Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đại dương trên thế giới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.97 KB, 12 trang )

Đại dương trên thế giới
Khi nhìn từ khônggian, hành tinh của chúng ralà một khối cầu màu xanh
sáng - một thế giới nước.Thực vậy,có thể nói rằnghành tinh này được đặt tên
hoàn toàn không đúng,vì “đất” rắn chỉ baophủ một phần nhỏ bề mặt của nó.
Đại dương bao phủ 71% địa cầu,gần 362 triệukm2. Hơn nữa, nhữngngọnnúi cao
nhất trên đất sẽ dễ dàng biến mấtnếu bị rơi vào rãnh đại dươngsâu nhất. Không
phải lúc nàocũng vậy.
Nguồn gốc của đại dương
Cách đâykhoảng 4 tỉ năm, bề mặt Tráiđấtnóngđến nỗi nước bị bay hơikhitiếp
xúc. Mặc dù bề mặt của hànhtinh trẻ này khôráo,nhưng bầu khí quyển của nó
tràn đầy hơi nước núi lửa và bụi.
Lớp vỏ mây dày đặc này bảo vệ Tráiđất khỏi ánhnắng Mặttrời, và giúp làmlạnh
nó. Khi nhiệt độ hạ xuống,hơi nước vàbụi trong bầu khí quyển bắt đầutích tụ lại
thành mưa. Trậnmưa như trút nướcsau đó kéo dài trong hàng ngàn năm.
Khi các đám mây nàyrốt cục cũngphân tán ra, Trái đất bị biến đổi thành mộtthể
cầu có màu xanhóngánh.Một đại dương khổnglồ bao phủ toànbộ hành tinh. Bên
trên bề mặt đại dươnglàđỉnhcủa nhữngngọn núi cao nhất - nhữnghòn đảo đầu
tiên củathế giới.
Đại dương bansơ củaTrái đất hầu như không cómuối.Chỉ sau đó,saukhicác lục
địa hìnhthành, thì mưa và sóng mới cuốn muốivà khoáng từ đấtliền ra biển. Sự
rửa muối dần của các lục địa làmtăng lượngmuối biển cho đến khinóđạtđến
mức như ngày nay.
Sau hàngtrăm triệu năm, các lục địatrồi lên định hình như hình dạng ngàynay -
chiabiển nguyên thủy của Trái đấtra thành ba đại dương chính:Đại Tây Dương,
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, biển Đại Tây Dương - được các nhà
hải dương học xemlà một vùng biển nằm bên mép củaĐại Tây Dương -thường
nânglên đếnvị thế đại dương.
Mặc dù các đại dương cóđặc tính khác biệtnhau,nhưng tất cả đều liên kết với
nhau. Mỗi đại dương chứanhiều phầnnhỏ hơn, gọilà biển,biển đôi khitách rời
khỏi đại dươngbao la bởi một khehở hẹp gọi là eo biển. Biển Địa Trung Hải và
biển Caribbea là haitrong số những biển nổitiếng nhất trên thế giới(có tổngcộng


70 biển). Các vịnh và eo hẹp là những phần nhỏ của đại dương,tiếp giáp với đất
liền.
Thái Bình Dương
Nhà khám phá người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đặt tên cho đại dương
lớn nhất thế giới là “El Pacifico”, có nghĩa là “đại dương yên bình”. Nhưng ấn
tượng đầu tiên của Magellan là một ấn tượng sai lầm.
Các thủy thủ sauđó phát hiện ra rằng Thái Bình Dương hình thành nhiều cơn bão
mạnhnhất và những ngọn sóng cao nhất trênthế giới.
Biển Thái Bình Dương làmột khốinước lớn nhất vàsâu nhất trênthế giới. Kéo dài
gần như là một nửađịa cầu, nó bao phủ gần như là 180 triệu km2 -gần bằng kích
thước củaĐại Tây Dương và Ấn Độ Dươngcộng lại.
Đáy biển Thái BìnhDương,có độ sâutrung bình4.000m, được các rãnh bao quanh.
Rãnh sâu nhất,rãnh Mariana, sâu 10.924m.Khi so sánhthì ngọnnúi Everest- ngọn
núi cao nhất thế giới - chỉ cao hơn8.845mtrên mực nướcbiển.
ĐáyBiển TháiBình Dương có thể được chiathành ba vùng chính.Vùng phía Đông
tải dài dọctheo bờ biển phía tây củaMỹ, từ Alaskađến TierradelFuego. Ở mặt này
của Thái Bình Dương, đáy biển cạn, hay “thềm lụcđịa”, thì hẹp và dốcxuốngvào
một rãnhbiển sâu.
Vùng Trung TháiBìnhDương là một vùngbằng phẳng, rộng, có độ sâu lớn, khoảng
4.600m. Vùngphía Tây Thái BìnhDươngbị các rãnhsâu cắt ngangqua vàđược các
ngọn núi lửa ngầm kếtquanh. Mộtsố ngọn núi này vươntới bề mặt, hình thành
những chuỗi và cụmđảo.
Phần lớn Thái Bình Dươngđều cókhí hậu ổnđịnh và nhữngcơn gió mậudịchđều
đặn. Nhưng những cơn bãolớn,gọi là bãonhiệt đới, xuất hiệntại phía tây Thái
Bình Dương. Phía tây Thái Bình Dươngcũngtrải qua nhữngcơngió mùa lớn, hay
nhữngcơn gió có mưa. Thời tiếttại Bắc Thái BìnhDương đặc biệt có thể dễ thay
đổivà khắc nghiệt. Tệ nhất là ngoài khơi biển Siberia.
Biển Thái Bình Dương cónguồntài nguyên thiên nhiênphong phú.Ngành công
nghiệp đánh bắtcủa nó đápứng 3/5 nhucầu củathế giới,đặc biệt cónhiều cáhồi
và cángừ. Muối, magnesium,cát, và sỏi được khaitháctừ những vùngven biển

