21 lại không thành công, đến nỗi nhiều ý kiến lo sợ,
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

muốn quay lại MIG-17 và MIG-19. Bản chất đầu giai đoạn này (1967). Mỹ tận dụng ưu thế F-4 là
tầm bay xa, thời gian bay lâu, phục kích ở vùng radar ta khó theo dõi được hay bí mật bám sát
sân bay, hay lảng vảng ở xa độ máy bay F-105 ném bom.
Sau năm 1967, có thể chia ra hai giai đoạn
1: Phi công Phạm Thanh Ngân tìm ra phương pháp chiến đấu giống như chim sơn ca, bằng trận
đánh F-102, MIG-21 đã thắng trong trận đấu trí tìm cách đánh mới hiệu quả. Phi công này là
huấn luyện viên của nhiều phi công nổi tiếng như Cốc, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất:->phi
công thử nghiệm chiến thuật-thử nghiệm trong chiến đấu. Đây là phương pháp chiến đấu tận
dụng triệt để hai điểm nổi trội của MIG-21. Điểm thứ nhất là dẫn đường, điểm thứ hai là không

chiến chiều thằng đứng. MIG-21 có khả năng đổi hướng rất mạnh, tốc độ leo cao tốt. Phi công
Phạm Thanh Ngân là phi công có trình độ không chiến xuất sắc, người hướng dẫn của nhiều phi
công ưu tú, trong đó có Cốc. Em không hiểu ai là người đề xuất phương án tấn công này. Đại
khái, một tổ bay 2 người, tận dụng dẫn đường để bay thấp. Gần đến mục tiêu MIG vọt lên cao.
Tiếp theo, MIG lại từ trên cao bổ xuống từ phía sau mục tiêu, bắn, về. Trong khi một MIG bắn thì
một MIG cảnh giới. Máy bay cảnh giới từ xa của Mỹ hướng Thái Lan chỉ quan sát rõ khi mục tiêu
ở độ cao 2-6km. Do đó, thời gian MIG nằm trong vùng nó quan sát được rất ngắn, khó phát hiện.
Trận đánh đầu tiên cũng thú vị. Phi công Phạm Thanh Ngân khi chuẩn bị tấn công thì thấy mục
tiêu rất giống MIG, anh dừng tấn công bật máy hỏi, khi có kết quả là địch thì chỉ còn cách mục
tiêu hơn 1km. Hóa ra đây là chiếc F102 cánh tam giác. Phương pháp này chấm dứt một thời
gian dài yếu thế của ta, làm các phi công rất phấn khởi. Phạm Thanh Nga có vẻ gì đó như một
phi công thử nghiệm phương pháp đánh mới, do đó, anh bắn rơi nhiều loại máy bay nhất. Giai
đoạn này đặc trưng là việc sử dụng MIG 21. Quân ta đã có một chiến thuật đầu tiên, bbắt đầu
làm chủ phương pháp không chiến bằng tên lửa của máy bay tốc độ cao.
Có một điều khó hiểu em chưa biết là: tại sao ta biết được một vài đặc tính kỹ thuật của máy bay
cảnh giới từ xa Mỹ.
2: giai đoạn Mỹ tấn công ồ ạt trước khi bại trận. Vừa xem xong trên đài truyền hình, các bác có
thể thấy Mỹ bị sức ép mạnh mẽ rút quân. Trước đây Mỹ đã dùng B-52 quy mô lớn, nhưng mùa
hè 1972 mới là trận B-52 lớn nhất, 420.000 tấn bom. Trận bom này có hiệu quả rõ rệt, buộc ta rút
quân. Sau đó, là 12 ngày đêm. MIG rất ít xuất hiện, nhưng là những trận thắng rất mạnh, như 2
trận bắn rơi B-52. Hầu như chiến thuật giống như trận đánh trên của Phạn Thanh Ngân. Lần này,
nhờ laser mới xuất hiện và thiết bị điện tử mới. Mỹ đã được sử dụng những vũ khí tầm xa, vũ khí
có điều khiển thay cho động tác bổ nhào vào gần pháo phòng không bảo vệ mục tiêu. Máy bay
chiến thuật Mỹ thực hiện được một số nhiệm vụ trước đây rất khó. Cầu hàm Rồng, Long Biên
sập. Trang bị của ta cũng mạnh lên, nhưng do những biến động chính trị, viện trợ cho ta chậm
trễ. Bù lại, ta đã có nhiều kinh nghiệm và tổ chức chỉ huy tốt hơn phòng không không quân.
Trong box, đã có một đường link đến một tiểu thuết về giai đoạn 1 khá kỹ. Em xin bắt đầu việc
tìm hiểu bằng một vài thông tin gian đoạn hai, bắt đầu từ đầu năm 1967. Đây là giai đoạn Mỹ tìm
được phương pháp không chiến tận dụng thế mạnh của F-4. F-4 được thiết kế "kiểu Mỹ", tức là
máy bay đa năng. Có một vài loại F-4 khác nhau để không chiến hay tấn công mặt đất. Nó có bộ

đuôi kiểu tên lửa đặc trung cho họ nhà F thích hợp với bay đường dài, động cơ ưu việt, có thời
gian chiến đấu dài và tầm xa. Máy bay mang tên lửa điều khiên thủ công qua radar như trên. F-4
khi lượn vòng hep mất tốc độ và hoàn toàn không được các nhà thiết kế chú ý tới không chiến
tầm ngắn. So sánh nó với các máy bay không chiến hiện đại lúc đó cũng giống như F-22 bây giờ.
Chiến dịch bolo là nỗ lực đầu tiên của Mỹ tìm cách không chiến mới thích hợp với vũ khí mới.
Năm 1966. Sử dụng lợi thế là dẫn đường mặt đất, đánh trên sân nhà, các MIG gây khó khắn lớn
cho không quân Mỹ. Với thế mạnh áp đảo cả về chất lượng máy bay, không quân Mỹ bị không
quân ta gây cho nhứng thiệt hại đáng kể. Ngày nay, chũng ta biết được rằng ngày đó chúng tá
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

chỉ có vài chục chiếc máy bay đời cổ. Chiến dịch bắt đầu từ đầu năm 1967.
Miêu tả chiến dịch đó qua tranh vẽ. Robin Olds, người thiết kế chiến thuật này. phi công giầu kinh
nghiệm từ ww2 với 16 trận thắng.
Tớ đang loay hoay không biết làm thế nào để post ảnh lên, vì scan ở trường sẽ bị bọn nó tóm cổ
Vi phạm bản quyền ngay. Ở Mỹ này tội Copy right là ra khỏi trường ngay lập tức.
Bây giờ phải nhờ bác tiếp. Tôi và bác chúng ta cùng phối hợp để bản dịch cho có hiệu quả.
Thứ nhất, nếu có dịch sai, bác chỉnh lý.
Thứ hai. Tớ dịch phần nào nhờ bác post hộ ảnh phần đấy. Nhiều phần tớ chưa dịch vì không
post được ảnh thì người đọc sẽ khó mà hiểu được
Thứ 3, bác có thời gian thì dịch đỡ cho một phần. Mỗi ngày tớ nhiệt tình lắm cũng chỉ dịch được
1 tiếng thôi. Cả tuần thì chỉ dịch được vào cuối tuần. Còn lại thời gian phải học và đi làm thêm
(bắt chước Bác Hồ ngày xưa quá ha?!
Mod mấy hôm nay làm việc hiệu quả phết đấy.
Nhờ Mod chuyện này. Topic này là để cung cấp nội dung sách dịch sách nguyên bản, có một số
so sánh với tài liệu của ta, và phải ghi rõ nguồn. Đề nghị Mod chuyển hết các bài của

Huyphuc81_nb sang topic khác, quá trình phát triển thiết kế máy bay, Triều tiên, Đài loan không
phải là chủ đề chính ở đây. Các lời bình luận ngắn gọn của anh em khác ngắn gọn và theo sát
nội dung thì để lại.
Dịch qua mấy trận thắng để lấy khí thế cho anh em. Còn bây giờ quay lại từ đầu, bởi vì đúng là
phải đọc từ đầu thì mới hiểu hết được tình hình.
Địch thủ (Antagonists)
Trang 10 - 13
Lực lượng oanh kích chính của KQ Mỹ ở miền Bắc Việt nam trong chiến dịch Sấm Rền là F105
Thần sấm. F105 B ban đầu được thiết kế là máy bay ném bom nguyên tử chiến thuật tầm xa,
bay thấp dùng ở Châu Âu. Nó có cánh bé để bay nhanh và khoang mang bom hạt nhân. F105 D
với hình dáng gần như giống hệt được phát triển làm máy bay ném bom hoạt động trong mọi
điều kiện thời tiết, với thùng dầu ở vị trí khoang chứa bom.
F105 gặp vấn đề lớn về bảo trì, nhưng đã được giải quyết trước chiến dịch. Đa số F105 model
có một phi công, nhưng cũng có F105F 2 phi công dùng cho các sứ mệnh đặc biệt.
F105 là loại máy bay nhanh nhất thế giới ở tầm thấp, và cho dù được thiết kế chuyên biệt cho
ném bom, trong chiến dịch Sấm rền (Rolling Thunder), F105 kịch chiến với Mig nhiều hơn so với
toàn bộ các máy bay khác cộng lại.
F105 mang khẩu hoả diệm sơn M-61 (20mm - Vulcan), với tốc độ bắn 6,000 viên /phút, và khi sử
dụng như tiêm kích (ít khi thôi), có thể mang 4 tên lửa tầm nhiệt Aim-9 sidewinder treo ở hai giá
đúp. Giá đúp này gây ra nhiều sức cản, và làm giảm khối lượng bom đạn mang theo, nên ít khi
F105 mang Aim9 trong các phi vụ ném bom. Vì cánh nhỏ nên cung cấp rất ít lực nâng cho F105
khi ngoặt, nó nổi tiếng vì kém cơ động, nhưng bất chấp khả năng lượn kém, khẩu cannon và tốc
độ cao sau khi đã vứt bom khiến cho chiếc F105 được điều khiển tốt rất hữu dụng trong các cuộc
không chiến trống lại Mig17.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms


Một nửa các đơn vị air-to-air của Hải quân Mỹ trang bị F8 một ghế, một máy bay tiêm kích không
biết thoả hiệp (uncompromising air superiority fighter). Nhanh và cơ động lanh lẹ, trang bị súng
20mm Colt Mark 12 và 2 hoặc 4 tên lửa Sidewinder ở ngang sườn, và một bộ ra đa có khả năng
hạn chế. Phi công F8 được huấn luyện đặc biệt tốt với các trận đánh quần vòng (dogfight) và tự
hào về thành tích; Họ tin rằng máy bay của họ là loại tốt nhất trong không chiến trên thế giới. F8
xuất kích từ các tàu sân bay loại nhỏ, thuộc thế hệ Project 27 - Charlie, sản xuất từ WW 2: Essex
class carriers, Oriskany, Bon Homme Richard, Hancock, Intrepid, Lexington, Ticonderoga, và
Shangri La, vốn đều được sửa chữa để vận hành máy bay phản lực.
(đoạn này có nhiều photo nhưng chưa có điều kiện scan).
Cả KQ và HQ sử dụng F4 Phantom II, hai chỗ. Ban đầu F4 được phát triển nhằm đem lại cho HQ
lực lượng tiêm kích trang bị ra da và tên lửa, nhưng với performance so impressive, KQ cũng
chọn luôn nó làm máy bay chiến đấu đa năng. HQ gọi F4 là F4 B; KQ gán là F4C, nhưng về bản
chất chúng là một loại máy bay. Từ lúc đầu, F4C trở thành lực lượng tiêm kích chủ đạo của KQ,
nhưng F4B thì chia sẻ nhiệm vụ với F8.
Trên phần lớn các khía cạnh, F4 là một máy bay excelent. Tăng tốc nhanh, bay gấp đôi tốc độ
âm thanh ở tầm cao và siêu thanh ở tầm thấp, và có hệ thống ra đa cực mạnh vận hành bởi
người phi công thứ hai ngồi ở ghế sau. Ở F4 HQ, phi công ngồi sau là navigator, gọi là RIO
(radar intercept officer). Ở F4 KQ, phi công ngồi sau là người vừa mới tốt nghiệp bay, thường
được biết đến như GIB (guy in back). F4 của KQ cũng thường mang tổ hợp điều khiển bay dùng
cho GIB; F4 HQ thì không .
Khi không chiến, F4 có thể mang tới 8 tên lửa, 4 AIM9 tìm nhiệt và 4 tên lửa dẫn đường bằng
rada tầm xa AIM7 Sparrow. THeo xu thế, F4 không trang bị súng, và trên thực tế, ít phi công yêu
cầu lắp đặt chúng.
Bác panzerlehr post ảnh hộ.
Tớ nghỉ hai ngày để viết assignment. Thứ 5 lại dịch tiếp.
Cậu kqndvn lại quan trọng hóa vấn đề rồi. Tớ ở Mỹ đã sáu bảy năm nay scan và photo sách
trong trường đại học biết bao nhiêu lần, có ai bắt đâu. Mà cũng chẳng ai hơi đâu rãnh đi rình rập
bắt cậu đâu mà lo như con gái thế này.
Đó là chưa nói chỉ phạm bản quyền khi nào cậu photo hay scan và lưu truyền lại với mục đích

thương mại, hoặc photo hay scan cả quyển để dùng cho mục đích cá nhân thay vì mua sách,
chứ nếu chỉ photo hay scan vài ba chương cho mục đích làm nghiên cứu thì chả ai bắt cậu làm
quái gì. Đơn giản register với bọn trực thư viện nếu cần, mà đa phần chẳng ai làm vậy cả khi
photo hay scan vài ba chương sách. Đó là theo kinh nghiệm trực thư viện của tớ.
Thêm nữa mấy thông tin trong quyển Clashes cậu dịch cũng cũ mèm rồi, rỗi và vui thì dịch anh
em xem - th Quyển đó cũng chẳng phải là gì kinh khủng lắm đâu, nhiều nguồn thông tin khác của
Mỹ cũng khá đối nghịch về trình tự thời gian và chuyện đã xảy ra trong các lần giao chiến đó.
Cậu cứ đọc hết bộ Osprey F-4 và MiG các loại, rồi thêm quyển To Hanoi and Back hay When
Thunder Rolled sẽ thấy.
Cứ xem cái đoạn khen F-105 trong quyển cậu dịch ấy, để thấy giá trị quyển cậu dịch chỉ là rất
tương đối. Nếu đọc xong quyển F-105 Thunderchief: Workhorse of the Vietnam War cũng nguồn
Mỹ chắc cậu sẽ nghĩ lại có nên dịch đoạn đó hay không.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

ời gian của cậu xem ra "như vàng" hay sao nhỉ
Sách của ông Mitchel không phải là mới, đó là chắc chắn (chính vì thế nó mới là classic ngày
nay). Hơn nữa ông này nguyên là phi công F-105 có đánh ở VN cho nên chuyện thổi phồng loại
máy bay này cũng chẳng phải là lạ mà nó cũng không làm hại gì đến tính khách quan chung của
quyển sách. Chính cái nhìn của 1 người đã từng có kinh nghiệm trong cuộc nhưng lại viết sách
như một sử gia hoàn toàn cách ly với sự kiện làm quyển sách này đáng giá hơn mấy đồ Osprey
chẳng hạn. Các bác viết rất hay về các máy bay ta và Mỹ. Nhưng mà lấy Mig 17 ra chọi với F-4
thì chả khác nào Ba-bét-nhè chọi với Harley. Nên thấy các thầy ở các căn cứ Đông bắc TQ cũng
phục học trò lái máy bay cổ đi chọi hổ báo bầu trời. Giả sử F-4 hay F-105 có bắn rơi Mig 17
,thậm chí 21 đi nữa cũng chả đáng tự hào gì như người lớn đánh bé con,đại bác chọi thần công.
Lái hàng ngàn giờ bay đi thi đấu với thằng vừa biết lái công -nông

Ta nên có sự so sánh với cái đất nước Kim tự tháp một tý. Vì là nước Trung đông (còn hơn
nước VN tiền đồn),quyền lợi kinh tế sát sườn với Liên xô ,nên Ai cập được cho,bán quá nhiều vũ
khí tối tân. Mình mới nhận được Mig 21 thì nó đã có Mig 23 ngon lành nhiều.Và có bói ra con
17,19 nào đâu Nền không quân của nó cũng lâu đời. Thế mà nghe thấy giặc là gục đầu cầu
nguyện, để đến nỗi chuyên gia Liên xô mặc cả quần đùi chạy ra cứu máy bay khỏi nhứng trận
bom Do thái. Còn Việt nam được cho không,máy bay của Tàu thì quá đuội. Đến khi cái Mig21
vào VN thì năm 1970,một cái máy bay Mig21 đã được đặt lên bệ tại đại lộ Kashiskáya,ai đi đến
thăm công nhân Việt nam ở KTX Zil đều thấy nó . Mà ở LX, chiến cụ cũ mới đươkc đặt lên bệ
làm tượng đài.
Khi học sinh Việt nam đi học tại Đông Ucraine lái máy bay Mig21,đầu tiên ai cũng lắc đầu vì thể
lực yếu quá . Học trò tây họ cũng không cao lớn hơn nhiều quá,vì không quân không tuyển
người to lớn quá ,mà tuyển người gọn gàng,thậm chí thấp nhẹ để ngồi trong buồng lái thoải mái.
Thế nhưng họ vượt được qua các bài tập take off bằng máy phóng. Khi cất cánh họ chạy một
đoạn ngắn là đã kéo cần lái,bao lâu mới cải bằng. Người Việt mình không phải tập như thế,mà
vẫn làm rơi máy bay. Sau họ tìm ra nguyên nhân,do các em tiết kiệm tiền ăn để mua xe đạp,máy
khâu hay sâm Eletriacovka cho bố mẹ
nên ăn ít. Đã thế không hợp khẩu vị,các em còn lười ăn phó mát tươi . Thế là họ không phát tiền
ăn nữa,mà phát bằng phiếu. Bữa ăn có các thầy xuống tận nhà ăn để cho,ép ăn. Được ít lâu họ
mới cho tiếp tục tập. Được cái bọn đó nó hay cười,tiếng Nga kém nhưng rất tình cảm
Thế mà về nước,những người này rất giỏi. Tại hạ nhớ câu của bác nào đó trong diễn đàn là
Sadam Hussein mơ quân đội Iraq có một phi công như Hồng Nhị hay Thanh Ngân thôi. Mà họ có
lắm tiền bán dầu để mua vũ khí tối tân.Ngoài ra còn được mua chịu tới 8 tỷ rúp vàng nữa chứ.
Không quân họ hiện đại nhất các nước Ả, tới 1990 đã có khối Mig29 tối tân rồi. Mà có bắn rơi
được cái máy bay ,dù là trực thăng,nào của Liên quân đâu ?
Nghe thấy người Mỹ thì sợ xanh mặt,chẳng khác gì những cư dân Brussell Bỉ đã ngất đi vì tiếng
Thunderchief F105 bay thấp.
Rồi còn Nam tư nữa chứ. Ôi đất nước đáng thương của những người Maxedonia hèn nhát !
Những tưởng những con người gia công được gầm tank T-80 là dũng cảm. Ngờ đâu Cũng
may đã có một phi công người Serb đã dám đưa 1 chú Mig29 lên để bắn gục ngay 1 chú tàng
hình F-117

Nói như thế để các bác thông cảm cho bên quá yếu kém về vũ khí. Mà người bên này ngạc
nhiên về số máy bay cua VN bị Mỹ bắn hạ lắm. Theo như dân tình biết thì cả VN chỉ được có 40
máy bay bay được,còn sẵn sàng tác chiến thì không quá ,một nửa như vậy. Vì số vũ khí được
các thoả ước bí mật giữa LX và Mỹ hạn chế nên đào đâu ra nhiều máy bay rơi như vậy. Phương
chi KQ xô viết có tiền lệ sau WWW2 là bất cứ máy bay nào rơi,cũng phải báo cáo điều tra rõ
ràng Vậy nên cứ search trong google mà viết về mình thì chẳng khác hình dung ra sỹ quan
Việt nam mặc quần áo Nhật,đội mũ mềm Nhật và binh lính thì đội mũ cát két của Pháp như
Rambo hay We Were The Soldies
BearMoscow
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Tại hạ ở Nga từ bé,thế mà vẫn ngạc nhiên rất nhiều về các thiết kế của Nga. Bạn của ông già có
một ông bạn già nát rưọu. Thế mà ai ngờ được ông là tác giả của hơn 200 phát minh sáng chế.
Sau này do bất mãn,cụ rời phòng thiết kế mà đi làm đường sắt BAM với bọn thanh niên. Ở đây
cụ làm ra một cái máy bay đa dụng ,di lại trên đầm lày rừng Xi be ri ,bay rất hay mà theo cụ tốn
vài копеки (xu). Tại hạ có đến xem mô hình,thư khen và ảnh cụ đang chất vài bao xi măng lên
cái máy bay kỳ dị đó.
Nếu ai đến xem triển lãm vũ khí tự tạo của bọn tội phạm mới thấy bất ngờ lớn. Vũ khí rất hiện đại
va hợp lý,lại làm chui lủi trong nhà riêng (cái này nói ở topic vũ khí bộ binh)
Bất ngờ ở chỗ,người Nga là người mơ mộng. Thế mà lý thuyết nhiều khi thắng thực dụng. Nếu
cứ phải đủ tiền mới làm thì chúng ta không đuợc xem các con Su-35 hoành tráng
Hồi kỉ niệm ĐBP trên không có xuất bản 1 tập sách gồm hồi ức của các cán bộ PKKQ. Trong đó
có hồi kí của 1 sĩ quan trung đoàn 927, theo ông này thì quân chủng có 373 liệt sỹ phi công. Nếu
không tính số phi công trực thăng, vận tải, số hy sinh trong 2 cuộc chiến biên giới, trong tập
luyện, tai nạn thì có thể thấy là thiệt hại của không quân ta trong không chiến là khá lớn. Trong

Sự thật về 9 lần xuất quân lớn của TQ, hồi trước bác nào trích, thì riêng năm 1967 LX viện trợ
cho ta 40 m Cậu panzerlehr này, tớ đâu nói rằng chuyện dịch chia sẻ với anh em là chuyện dở
đâu, phải nhắc đi nhắc lại mãi thế này, ý tớ rất rõ: thái độ và mục đích của người dịch cũng quan
trọng không kém. Còn cậu bảo rằng tớ chưa từng đóng góp gì cho box này thì lại là phán đoán
chủ quan của cậu để đốp lại tớ rồi, nhưng tớ chả trách làm gì.
Còn không rõ cậu hairscary kiếm đâu ra cái mớ luật của người tạo chủ đề trong box rồi nói giảm
đi thành "yêu cầu" hay "đề nghị" để khỏi nói quá thế này. Cậu tính nói đỡ cho ai thì tùy cậu, cái
gọi là "freedom of speech" nó dựa trên cơ sở freewill và chẳng phải bị ràng buộc gì bởi luật lệ
mang tính hành chính gì đâu. Nói đơn giản thế để thấy trên tư cách con người, tớ không đồng ý
với kiểu cấm đoán thành viên khác không được phát biểu, hay bảo dời bài của thành viên khác đi
theo vài chi tiết ngoài đề một chút đơn giản vì không vừa ý. Rồi cậu panzerlehr bảo rằng "chỉ tội
có người dù bận rộn vẫn cố gắng dành thời gian viết dịch", ai không biết điều đó là hay. Nhưng
cậu kqndvn lại bảo các cậu cấm HP vào không thì cậu ấy không tham gia, tớ nghĩ nếu đã không
nghĩ rằng cái cậu ấy làm là quan trọng nhờ "hàng hiếm" hay "bửu bối" gì đó, thì việc cậu ấy bỏ đi
nếu HP vào phát biểu cũng bình thường như bao nhiêu chuyện hàng ngày khác việc gì phải "nhờ
các bác này nọ " để không cho HP vào. Còn việc cậu kqndvn dị ứng hay không với những điều
HP nói là vấn đề của cậu ấy, "cây ngay đâu sợ chết đứng", cậu hairscary việc gì phải đa đoan
bao đồng thế này.
Còn cậu panzerlehr, như cậu nói đó cậu có tâm tình riêng của cậu, tớ cũng vậy, nên việc cậu
xem thế nào là "thọc gậy bánh xe", rồi cậu thương ghét gì con Bim nhà cậu, hay chuyện cậu có
phải cười nhiều hay ít để chống táo bón hay constipation [/b](not "contirpation") thì giữ riêng
cho cậu đi, đem lên đây làm gì Nothing personal here.
Quay trở lại vấn đề quyển Clashes, nó được dịch và trích rỉ rả trong nhiều lần tranh luận
trước đây trong Hàng không trăm năm hay các chủ đề không quân cho những lần không
chiến khác nhau. Các cậu muốn dịch lại thì tốt thôi, tại tớ thấy cậu kqndvn cũng dịch theo
từng cụm vài ba trang cho những lần không chiến khác nhau (như đã trích rỉ rả trước đây)
thay vì theo trình tự quyển sách nếu các cậu muốn chủ đề này cho cả quyển sách đó. Chỉ
là góp ý nhỏ của tớ.
Còn thì chuyện không chiến quá tầm nhìn HP nói không phải là sai đâu. AIM-7 không phải
là không hiệu quả như link cậu hairscary cho đâu. Thực tế bất ngờ luôn là một yếu tố

quan trọng cho tên lửa tầm xa, đặc biệt là MiG-21 và MiG-17 thì không đủ thiết bị điện tử
để tự nhận dạng là đang bị bắn bởi tên lửa tầm xa, biết đâu mà maneuver. Cứ nhìn bảng
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

chiến thắng không chiến của bọn Mỹ để thấy, AIM-7 chỉ sau AIM-9.

Một hạn chế lớn hơn là AIM-7 ít được dùng nhiều như AIM-9 do Rules Of Engagement, đầu
chiến tranh và giai đoạn Rolling Thunder, phi công Mỹ phải nhận diện máy bay trước khi
bắn vì sợ nhầm máy bay Trung Quốc hay máy bay Mỹ khác. AIM-7 ít khi được bắn từ
ngoài tầm 10km. Một số phi công Mỹ hiển nhiên vẫn bỏ qua luật đó. Chứ về khả năng
chiến đấu ngoài tầm nhìn thì đúng là xây dựng từ giai đoạn đó như HP nói.
Còn chuyện Mỹ phải mở Top Gun, huấn luyện dogfight thì cũng không phải trực tiếp do vũ
khí BVR nó dở như cậu hairscary nói để tranh luận với HP mà ra đâu. Đơn giản vì một số
yếu tố, chúng nó phải bay sâu vào lãnh thổ miền Bắc, lúc đó ta cho máy bay lên từ một
trong nhiều sân bay ngay trong trận địa, làm sao mà chúng sử dụng vũ khí tầm xa cho
được. [b]Một điều nữa là radar của chúng giai đoạn đó chưa đến mức Doppler, không
phân biệt ra máy bay MiG-17 bay thấp khỏi nhiễu mặt đất, thì quên luôn đi chuyện bắn tầm
xa là vừa Một điều nữa là ta dùng GCI radar (Ground Control Intercept), giúp điều khiển MiG-21
đến đúng mục tiêu, đội hình máy bay Mỹ thường bị bất ngờ. Còn thì chuyện vũ khí BVR bây giờ
hơn thời đó là lẽ dĩ nhiên rồi, đứa con nít dưới 10 tuổi cũng có thể lập luận điều đó.
Về chuyện máy bay radar thì cách diễn giải của nhà ta có lẽ không rõ nhưng không phải là không
có ý hay không đúng. Tầm phủ sóng radar chủ động Mỹ không kiểm soát được một vùng trời
nhất định như bây giờ vào thời đó, nhưng một cách thụ động chúng nó vẫn bắt được một số các
tín hiệu của ta và phân tích dự đoán vị trí máy bay ta, nên có thể hiểu tầm radar (chủ động) nó
không với tới. Có lẽ HP nói nôm na sao đó nuốt mất vài ba từ ngữ thôi. 3 loại máy bay điện tử

EB-66, EC-121 (Disco), và E-2A, rồi thêm cái tàu USS Chicago ngoài vịnh Bắc Bộ (Red Crown)
làm thành hệ thống điện tử của chúng. EB-66 hiểu nhanh thì như một hệ thống IFF lớn, chủ yếu
thu và phân tích tín hiệu radio. EC-121 thì có hệ thống radar cụ thể và có thể điều khiển chiến
trận, nhưng đâu như chỉ một hai lần thành công trong việc dẫn đường F- đến diệt MiG. Còn E-2A
thì của hải quân Mỹ, với radar chủ yếu kiểm soát khu vực gần bờ biển ta, giúp bọn máy bay Mỹ
bay vào tấn công ta thôi, cộng thêm sự giúp đỡ của USS Chicago.
Câu cậu hairscary hỏi tớ về chuyện khách quan hay không giữa tài liệu ta và Mỹ, thì xin thưa
rằng thật sự tớ chẳng nghĩ tài liệu nào khách quan hơn tài liệu nào cả .
Lối viết thì đúng là Mỹ có vẻ khách quan hơn, vì tài liệu ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuyên
truyền vốn giúp không ít cho chiến thắng của chúng ta. Nhưng chưa chắc phe nói không có vẻ
khách quan là không đúng. Tớ chẳng nói là tài liệu Mỹ khách quan hơn như cậu kqndvn gì đó,
đơn cử nho nhỏ thôi, trong quyển Clashes, Marshall Mitchel có nói là chỉ có phi công Việt Nam
chiến đấu với máy bay Mỹ, khi có không chiến ta còn không cho phi công nước ngoài lên trời.
Thực tế, phi công Bắc Hàn có đánh giúp ta đấy chứ, ta không bao giờ nói gì về điều đó, không
phủ nhận hay công nhận, nhưng liệu cái cách ông Mitchel nói tốt cho ta đoạn đó có phải để tạo
cái vỏ là ông ta khách quan để rồi những chỗ khác ông ta cũng có đề cập đến chuyện ta có thể
đã tự tạo ra những chiến công giả, hay ta tra tấn phi công Mỹ bảo chúng nói bị máy bay ta bắn
rơi, thì tớ hỏi thật cậu đâu là sự thật? Có lẽ cả cậu và tớ, và cả ông đó cũng chẳng
biết, chỉ là đánh giá chủ quan nếu nói nhẹ nhất và có ý đồ gì khác nữa nếu một người khác có
cái nhìn khác (ví dụ như HP)? Nên tớ chẳng nói bên nào khách quan hơn, đọc chơi như truyện
"ngày xửa ngày xưa " và enjoy theo cách mỗi người vậy thôi, đừng nên quảng bá là tài liệu nào
đó khách quan về những điều mà lịch sử cả hai bên cho thấy là chủ quan, nghe như các cậu đã
bị tẩy não.
áy bay chiến đấu.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms


Trong một vài topic, các bác đã hỏi, rồi tự trả lời. Cái gì làm radar ta phát hiện chiến dịch ném
bom B52. Các bác bảo ta có tình báo tận hawai.v.v.v.v hay một cái gì đó-trong khi rất đơn giản,
radar ta chỉ bị làm nhiễu trên một diện tích nhỏ, ngoài diện tích ấy, các trạm cảnh giới ta thừa khả
năng theo dõi địch. Cũng như các bác nói về MIG, trong khi các tài liệu nghiêm túc của nước
ngoài luôn nói về MIG trong CTVN với vai trò của sách giáo khoa. Nếu như trong CTTT, MIG
được sử dụng bởi các anh hùng ww2, có tốc độ và độ cao cao hơn, khả năng leo cao tốt hơn
(người ta cho thêm F-86 một ưu điểm là: rơi tốt hơn, về kỹ thuật, ý đó nói lên máy bay này ăn
lái tốt nhưng hơi hài một tí, vì F-86 chả có hì hơn). MIG trong ctvn thì khác, đây là các MIG cổ,
sử dụng bởi một không quân mới có 1-2 năm tuổi.
Cấu hình máy bay tiêm kích là như em đã nói trên. Chúng ta đã phải dùng máy bay chiến đấu
bằng số lượng áp đảo để chiến đấu bằng số lượng quá ít. DÙng MIG-17 và MIG-19, những chiếc
máy bay cuối cùng được thiết kế để không chiến bằng súng chiến đấu với máy bay chiến đấu
bằng tên lửa. Chúng ta phải dùng máy bay MIG-21 chiến đấu bằng tên lửa bắn trực tiếp tầm
ngắn chiến đấu với máy bay bắn bằng tên lửa có lái tầm xa.
Cũng như em đã trình bầy. Giai đoạn đầu, không quân non trẻ của ta đã làm không quân kỳ cựu
kinh hoàng, khi dùng máy bay cổ số lượng nhỏ, chiến đấu với những đội máy bay hiện đại và
đông hơn nhiều lần. Chi tiết về những trận đánh này, đã có trên box nhiều. Đây là chiến tranh
đầu tiên mà các máy bay sử dụng radar và tên lửa có điều khiển làm vũ khí chính.
Ở đây, em dịch cho các bác những gì người ta nói về bolo. Sau khi không quân non trẻ của ta đã
làm đối thủ khiếp vía. Hai bên tìm mọi cách ử dụng vũ khí mới, đẻ ra các phương pháp chiến đấu
mới. Bolo không phải là một chiến thuật với đầy đủ của nó, nhưng một thời gian đã gây khó khăn
lớn cho phi công ta.

Đây là đoạn tác giả mào đầu:
Bài chuyên đề này nói về những phi công Mỹ đã gan góc chiến đấu hoặc đã chết ở Đông
Nam á trong cuộc chiến tranh Việt Nam mặc dù không được dân chúng đồng tình và
những phi công Việt Nam-những người đã tham gia chặn đứng hầu hết các quốc gia
mạnh nhất thế giới trong công cuộc bảo vệ xứ xở của họ, đặc biệt những người đã chết
trong cuộc chiến chống xâm lược.

Vào những tháng cuối năm 1966, máy bay MIG của Không Quân Nhân Dân Việt Nam(VPAF),
biên chế trong trung đoàn không quân 921 rất tích cực và có hiệu quả phi thường trong việc đánh
chặn máy bay F-105 Thunderchiefs của không quân Hoa Kỳ (USAF) . Theo số liệu của họ, trung
đoàn đã hạ 9 máy bay Thunderchiefs trong tháng 12 năm 1966. Chi tiết hơn, những máy bay của
trung đoàn đã bắn hạ 2 F-105 ngày 5, ba chiếc nữa đến ngày 14. Ghi nhận của Mỹ không công
nhận việc mất máy bay trong những ngày này, nhưng lại ghi nhận việc mất tích phi công-dẫn đến
ít nhất mỗi chiếc đã mất trong ngày 5 và 8 (???????)
Chú ý rằng, chiếc máy bay F-105 rơi ngày 8/12/1966 là một sự kiện đặc biệt. Nó không nằm
trong những con số chiến thắng trong khong chiến công bố gần đây của KQNDVN, nhưng lại
nằm trong các văn bản KQNHVN gửi cho không quân Soviet. Thêm nữa, theo các thông tin gần
đây, cho thấy lúc đó chuyên gia Liên Xô có thể đã thay thế phi công Việt Nam bị thương hay
chết, hoặc là một tình huống nào đó trong một buổi tập. Một trong những chuyên gia Soviet đã
ghi được 6 chiến thắng trong năm 1966 là Sr. Lt. Vadim Petrovich Shchbakov mặc dù không có
chi tiết về những chiến thắng của ông. Có thể chiếc máy bay F-105 rơi là do ông. Như vậy giấu
đầu hở đuôi, chiếc máy bay bị bắn hạ và bị giấu ngày hôm đó lại quá nổi tiếng, có số hiệu
591820, phi công Donald Asire (KIA). Tuy số liệu của Việt Nam và Mỹ khác nhau, nhưng chắc
chắn là MIG đã thắng to, làm không quân Mỹ thiệt hại đến mức không chịu được, vị vậy, Mỹ
quyết định chặn đứng mối đe dọa từ MIG. Nỗ lực có tên chiến dịch Bolo.
Ý tưởng của chiến dịch là một kiệt tác của một nhân vật có cuộc sống rất nổi đình đám trong số
các phi công F-4 ở Đông Nam á, đại tá Robin Olds. Ông là một cựu ace P-38/P-51 của chiến
tranh thế giới, bắn hạ 12 máy bay Đức năm 1944-1945, năm 1966 44 tuổi, là CO 8th TFW với
biệt danh “Sát thủ” (chị em, hè hè hè). Ông là một mẫu phi công chiến đấu cũ: thô, nóng, nhậu
nhưng là một lãnh đạo thoải mái và là một nhà chiến thuật trực giác. Ông tin rằng, nếu đưa một
đội hình F-4 đi liền sau F-105, sử dụng cùng tần só điện đài, cùng khẩu ngữ liên lạc, đường bay,
độ cao, tốc độ thì những người phân tích của Hà Nội sẽ quên đường nhầm đó là đội hình F-105
dễ xơi, điều MIG đến, khi các MIG nhận ra đó là sự thật thì đã quá muộn. Như vậy, ông để nghị
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^




Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

một đội hình lớn F-4 sử dụng cùng đường bay, tốc độ, độ cao giả làm F-105.
Ngày bắt đầu của chiến dịch Bolo là 2-1 năm 1966. Bắt đầu tối, 14 tốp F-4C 8th TFW xuất phát
từ căn cứ Udon Thái lan giả vờ làm F-105. Phía đông, các máy bay Fa của 366th TFW bịt đường
rút lui của các MIG. Olds chỉ huy tốp đầu. Mật lệnh lấy từ các ô tô đang mốt lúc đó "Ford,"
"Rambler". Tuy có inh nghiệm ciến đấu lâu năm nhưng Olds vẫn lo, liệu họ cómắc mồi không.
Điều lo lắng nhanh chóng qua đi, khi mà những MIG xuất hiện và phát hiện đó không phải là con
mồi F-105 hấp dẫn, mà là F-4. Chiếc MIG đầu tiên bị hạ bởi “Olds 02” Ralph Wetterhahn, chiếc
tiếp theo Captain Walter Radeker. Ban đầu Olds không máy mắn. Trong báo cáo, ông ta ghi:
Bắt đầu trận đánh, một MIG rời khỏi trần mây xuất hiện trước ông, 11 giờ, khoàng cách
2000yards, chiếc này chui lại vào trong mâyOlds cố đuổi theo Olds nã liền ba đạn, một
Sidewinder và hai Sparrows. Nhưng địch thủ đã chứng tỏ đẳng cấp, tránh cả ba đạn và biến mất
vào trong mây.

Tạm thế đã.
Còn không rõ cậu hairscary kiếm đâu ra cái mớ luật của người tạo chủ đề trong box rồi
nói giảm đi thành "yêu cầu" hay "đề nghị" để khỏi nói quá thế này.
Còn việc cậu kqndvn dị ứng hay không với những điều HP nói là vấn đề của cậu ấy, "cây
ngay đâu sợ chết đứng", cậu hairscary việc gì phải đa đoan bao đồng thế này.
Thưa bác submarines, nói một cách khác, ở đây không có cái freedom of speech theo đúng
nghĩa của freedom of speech. Ví dụ, diễn đàn qui định cấm những bài viết ''''''''nhạy cảm''''''''. Bác
nahỵ cảm một tí thì được lên cột điện ngồi chơi, nhạy cảm tí nữa thì lo đi kiếm nick mới, tỉ dụ thế.
Nhắc lại là tôi viết rằng người chủ sở hữu của ttvnol đặt ra các qui định của diễn đàn chung, mỗi
box có qui định riêng. Người mở mỗi topic có quyền đặt ra yêu cầu riêng. Tuy nhiên yêu cầu của
người mở topic có được đảm bảo hay không là tuỳ vào các thành viên khác. Ở đây bác kqndvn
có quyền yêu cầu là cấm HP tham gia vào topic này, nhưng HP thì vẫn post bài vào và điều đó
không vi phạm vào qui định của box, và bác kqndvn dĩ nhiên là chẳng thể nào làm gì được. Cá
nhân tôi cũng không đồng tình với bác kqndvn. Nhưng lý do có yêu cầu cấm đó là lý do cá nhân

của bác kqndvn đối với HP, đừng biến nó sang bửu bối gì đó để rồi giễu cợt người ta. Và cấm
HP không có nghĩa là cấm freedom of speech. Bao đồng hay không, thì cũng giống như tôi với
bác đang trao đổi đây thôi.
Còn thì chuyện không chiến quá tầm nhìn HP nói không phải là sai đâu. AIM-7 không phải
là không hiệu quả như link cậu hairscary cho đâu. Cứ nhìn bảng chiến thắng không chiến
của bọn Mỹ để thấy, AIM-7 chỉ sau AIM-9.
Cái bảng thống kê đó của bác chỉ cho biết số máy bay bị hạ bởi AIM-7 nói chung. Nó không cho
biết tình huống bắn hạ cụ thể, quá tầm nhìn hay trong tầm nhìn. Nó không cho biết loại AIM-7
nào, AIM-7E thường hay AIM-7E-2 cho dogfight. Nó cũng không cho biết là tốn bao nhiêu quả
AIM-7 mới hạ được một máy bay, và xem xét tỉ lệ đó để đánh giá hiệu quả, quá tầm nhìn hay
không.
Bác có thể vào Yahoo hay Google AIM-7 ra từ mạng và đọc các đoạn AIM-7 liên quan tới chiến
tranh VN. Tỉ lệ kill probability chỉ khoảng 10% cho cái đời AIM-7E quá tầm nhìn đấy. Lần trước tôi
có đưa cái link của globalsecurity. Bác vào FAS người ta nói y hệt như thế. FAS=Federation of
American Scientists thì phải, cái này tui không chắc lắm. Cái topic sinh đôi của bác kqndvn có
đưa số liệu về tầm của AIM-7. Những link khác về AIM-7 thời kỳ CTVN còn lạc quan hơn nhiều,
tầm bắn head on là khoảng 20 nm, bắn đuổi là khoảng 5.5 nm, trong điều kiện thuận lợi nhất, và
những thông số đó chỉ là lý thuyết. Người ta viết rằng tầm tối đa của tên lửa này (max. range)
vượt quá rất nhiều (far exceed) so với tầm hiệu quả tối đa (max. effective range). Nhưng đừng
vội lấy cái tầm trên để gắn vào cái quá tầm nhìn, vì đấy chỉ là trên giấy tờ.
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Một hạn chế lớn hơn là AIM-7 ít được dùng nhiều như AIM-9 do Rules Of Engagement, đầu
chiến tranh và giai đoạn Rolling Thunder, phi công Mỹ phải nhận diện máy bay trước khi
bắn vì sợ nhầm máy bay Trung Quốc hay máy bay Mỹ khác. AIM-7 ít khi được bắn từ

ngoài tầm 10km. Một số phi công Mỹ hiển nhiên vẫn bỏ qua luật đó. Chứ về khả năng
chiến đấu ngoài tầm nhìn thì đúng là xây dựng từ giai đoạn đó như HP nói.
Viết như trên thì có phải là ngay từ đầu Mẽo đã chẳng xây dựng cái quá tầm nhìn đúng không,
rule of engagement mà. Đã rule là phải visual ID rồi thì còn quá tầm nhìn thế quái nào được nữa.
Còn chuyện Mỹ phải mở Top Gun, huấn luyện dogfight thì cũng không phải trực tiếp do vũ
khí BVR nó dở như cậu hairscary nói để tranh luận với HP mà ra đâu.
ta cho máy bay lên từ một trong nhiều sân bay ngay trong trận địa, làm sao mà chúng sử
dụng vũ khí tầm xa cho được[/i].
không phân biệt ra máy bay MiG-17 bay thấp khỏi nhiễu mặt đất, thì quên luôn đi chuyện
bắn tầm xa là vừa Một điều nữa là ta dùng GCI radar (Ground Control Intercept), giúp
điều khiển MiG-21 đến đúng mục tiêu, đội hình máy bay Mỹ thường bị bất ngờ.
Tôi đã viết rồi, dẫn đường của ta ít để cho Mẽo cơ hội xây dựng cái quá tầm nhìn đấy. Ở trên thì
là Mẽo tự rule, ở đây thì thêm cái là ta hạn chế nó. Còn gì để xây với dựng nữa đây.
Tôi không viết rõ rằng vì vũ khí BVR của Mẽo dở nên phải dậy nhau dogfight. Tôi viết rằng Mẽo
tưởng có ưu thế với AIM-7 nhưng cuối cùng thì vẫn phải dậy nhau dogfight. Hai cái này có khác
nhau. Xin bác về đọc thêm về lý do mở TopGun.
Còn chuyện cất cánh trong trận địa là thế nào? Nó đang bỏ bom ngay gần sân bay thì ta cất cánh
lên, hay trận địa ở đây là cả miền Bắc VN? Bác phải viết rõ ra mới được. Ít có trường hợp máy
bay ta cất cánh khi địch đang đánh phá ngay sân bay hay gần sân bay. Có trường hợp địch phục
kích gần sân bay chờ ta cất cánh. Nhưng vấn đề vẫn là dẫn đường, dẫn từ xa dẫn vào, tạo thế
bất ngờ. Bác đọc lại chuyện của bác Lê Thành Chơn, có link ngay trang 1.
Dưng mà túm lại thì là Mẽo vẫn phải dogfight và chẳng có cơ hội xây dựng cái quá tầm nhìn đấy,
đúng không?
Về chuyện máy bay radar thì cách diễn giải của nhà ta có lẽ không rõ nhưng không phải là
không có ý hay không đúng. Tầm phủ sóng radar chủ động Mỹ không kiểm soát được một
vùng trời nhất định như bây giờ vào thời đó,
Keyword: EC-121. Mẽo tuyên bố hai chiếc này là đủ kiểm soát hầu hết bầu trời Bắc Việt. Một cái
ở Lào, một ở vịnh Bắc bộ
E-2, đời đầu E-2A, radar An/APQ-96, sau đó là E-2B, radar An/APQ-120, dùng ở CTVN. E-2C
bây giờ radar tầm khoảng 345 nm. Lấy cái tầm khiêm tốn thôi cho E-2A/B là 250 nm. Thằng này

hay EC-121 thường bay cách Hải Phòng khoảng 50 nm. Còn lại 200 nm liệu có đủ cho khoảng
cách từ Hải Phòng tới Vĩnh Yên không. Nhớ tính đường chim bay chứ không tính đường chim đi
xe đạp. E-2A khả năng phát hiện mục tiêu trên đất liền kém nếu mục tiêu bay thấp. Nhưng nếu
mục tiêu bay cao tới 7000 mét thì là chuyện khác.
Có lẽ HP nói nôm na sao đó nuốt mất vài ba từ ngữ thôi.
Chuyện hai chiếc máy bay này còn phải bàn nhiều. Nhưng mà tôi thì cứ tự hỏi kỹ thuật HIỆN ĐẠI
gì mà radar không với tới mà vẫn phát hiện ra địch ở đâu từ tít tìn tịt đằng xa. Thế nên tôi thử đặt
lại cái câu trên của bác thành: Có lẽ HP quen xào nấu và mải diễn thuyết hùng hồn nên mới
thành ra vậy, NẾU NHƯ hai máy bay Mig-17 đó là hai chiếc bác Chơn đã tả. Mà bác Chơn chỉ rõ
thằng E-2A.
^=^ Đặng Hoàng Hải ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

Cõu cu hairscary hi t v chuyn khỏch quan hay khụng gia ti liu ta v M, thỡ xin
tha rng tht s t chng ngh ti liu no khỏch quan hn ti liu no c .
Khụng phi, ý tụi núi l cỏi bi ca bỏc HP kia kỡa.
Thc ra m núi, cỏi khỏi nim BVR, hay quỏ tm nhỡn, thỡ phi sau ny ngi ta mi dựng n.
Chng ai dựng nú cho cỏi AIM-7 y c. Bỏc c tớnh bn t 20 nm (head on) trờn lý thuyt, phi
chiu quột mc tiờu liờn tc bng radar, vi tc mỏy bay, li bay i u (thc t thỡ chng
c vy), thỡ quỏ tm nhỡn cỏi quỏi gỡ na. Mt bao nhiờu lõu õu tr thnh trong tm nhỡn.
Th nờn tng cỏi quỏ tm nhỡn ca nhng nm sau vo õy, ri hựng hn rng anh nụng dõn
chõn t mt toột nm 1947 hai mi nm sau cựng Mo xõy dng k thut khụng chin quỏ
tm nhỡn, m thc ra l lm bia cho quỏ tm nhỡn ca nú vỡ mỡnh ch cú trong tm nhỡn, thỡ
lm cỏi gỡ.
To cỏc bỏc khụng thớch cói nhau: Nu cỏc bỏc thớch xo nu khụng thỡ khụng sao, nhng xo
nu ri trỡnh by nú li mt cỏch honh trỏng v hựng hn quỏ thỡ th no tụi cng chỳ ý.

Trong tng s ~200 air victories m M claim thỡ ch cú 27 kills l do F105, tc l cú 12%. Vy
nờn cun v F105 lm sao cú cover cỏc trn khụng chin nh cun ang dch c? M tt
nht l chng minh li cu núi thỡ cu nờn bt u dch cho anh em thỡ hn l ch núi suụng.
õy mi ngi s ỏnh giỏ cao y. Tụi thỡ khụng thớch mỏy bay nộm bom nờn tụi s khụng
dch cun y õu - tụi ó lt qua nú th vin ri.
V chuyn tụi kờu gi cm Huyphuc81_nb khụng tha õu. Ch ngay sau khi post n bi th hai
cu ta ó vo tung li mt sỏt thm t ri. Tụi phi nh v Mod ó xoỏ h ngay bi ú. M õy l
tụi ngh cm Huyphuc81_nb vo "chi bi la lng" - chc cu cng ng ý l freedom of
speech khụng bao gm quyn c mt sỏt nhau trờn din n y ch?
Ngy u tiờn nhp hc nú phỏt cho orientation package, trong ú cú bn cam kt cm in n,
nhõn bn ti liu. Ti liu Seminar ca hi ny Professor lp no cng núi rừ ngay t bui u l
khi kt thỳc class you guys have to destroy the papers.
Sỏch th vin nu l loi ph thụng, textbook thỡ ó c trng i hc mua bn quyn cho
sinh viờn dựng ri, nờn c phộp photo cú mc . Sỏch khụng thuc dng ph thụng v
trng i hc tr tin bn quyn thỡ khụng cú chuyn photo thoi mỏi õu.
Anh, ti mi mỏy photo trng tụi cú hng dn ngay bờn trờn l khụng c photo quỏ 10%
cun sỏch, v khụng c photo nguyờn vn mt chng. Khi photo phi ng ký vi th vin
t trang bao nhiờu n trang bao nhiờu.
Khụng thy ai i bt l vỡ Phng Tõy h cho t giỏc; Dõn h cú ý thc t giỏc cao nờn ó
cm l h (tuyt i a s) khụng lm. Ch cú dõn M en, M nhp c, dõn quc t l hay
violate lut thụi. Khụng may ai b dớnh vo thỡ ngi y chu. ng cú m núi vi lut phỏp l
bao nhiờu ngi cng th sao my chng bt, bt mi tao. Lut l lut.
Cu kqndvn núi chuyn v copyright vi li culture orientation thụng tho th m khụng bit l bi
vit ca cu ó vi phm vn nghiờm trng nht ca nc M ? th ụng gs ca cu quờn
khụng núi vi cỏc cu l racist, discrimination mụi troựng accdemic Hoa Kỡ l cú th b ui
hc (vi hc trũ nh cu) v ui dy (vi giỏo s ) hay sao? Nhng nhn xột ca cu v tớnh
primitive, sadistic ca ngũi da mu vụ hỡnh chung thnh ca ngi white supermacy y. Hi vng
l cu ng vui ming m l cho my bỏc ghetto nghe: dt khoỏt s b nn nh t, nu bn hc
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^




Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

mà nghe: khả năng đưổi học sẽ rất cao, còn trên diễn đàn này cậu cũng không nên viết những
chuyện đó vì vô tình sẽ tạo tiền đề xấu cho nhưng ngưòi tin theo hoặc gây nên sự khó chịu cho
những ngưòi ghét cay ghét đắng tụi racist như tôi.
Thêm một điều nữa: chả có trường nào lại "mua bản quyền" một cuốn sách cho sv của mình
dùng đâu kqndnv ạ.(trừ phi sách do chính NXB của trưòng phát hành) Trừ những tài liệu nằm
trong "electronic reserve" của thư viện trường ra (được trả tiền bản quyền) thì TẤT CẢ mọi hành
động photô đều là phạm luật, dù chỉ là một trang. Luật là thế nhưng tất cả giáo sư đều photô
nhiều đoạn tài liệu cho sv vì nếu phải mua cả thì chả ai kham nổi (kể cả ngưòi da trắng "tự giác"
mà cậu khen ngợi). Điều đó có nghĩa là vẫn có thể chamm chước được (vì sách ở đây đắt qua
chừng mà lại phải dùng rất nhiều).Nếu truờng của kqdnvn tyệt diệu như vậy thì nói tên xem, tôi
có thể tìm xem để học hỏi trường hợp "độc nhất vô nhị" của hệ thống GD Mĩ. Kể cũng hay đấy
chứ
Cái này bác cần phải xem lại. Theo em bác đang nhầm lẫn giữa 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau
đó là : khách quan và sự thật.
Bác mà muốn đọc đồ nói lên "sự thật" thì em xin mời bác đọc mấy quyển kinh thánh với Mao
Tuyển chẳng hạn Chứ khách quan ở đây chỉ là cách tác giả khai thác từ những nguồn tin
của mình để đưa ra 1 kết luận có tính lô-gích thuyết phục được cả những người ngoài cuộc thôi
bác ạ. Từ đó mới có thểsuy ra cái nào khách quan hơn cái nào. Chẳng hạn ở đây, việc bác gán
cho ông Marshall Michell này cái chuyện ông ta khen F105 với sự thật, nếu bác đưa ra bằng
chứng từ càc thông tin của bác là tại sao ông ta đánh giá sai cái F105, và nó có tính thuyết phục
như bác đã từng khoe, thì đó chính là 1 thí dụ về tính khách quan. Chứ bác cứ lôi mấy cái từ đao
to búa lớn như "sự thật" với cả "tẩy não" vào đây em nghe thấy nó dổm quá bác ạ!
Mà nếu bác đọc kỹ hơn mấy post của em, bác sẽ thấy em vẫn đợi từ đầu tới giờ những phân tích
của bác về chuyện chiếc F105 đó. Thêm vào post trên, bác có thể chỉ cho em đoạn nào trong
Clashes, tác giả "có nói là chỉ có phi công Việt Nam chiến đấu với máy bay Mỹ, khi có không

chiến ta còn không cho phi công nước ngoài lên trời" ở chỗ nào không? Tại sao em chả tìm thấy
chỗ nào ông ta nói như thế cả
Mà cũng xin nói thêm em hoàn toàn tôn trọng những phát biểu của bác Huy Phúc, qua những bài
của bác ấy trong những đề tài em hiểu biết rõ hơn như WW2, chiến thuật tác chiến của
QĐNDVN trong các cuộc chiến tranh vưà qua, em biết là bác ấy cũng là 1 người có kiến thức
sâu rộng và cũng có nhiệt tình với box này cho nên ở những đề tài mới đối với em như mấy cái
máy bay tầu bò này em chỉ đọc bài của bác ấy để học hỏi là chính, còn chuyện châm chọc em
thấy mấy thằng phỉ tóc dài làm là quá rồi khỏi cần người khác a dua vào.
ý tưởng của chiến dịch là một kiệt tác của một nhân vật có cuộc sống rất nổi đình đám trong số
các phi công F-4 ở Đông Nam á, đại tá Robin Olds. Ông là một cựu ace P-38/P-51 của chiến
tranh thế giới, bắn hạ 12 máy bay Đức năm 1944-1945, năm 1966 44 tuổi, là CO 8th TFW với
biệt danh lãnh đạo "Đàn Sói" (chị em, hè hè hè). Ông là một mẫu phi công chiến đấu cũ: thô,
nóng, nhậu nhưng là một lãnh đạo tự nhiên và là một nhà chiến thuật trực giác. Ông tin rằng, nếu
đưa một đội hình F-4 đi liền sau F-105, sử dụng cùng tần só điện đài, cùng khẩu ngữ liên lạc,
đường bay, độ cao, tốc độ thì nhứng người phân tích của Hà Nội sẽ quên đường nhầm đó là đội
hình F-105 dễ xơi, điều MIG đến, khi các MIG nhận ra đó là sự thật thì đã quá muộn. Như vậy,
ông để nghị một đội hình lớn F-4 sử dụng cùng đường bay, tốc độ, độ cao
Ngày bắt đầu của chiến dịch Bolo là 2-1 năm 1966. Bắt đầu tối, 14 tốp F-4C 8th TFW xuất phát
từ căn cứ Udon Thái lan giả vờ làm F-105. Phía đông, các máy bay Fa của 366th TFW bịt đường
rút lui của các MIG. Olds chỉ huy tốp đầu. Mật lệnh lấy từ các ô tô đang mốt lúc đó "Ford,"
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

"Rambler" và "Olds". Tuy có kinh nghiệm ciến đấu lâu năm nhưng Olds vẫn lo, liệu họ cómắc mồi
không. Trận đánh chia làm 3 đợt.
Olds

Điều lo lắng nhanh chóng qua đi, khi mà những MIG xuất hiện và phát hiện đó không phải là con
mồi F-105 hấp dẫn, mà là F-4. Chiếc MIG đầu tiên bị hạ bởi "Olds 02" Ralph Wetterhahn, chiếc
tiếp theo Captain Walter Radeker. Ban đầu Olds không may mắn. Trong báo cáo, ông ta ghi:
Trận đánh bắt đầu khi MIG rời khỏi trần mây. Không may cho tôi, một chiếc xuất hiện hướng 6
giờ. Tôi nghĩ, đó là một tai nạn hơn là một hành động chiến thuật. Ngay say đó, rất nhièu MIG
xuất hiện rơi từ trần mây ở nhiều chỗ khác nhau. Tôi gặp may, MIG đằng sau tôi chú ý tới chiếc
máy bay bay sau.
MIG rời khỏi trần mây xuất hiện trước ông, 11 giờ, khoàng cách 2000yards, chiếc này chui lại
vào trong mâyOlds cố đuổi theo Olds nã liền ba đạn, một Sidewinder và hai Sparrows. Nhưng
địch thủ đã chứng tỏ đẳng cấp, tránh cả ba đạn và biến mất vào trong mây. Tôi bẻ quặt sang trái,
đủ góc dể thoát khỏi đường bắn của chiếc MIG và hy vọng chiếc máy bay yểm hộ đằng sau chú
ý tới MIG. Trong khi đó, một MIG khác rời trần mây, xuất hiện hướng 11giờ, khoảng cách 2000
yard. Nó muốn chui trở lại vào trần mây nhưng tôi tìm cách tấn công nó.
Olds bắn liền ba đạn, một trái Sidewinder và hai Sparrows, nhưng địch thủ chứng tỏ đẳng cấp,
tránh cả ba trái và mất hút. Trong khí dó, Luck không an toần một bên sườn, một chiếc MIG tấn
công từ hướng đó và một MIG khác có thể trở thành mục tiêu sau khi né tránh. Mọi sự nhanh
chóng thay đổi. Olds tiếp:
Chiếc thứ ba xuất hiện hướng 10 giờ, bay từ trái sang phải, gần như là đối diện. Chiếc MIG thứ
nhất co khoảng cách lại còn tôi bật đốt hậu để tìm chỗ tấn công tốt hơn MIG mới. Tôi ngẩn máy
bay của tôi lên góc 45 đọ bên trong vòng lượng của chiếc MIG này. MIG lượn về trái, tôi kéo cần
lái và thực hiện đường lộn thành thùng về phải. Đường lượn có tác dụng rất tốt. Tôi cảm thấy tôi
trên đầu mục tiêu , nhìn thấy một nửa mặt trên của nó. Tôi giữ điều đó trong khi MIG kết thúc
vòng lượn, tính toán trước thời gian đó, tôi có thể lật đàng sao MIg và bám được đuôi với góc 20
độ khoảng cách 1500 yard. MIG khó nhìn thấy tôi khi tôi ở sau và bên dưới. Tôi có thể nhìn thấy
bóng nó đối diện với mặt trời khi tôi phóng hai quả Sidewinders một quả chính xác và cắt rời
cánh phải. Vài phút sau, nhóm Olds báo cáo bắn hạ 3 MIG mà không mất máy bay nào. Họ trở
về sân bay. Kết thúc vòng đầu.
Ford
Vòng thứ hai, mật tên Ford đến vùng hay gặp MIG. Chỉ huy chuyến này là , Colonel Chappie
James không bắn hạ địch thủ nào nhứng dẫn đường cho Captain Everett T. Raspberry. Lúc

15h04 tôi bị tấn công bởi 3 MIG, hai chiếc 10 giờ và một chiếc 6 giờ. Ban đầu tôi không chú ý
đến chiếc thứ ba đến gàn bvì tập trung và chỗ khác. Tôi được cảnh báo khẩn cấo một MIG đang
đến nhanh, trong góc bắn ở khoảng cách 4-3 lần tầm. Tôi dó dự một chút trước khi dừng tấn
công hai MIG phía trước vì tôi .đã nhìn thấy Olds bay bên dưới chúng tôi vài giay trước đây. Tôi
nghĩ rằng chiếc máy bay mà người ta nhắc cho tôi có thể là một trong những chiếc đó. Tôi lật đột
ngộ máy bay sang trái, rồi sau đó sang phải, bắn chặt chiếc MIG thứ 3. Tôi lệnh cho số 3 và 4 lật
phải. Họ làm như vậy, MIG vòng gấp ttrái một cách khó hiểu và một phần giây chũng tôi bay bên
nhau, rất gần nhau, ngoài ngôi sao đỏ trân canh của MIG tôi nhìn rõ mặt phi công. Tôi lật một
đường lật thành thùng ngang để ra xa MIG và đặt mình vào vị trí tấn công., khi đã có vị trí, tôi
bắn một tên lửa Sidewinder, tên lửa trượt dó MIG tránh được bởi một động tác rẽ trái đột ngột
với ga hết cỡ. Nhưng khi MIG làm động tác đó, MIG đặt mình vào vị trí bắn của số 2 là đại úy
Everett T. Raspberry. Tôi lệnh cho anh ta theo con mồi, bởi vì bắt đầu nhìn thấy hai máy bay
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

phía trước tôi. Ơr một vị trí thuận lợi, tôi bắn hai phát đạn AIM-9s liên tiếp về phía mục tiêu và lật
máy bay, tự đặt mình vào vị trí cảnh giiới cho số 2. Tôi giảm khoảng cách với số hai, đại úy
Raspberry và nghĩ, anh ta vẫn ngoài hình nón phóng đạn tốt nhất. Nhưng anh ta thực hiện một
đường lộn nhỏ và tự đặt vào vị trí ưu việt để tấn công và phóng một tên lửa AIM-9, nó trúng duôi
chiếc MIG. Nó rung lắc mạnh, rơi xuống và sau đó xoáy lộn. Trận đanh do nhóm Ford thực hiện
hoàn thành, không máy bay nào của Mỹ mất và 1 MIG rơi. Ngày hôm đó, tỷ số đã là 4:0, mọi thứ
thuận lợi để trạn thứ 3 bắt đầu, nhóm Rambler cất cánh.
Rambler
Trận đanh cuối cùng do nhóm Rambler thực hiện, đi qua một vài nơi mà MIG hay đến, dó đại úy
John B. Stone chỉ huy. Stone trông thấy 2 MIg trước và sau, lẳng lặng tiến đến gần mà hạ 1 MIG
bằng hai tên lửa AIM-7 Sparrows . Ngay sau đó, Stone tấn công chiếc MIG thứ ba, nhưng là một

hành động kết hợp với số hai, Stone đặt MIG vào vị trí bắn thuận lợi của số 4 Philip P. Combies
("Rambler 04"). Stone kể về trận đánh:
Chúng tôi bay ở độ cao 4800met và tốc độ khoảng 1000km/s. Một lúc sau khi hoàn thành một
vòng Tây Bắc, chúng tôi nhận thấyy một đội 4 MIG đang đí hàng dọc ở khoảng cách 8km, góc 2
giờ thấp hơn chúng tôi. Hơn hai MIG xuát hiện phía sau khoảng 3km. Khi MIG chéo qua trước
Stone, Stone bỏ thùng dầu phụ, rẽ trái và bắt đầu đuổi theo. Vì điều đó, đội hình bai trải rộng ra
bên phải. Stone cảm thấy vị trí của mình hơn cao hơn và ở rìa bên phải những máy bay khác.
Stone giữ van dầu ơ rmứ nhỏ nấtk hi bắn dàu trận đánh, MIG bẻ gấp sang trái, trận đánh bắt
đầu. Stone kể tiếp. Tôi chọn lấy một MIG và đuổi theo nó bằng radả của mình. Tôi không nghĩ
rằng chúng tôi chịu đựng 4G-chưa bao giờ như thế mà bình yên vô sự. Tôi quyết định sử dụng
chiến thuật của phi công Hải Quân, thu hẹp khoảng cách theo radar như trên, nhưng bằng cách
nhìn qua vạch ngắm chữ thập. Khi tôi thực hiện điều đó, tôi đang ở vị trí bên trái, tôi ấn nút bắn,
nhả ra, rồi lại ấn và thả lần nữa. Tôi không nhìn thấy quả Sparrow đầu tiên. Tuy nhiên tôi dõi theo
được quả thứ hai từ lúc bắn đến khi chạm mục tiêu. Tôi bắn quả này từ khoảng cách nhỏ hơn
2000yards, độ cao 3500met và rẽ sang trái. Quả đạn thứ hai đấnh trúng đuôi MIG, một giây sau
bùng lên một quả bóng lửa da cam to tướng.
Mộ giấy sau, MIG thứ hai bị F-4C Phantom "Rambler 02" hạ, có vẻ như bằng tên lửa Sparrow do
phi công Lawrence Glynn bắn. Đó là MIG thứ ba do đội "Rambler" hạ, đưa tỷ số toàn trận đánh
lên đến 7:0. Tổng kết, trận đánh Bolo ngày 2 tháng giêng năm 1966:
555 TFS, 8 TFW F-4C R. Wetterhahn J.Sharp AIM-7 MiG-21
555 TFS, 8 TFW F-4C W. Radeker II J. Murray III AIM-9 MiG-21
555 TFS, 8 TFW F-4C R. Olds C. Clifton AIM-9 MiG-21
555 TFS, 8 TFW F-4C E. Raspberry R. Western AIM-9 MiG-21
433 TFS, 8 TFW F-4C P. Combies L. Dutton AIM-7 MiG-21
433 TFS, 8 TFW F-4C J. Stone C. Dunnegan AIM-7 MiG-21
433 TFS, 8 TFW F-4C L. Glynn Jr. L. Cary AIM-7 MiG-21
Tuy nhiên, phía không quân nhân dân Việt Nam thông báo chính thức họ mất 5 MIG hôm đó,
cộng thêm chiếc thứ sáu phi công nhảy dù do hết dầu. Có thể MIG hết dầu do hư hại thùng dầu
vì trận đánh. VNAF công nhận Mỹ thắng trắng trong ngày hôm đó. Thất bại của VNAF và trận
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^




Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

đánh ngày 6 tháng giêng (2 MIG mất) đã làm VNAF không giao chiến từ tháng giêng đến nửa
tháng 3.
Tiếp tục chiến tranh:
Nhưng không quân Mỹ chỉ làm tăng căm hận từ phía không quân Nhân Dân Việt Nam. Họ đã rút
ra sức mạnh từ mất mát sai lầm của họ và trở lại bầu trời, tiếp tực và tiếp tục. Một vài thời điểm
thăng với tỷ số cao.,như là con số máy bay Mỹ mất do chiến đấu trên không tháng 4,5,8 và tháng
11 năm 1967 đã xóa đi thất bại. Trong năm đó, trong các cuộc không chiến, không quân Mỹ mất
32 máy bay ném bom (bao gồm 16 F-105D/F các loại, 2F-101C và một A-1E, cộng thêm hơn 8
chiếc của hải quân. Các phi công F-4C/D của 366th TFW và 8th TFW nố lực để bảo vệ các máy
bay ném bom, nhiều khi thành công. khoảng từ 36-59 chiếc MIG đã bị hạ bởi họ, 23 trong số đó
thuộc về "đàn sói". Nhưng họ cũng phải trả giá đắt cho việc đó: 13 F-4C/D các loại bị bắn hạ bởi
không chiến trong riêng năm đó. Không có số liệu chính thức từ phía Không Quân Nhân Dân Việt
Nam, nhưng khởng 70% trong đó là thiệt hại thật cho VNAF. Việc máy bay Mỹ rơi nhiều hơn
trong không chiến đã xóa sạch thành công của trận đánh Bolo nổi tiếng.


Ý kiến riêng của HP.
Người Mỹ rất dễ giấu các thất bại trong không chiến của họ, do nhưng nguyên nhân:
1, người Mỹ chỉ tính máy bay rới tại trận trong không chiến, còn máy bay dặt dẹo một lúc mới mất
thì không
2, số lượng máy bay rơi do không chiến rất ít so với máy bay rơi do vũ khí trên mặt đất, dễ
chuyểntừ nguyên nhân này sang nguyên nhân kia.
Những người Mỹ nghiêm túc thì nghiên cứ chiến tranh một cách nghiêm túc, còn những người
Mỹ không nghiêm túc thì hét ầm. Có những máy bay bi giấu buồn cười như 8/12/1966 chẳng hạn,

chiếc máy bay bị mất và bị giấu sau này lại quá nổi tiếng.
Nhìn chung, không quân Nhân Dân Việt Nam (VNAF) đã thắng lợi. Thắng lợi còn trở nên sáng rõ
hơn nếu hiểu rằng, ta lấy súng bắn nhau với tên lửa, lấy MIG-17 hạ F-105, F-4. MIG-21 và MIG-
17 đều là nhứng máy bay không chiến trong đội hình rất lớn, do đó, chúng mang ít vũ khí.
Người Mỹ không ngại gì khi tuyên truyền, họ có thể bịa ra những con số "biết nói" nhất trên đời.
Ví dụ, tổng kết chiến tranh TT, không quân Nga-Tầu-Bắc Hàn thắng lợi lớn, tỷ số chung là
khoảng 300:1400. Nhưng rất nhiều sách báo tài liệu v.v.v.v của Mỹ hết toáng: Mỹ thắng 10:1.
Thật là coi nười đọc như trẻ con.
Trong chiến tranh Việt Nam cũng vậy, chỉ hai phi công kỳ cựu Mỹ trở thành ace, trong khi đó, Việt
Nam có nhiều Ace. Em khoái nhất Phạm Thanh Ngân, phi công sáng tạo nhất, nhưng chuyện kể
về ông không nhiều.
Ở đây, em chỉ ngắn gọn giới thiệu ba phi công Bẩy, Soát, Cốc, theo con mắt người nước ngoài.
Các bác sẽ thấy, MIG-17 giáo chiến và bắn hạ F-105 và F-4 thế nào, súng bắn nhau với tên lửa
thế nào.
Nói về chiến tranh VN cũng vậy. Em đã từng dọc thấy một cậu 20 tuổi người Mỹ kêu: "trận nào
chúng ta cũng thắng, tại sao chúng ta lại thua. Chúng ta không thua, chúng ta chỉ rút lui". Chiến
tranh trên không cũng không nằm ngoài điều đó. Trong các sách vở viết về CTVN của Mỹ, luôn
luôn Mỹ thắng to. Em ví dụ như nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng: 12 ngày đêm thất bại thảm thương
của Mỹ. Mỹ đùng đùng bỏ bàn đàm phán, quay lại ném bom, định bắt chúng ta phải nhượng bộ.
Diễn biến trận đánh thế nào các bác đã bàn nhiều rồi. Quay lại bàn đàm phán, ở cửa phòng họp,
trước mặt đông đảo phóng viên, Kít giơ tay xin bắn tay bác Thọ nhà ta. Bác Thọ nhà ta không
bắt, chửi cho một trận tơi bời khói lửa: rằng là Kít lật lọng sắp ký hiệp định rồi còn quay về đánh
nhau, rằng là nay bị đòn mới quay lại ký. Kit im thít, thua trên chiến trường làm cho hành động lật
lọng trên bàn đàm phán không thể biện lý được. Thế nhưng ngày nay các "tài liệu" Mỹ nói về trận
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms


đó: Mỹ ném bom một trận kinh hoàng, Bắc Việt mất sạch máy bay và đường sắt, đành ngồi vào
bàn đàm phán. Cõ lẽ điều này còn có mức bịa đặt trắng trợn hơn là con số 10:1 của chiến tranh
TT. Ok, vụ freedom of speech tớ đồng ý rằng nó phải bỏ ra ngoài defamation hay lăng mạ trong
môi trường xã hội. Nhưng này nhé, nếu các cậu muốn đem luật xã hội ra mà nói thì tớ cũng chều
luôni. Cái chuyện mà có quyền đặt ra luật lệ cho một chủ đề, nếu có, phải mang tính chung
chung, bao quát nhiều trường hợp. Nên như cậu kqndvn có thể bảo rằng cấm "các thành viên
khác" vào chủ đề của cậu ta để lăng mạ hay sỉ nhục gì đấy thì đúng. Nhưng nếu cậu ta đặt rõ
ràng rằng cấm HP vào đây sỉ nhục hay lăng mạ thì điều đó đã hoàn toàn sai rồi. Cậu ta rõ ràng
đã có trong đầu cái suy nghĩ là HP sẽ vào lăng mạ cậu ta, và cậu ta phổ biến cái suy nghĩ cá
nhân đó cho cả box.
Trong box này có thể có người thích, hoặc có người ghét HP, chẳng thể kêu gọi "quần chúng"
đứng về một phe nào để giúp đẩy cụ thể một ai đó ra, như HP ở đây chẳng hạn. Cái đó có thể
xem là "breach of freedom of speech" hay cả của "freewill" của những người khác đấy. Thêm
nữa, vì chỉ ra rõ đó là HP không được vào lăng mạ, tớ hỏi thật nhe: nếu một thành viên mới vào
chưa rõ HP là ai, ít nhiều HP cũng đóng góp không nhỏ cho box trước đến nay đấy chứ, nhưng
ngay lập tức thành viên mới đó sẽ xếp HP vào loại cá biệt. Điều đó thực tế chẳng đúng chút nào.
Còn tớ hỏi thật cậu kqndvn cái cách chỉ ra cụ thể thành viên nào bị cấm lăng mạ trong chủ đề
của cậu có phải là một cách lăng mạ cụ thể thành viên đó gián tiếp không. Còn những thành viên
khác tỷ dụ như tớ có thể lăng mạ cậu nhỉ.
Tớ có thấy HP lăng mạ cậu kqndvn nhiều, và chẳng hay ho gì, nhưng chẳng vì thế mà cậu
kqndvn sai nguyên tắc chung nhất được, dĩ nhiên là trừ phi cậu muốn cậu như HP hay trả đũa
HP. Cậu kqndvn ở Mỹ chắc biết câu "Sticks and stones may hurt, not words." nên nếu những
điều cậu nói là đúng thì nó sẽ mãi đúng việc gì phải lo chuyện bỏ HP ra ngoài. Và tớ thấy cái câu
gì đại khái "Không thể một người làm còn một người phá được." của cậu khá là chủ quan đấy,
đã chắc gì kẻ ai là phá và ai là làm. Nếu đã không nghĩ rằng điều cậu làm là quan trọng thì việc
gì phải nói câu ấy với cả box để cảnh giới kẻ nào đó có thể phá cậu. Cá nhân cậu nếu có suy
nghĩ đó thì cứ tiếp tục làm đi, việc gì phải hoa mỹ từ ngữ "kẻ làm", "người phá" cho cả box này.
Cậu hairscary nên chú ý rằng tớ chẳng bao đồng để chỉ ra cụ thể rằng cậu kqndvn có dị ứng
hay không với thứ gì đó. Tớ không quan tâm về chuyện đó. Tớ chỉ quan tâm đến chuyện thực thi

freedom of speech mà thôi, bất kể đó là thành viên nào. Tỉ dụ cậu hairscary đem chuyện dị ứng
của cậu kqndvn ra để biện minh cho hành động đúng thì ok, còn nếu biện minh cho cái gì khác
cái đó thì gọi là bao đồng đấy.

Trở lại chuyện kỹ thuật với cậu hairscary, ai chẳng biết cái bảng ấy là chung mọi A-to-A kill
của Mỹ. Nhưng tớ nêu ra để cậu thấy rằng AIM-7 nó chỉ sau AIM-9 thôi trong chiến tranh Việt
Nam. Mà bắn AIM-7 từ 5 km đến 10km trúng, máy bay F- chẳng quần vũ gì cả thì sao gọi là
dogfight. Cho cậu cái định nghĩa dogfight này:

Dogfight thường đề cập đến cận chiến tầm dưới 3km. Dogfight nghĩa là phải đuổi nhau và
quần vũ.
Còn chuyện BVR là thế nào. Có hai định nghĩa cho nó, tương đối và tuyệt đối (usually, referred to
as true BVR). Tuyệt đối nghĩa là ngoài 15nm khai hỏa nghĩa là BVR, bất kể head-on hay không.
Cái này thì phải đến chiến tranh vùng Vịnh lần một mới có tình huống chiến trận thật ngoài 25nm
và được công nhận. Tương đối nghĩa là tiêm kích có thể xác định mục tiêu qua radar hay
phương pháp nào khác và bắn mà không visually identify theo nghĩa thực nhất - bằng mắt, có thể
vì hôm nào thời tiết xấu, không nhìn ra mục tiêu chỉ ở 7km chẳng hạn. Nhưng cái 7km đó chẳng
thể nào là dogfight nhé, chẳng túm lại gì hết nhe , cái đó là BVR tương đối, chẳng thế mà người
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

ta phải dùng chữ true BVR để phân biệt, cậu chỉ nói true BVR, nhưng mấy thứ còn lại chẳng thể
là dogfight cả được.
Nhắc lại tớ nói rằng kỹ thuật BVR được xây dựng từ giai đoạn chiến tranh Việt Nam, điều này
hoàn toàn đúng, cậu hairscary chỉ đem true BVR hiệu quả hay không ngay trong chiến tranh Việt
Nam ra bắt bẻ, tớ không nói điều này, thấy chữ "xây dựng" rõ to của tớ nhe.

ROE thì liên quan đến chuyện visually identify enemy aircraft. Nên trong phạm vi 10km chẳng
hạn phi công F- có thể nhìn thấy một chấm đen đằng xa trong điều kiện thời tiết tốt đấy, nhưng
biết đâu nó thật sự là F- hay MiG- phải vào thật gần để visually identify. Nếu phi công F- từ xa
như thế đã có thể xác định chấm đen đó là MiG- và bắn thì vẫn được chẳng vi phạm ROE gì.
Nhiều tình huống cho phép điều này trong chiến tranh Việt Nam thường là qua chỉ thị radio của
EB-66 (giai đoạn đầu Rolling Thunder) hoặc EC-121 (giai đoạn sau của Rolling Thunder). Nên
tiền đề của BVR là từ đó, vấn đề tầm tên lửa tăng lên dần thể hiện điều đó mà cụ thể đó là AIM-
7, chẳng nhất thiết phải trói buộc cho cái gọi là 15 nm, trời trong xanh, không mây, thời tiết tốt gì
đấy. Nói luôn để cậu biết tớ cũng đọc đoạn 10% của AIM-7 cậu trích trước bài trước rồi,
thế cậu biết tỉ lệ trúng của AIM-9 thời đó là bao nhiêu không, 15-16%, đến gần cuối chiến
tranh cải thiện thì cũng chỉ gần 20%.
Sự chính xác giữa AIM-7 và AIM-9 như vậy cũng là như giữa các loại A-to-A tầm ngắn và tầm
trung/xa thời này. Nên đem cái số 10% đó ra nói Mỹ quay trở lại dạy nhau dogfight của Mỹ cũng
chẳng đúng gì. Mà chương trình Top Gun cũng chỉ cho bọn Navy, không phải bọn AirForce. Rõ
ràng là A-to-A kill ratio của Navy càng về sau càng tốt hơn AirForce, theo tài liệu Mỹ, nhưng cũng
cần chú ý là Navy chủ yếu đụng trận với MiG-17, thường dẫn đến dogfight. Còn AirForce thì
đụng hit-and-run của MiG-21 nhiều hơn. Nhưng cả kill ratio của AirForce, theo tài liệu Mỹ, cũng
tốt hơn trước về cuối chiến tranh do hệ thống điện tử tốt hơn. Cái dẫn chứng 10% gì đó của cậu
họa hoằ lắm là một lý do cho chuyện lắp lại súng cannon cho F-4. Vậy nhe cho cả hai vế của cái
câu phía dưới.
"Tôi không viết rõ rằng vì vũ khí BVR của Mẽo dở nên phải dậy nhau dogfight. Tôi viết rằng Mẽo
tưởng có ưu thế với AIM-7 nhưng cuối cùng thì vẫn phải dậy nhau dogfight."
Còn thì cậu nói đã là Rules thì xây dựng quái gì thì do cậu không hiểu rồi. Vì sao có ROE, vì
không chắc có bắn trúng máy bay địch hay không và yếu tố chính trị liên quan. Chứ nếu xa thế
mà chắc là địch thì cũng cho bắn nốt cậu à. Nên trong quá trình chiến tranh Mỹ nghĩ nhiều cách
để có thể xác nhận máy bay địch từ xa và cho phép tiêm kích nó khai hỏa dù bản thân tiêm kích
đó chưa visually identify địch, những cách xác nhận này có thể qua EB-66 hay EC-121 đấy. Một
trong những cách đó thường là qua phân tích tín hiệu transponder của MiG- hay qua do thám
radio (SIGNINT). BVR của Mỹ phát triển cũng từ đó. Cậu highlight câu tớ viết: "AIM-7 ít khi được
bắn từ ngoài tầm 10km." sao không hightlight nốt câu ngay sau đó nhỉ. ROE là vì tính chính trị

của chiến tranh Việt Nam, chứ liên quan gì chuyện phát triển tên lửa BVR nói chung mà cậu bảo
không phải xây dựng nó ngay từ đầu. Luật lệ nói chung đặt ra vì có lý do của nó, nhưng đồng
thời khi những lý do đó mất hiệu lực của nó thì bỏ luật lệ đó thôi. Gần cuối Rolling Thunder khả
năng IFF của Mỹ tốt hơn, và chuyện visually identify bị bỏ dần. Còn đến LineBacker I và II thì chả
liên quan gì mấy ROE nữa, lúc đó Mỹ "quê" rồi, thứ gì nghi vấn là nó bắn cả, ROE chả còn hiệu
lực gì, ở đây do thay đổi mang tính chính trị .
Còn cậu muốn tớ hầu chuyện cậu về true BVR phát triển từ trong chiến tranh Việt Nam thì cũng
được thôi. Giai đoạn nửa sau 60s và đầu 70s là thời gian Mỹ phát triển AIM-54, thử qua nhiều
máy bay với các loại radar khác nhau, thất bại trên F-111, sau đó chuyển qua AN/AWG-9 trên F-
^=^ §Æng Hoµng H¶i ^=^



Allrights reseved by Rosea
HD300306008 http:// hoanghai.net.ms

14. Giai đoạn 1971-1972, Mỹ có cho mẫu F-14 vào thử radar và tên lửa gần Đồng Hới. Tớ có coi
mấy thước phim đó trên Wings Channel cách đây vài năm.
Nhiều yếu tố hội thành true BVR capability và chúng đều được phát triển từ chiến tranh Việt Nam
là chính, như AWACS, IFF, động cơ và đầu dò tên lửa cho AIM-7, AIM-54, các phương pháp bắn
thụ động theo radar Chỉ đơn cử chuyện tầm của AIM-7E lên đến 30 km thì tớ cũng đã có đủ
mọi dẫn chứng thực tế để nó là BVR rồi, nhưng tớ có thể đồng ý với ý cậu là cái ấy không phải
tầm hiệu quả. Nhưng tớ không đồng ý là BVR chỉ có sau này như cậu nói, nhắc lại là cả dạng
tuyệt đối BVR (true BVR) đều được phát triển từ chiến tranh Việt Nam trong nổ lực của Mỹ nhằm
khắc phục hạn chế của ROE.
Còn chuyện radar của mấy cái máy bay điện tử, cậu giỏi đi tra ra tầm radar nó, nhưng cho tớ hỏi
nhẹ thôi nhe: cậu biết EC-121 dò liên tục được bao nhiêu mục tiêu một lúc không. Cậu đi tra đi
rồi tiếp tục. Nên nói Mỹ có máy bay điện tử bao phủ cả miền Bắc là chỉ nghe theo thông tin tuyên
truyền của chúng nó trước đây ở miền Nam, nếu cậu có một mớ radio signal mà chả phân tích
nhiều mục tiêu được vì máy tính kém mà gọi là "bao phủ" cả miền Bắc thì quả là quá đấy. Trong

cả giai đoạn chiến tranh Việt Nam chỉ một hai lần là EC-121 điều khiển F-4 đến diệt MiG được,
còn lại thì không hiệu quả gì mấy như AWACS bây giờ. Còn nữa như cậu nói đấy máy bay bay
tầm thấp, các thứ đó máy bay điện tử đâu chắc phát hiện ra. Nên nói tầm radar không với tới một
số vùng là đúng mà, chưa kể cả địa hình và thời tiết miền Bắc gây không ít khó khăn cho mấy
máy bay điện tử đó. Nhưng vẫn có thể dò mục tiêu theo SIGNINT hay radar thụ động - thông tin
này thường vụn Còn chuyện sân bay, nhà ta có nhiều sân bay dã chiến bí mật ngoài các sân bay
chính tạo sự bất ngờ, chủ yếu cho MiG-17, còn MiG-21 thì vẫn cần sân bay tiêu chuẩn này nọ,
cái này tớ nghe đích danh phi công ta nói. Ngoài ra, ta còn dùng sân bay dọc biên giới bên Trung
Quốc, đặc biệt là trong giai đoạn LineBacker. Còn ngay cả sân bay ta cũng được bảo vệ với
nhiều lớp phòng không, chẳng dễ gì cho bọn F-4 bay MiGCAP ngay trên sân bay để mà chờ ta
lên đánh đâu. Mà GCI radar cũng giúp ta không dại gì mà cho máy bay ra khỏi bunker của mấy
sân bay mà địch đang oanh kích. Trong chiến tranh chỉ có một vài lần F- lẽn vào gần sân bay mà
radar miền Bắc không phát hiện được, làm thiệt hại vài ba chiếc MiG trong những lần đó (đọc
trong Osprey về MiG-17 và MiG-21). Lúc xuất kích, nếu MiG bay thấp nữa thì đố chúng nhận ra
cho đến lúc MiG tiếp cận gần F- rồi. Đó là chưa kể đầu chiến tranh, ROE không cho đánh SAMs
và sân bay vì sợ chết chuyên gia Nga, Trung Quốc. Mấy cái luật đó bị bỏ dần đầu tiên là với
SAM rồi sau đó là sân bay. Nhưng cũng đủ để chỉ ra là giai đoạn đầu việc dùng tên lửa tầm xa
không mang nhiều ý nghĩa, vậy thôi. Đến giai đoạn cuối thì hệ thống điện tử và AIM-7 Mỹ tốt hơn
rồi có lẽ cũng không cần vào gần sân bay để bắn MiG mới xuất kích.
vặt và phải phân tích và suy đoán, tớ đoán có lẽ đó là ý của HP.
Còn chuyện bài viết HP à, tớ vào đây đọc bài viết bài, tớ đọc nhớ những gì hay thôi, còn
tớ không quan tâm chuyện giọng bài viết của cụ thể thành viên nào. Nên tớ chẳng đánh
giá làm gì, hơi đâu, ai rãnh mà đi đánh giá thành viên khác kiểu bao đồng thế. Khi nào HP
hay (một trong số các) cậu thành vĩ nhân gì gì đó tớ sẽ chú ý hơn. Ngoài ra thì tớ có vài ba
nguyên tắc tớ theo khá sát, như freedom of speech ở đây chẳng hạn.
Còn cậu kqndvn à, tớ đâu nói gì chuyện F-105 không chiến ít đâu nên quyển tớ giới thiệu không
xác đáng cho cái gì gì đó cậu đang quan tâm đâu. Chỉ có điều đoạn đó trong Clashes khen F-105
trơ trẽn quá, không đánh giá đúng nó, đặc biệt đoạn đó lại do một phi công F-4 viết. Cậu khéo thì
cắt nó đi vậy thôi, bê nguyên vào làm giảm giá trị bài cậu đang dịch thôi chứ gì.
Còn cậu kqndvn này, cậu nói là "Luật là luật", nói vậy tốt nhất cậu nghỉ dịch cho rồi, cậu đang vi

phạm bản quyền nghiêm trọng đấy. Mấy kẻ mà photo hay scan sách gốc cả quyển nó xử một, thì
loại mà dịch ra ngôn ngữ khác mang lại giá trị thương mại mới nó xử mười đấy. Tớ nói về
chuyện scan hay photo chẳng ai rình bắt cậu để cậu bớt yếu bóng vía kiểu con gái nhằm đem tư

×