Thái BìnhDương.Thái BìnhDương cũng được tận dụngnhư mộtbãi rác thải lớn.
Mặcdù tổng thể Thái Bình Dương có thể hấp thụ và làm loãng phần lớnchất thải,
nhưng một số vùng biển nhỏ hơn vàcácvùng địa phương ngày càng bị ô nhiễm.
Tạinhiều nơi, sự ô nhiễm phần lớn làm giảm đi tổn hại đến mật độ cá và loài giáp
xác một thời cógiá trị.
Vùng cựcbắc của Thái BìnhDương là biển Bering. Ở đó, Thái BìnhDương tiếpxúc
với biển Bắc Cực quaeo biển Bering,mộtcon đường hẹpnơi mà Alaskavà Siberia
chỉ cáchnhaucó vài dặm. Mặc dù khôngnằm xahơn về phía bắc so với nướcAnh,
nhưng biển Beringlại có khíhậu khắcnghiệt vàcó tiếng là nguy hiểm đối với các
thủy thủ.
Biển Beringrấtphong phú về cá vàđời sốnghoang dã khác, mặc dù việc đánhbắt
cá quá mức làm giảm đitrầm trọng mật độ cá. Nhữnghòn đảo của biển Beringlà
nhữngvùng đấtsinh sinhsống của hải cẩu vàrái cá, cùngnhiều loài cá heolàm
thức ăncho chúng trongsuốtmùa hè.
Một vùng biểnquantrọng khác của Thái BìnhDương là biển Nhật Bản. Các khối
nướcấm của nótạo ra mộtkhí hậu ônhòa choNhật Bản, và cung cấp mộtnguồn cá
và khoáng phongphú.
Đại Tây Dương
Các khối nước của Biển Thái Bình Dương trộn lẫn vào các khối nước của
Biển Đại Tây Dương giữa Nam Cực và đỉnh của Nam Mỹ. Biển Đại Tây Dương,
hẹp và cong, nhỏ chưa bằng một nửa kích thước của Thái Bình Dương.
Nó chỉ rộng 2.848kmtại eo hẹp nhất của nó,giữa Brazil vàLiberia. Tại eo rộng
nhất,phía nam châu Phi, nó trải dài khoảng 4.800km.Tuynhiên, chiều rộng của nó
trải dài rakhoảng 2,5cm mộtnăm, do hiện tượng gọilà sự dịchchuyển của lụcđịa.
(Xem mục “Sự dịch chuyển của lục địavà Kiến tạođịa tầng” trongtập “Khoa học
địa chất”).
Đại Tây Dương có độ sâu trungbình là 3.500m, và đâm sâu đến độ sâucực đại là
8.387mtại một rãnh phíabắc PeurtoRico. Đặc điểm đặc trưngnhất của đáy Biển
Đại Tây Dương là Dãy NúiTrung Đại Tây Dương, một vùngnúi rộng và gồ ghề trải
dài từ Bắc Cực đến ẤnĐộ Dương.

Mặc dùnhỏ hơnThái Bình Dương,nhưng Đại Tây Dươngnhận được lượng nước
ngọt nhiều hơn. Tấtcả các lục địa lớn nghiêng về hướng Đại Tây Dương vàcác con
sông của chúngtrút ra lưuvực củanó.Bắc Đại Tây Dương có nhiều đảo, mặc dù
khônghình thànhnhững chuỗi rộng lớn như ở Thái BìnhDương.
Nằm trên vĩ độ 30 độ bắc, Đại Tây Dương bị những cơn gió cao vùidập, và được
các khối không khí lạnh từ Canada vàBắc Cực làm lạnhlên. Những vùngthấp hơn
của Bắc Đại Tây Dương cóxuhướngkhôngcó bão - trừ nhữngcơn cuồngphong.
Cuồng phong thường pháttriển gầnđườngxích đạo vàocuối mùa hèvà đầu mùa
thu. Giống như mộtcơn gióxoáy khổng lồ, một cơn cuồngphong cóthể di chuyển
ngang qua ĐạiTây Dương trong hơnmột tuần, trút xuống các hòn đảovà những
vùng venbiển ngập lượng mưa lớn.
Đạidươngcủa NamĐại Tây Dương hầu như không rộng lớn. Giống như Bắc Đại
Tây Dương, nóphát triển dần thành bão tạinhững vùng thấp hơn (gần các cực
hơn).
Các dòng chảy thịnh hànhcó xu hướngquay theochiều kimđồnghồ quanh lưu
vực BắcĐại Tây Dương, và ngược chiều kim đồnghồ tại Nam Đại Tây Dương.Vịnh
Stream,chạy lên phía biển ĐôngcủaHoa Kỳ, là một trongnhữngdòng chảy nổi
tiếngnhất của Đại Tây Dương.Nước ấm tại vịnh Streamkhác biệt đếnnỗi nó gần
như là một con sông màu xanh dương chảy qua một đại dương có màu xanhlá khi
nhìn từ không gian.
Đại TâyDương rấtphong phú về cá. Sự dâng lên lớn củakhối nướcgiàu dinh
dưỡngtừ sâu bên dưới nó là điều kiệntốt cho sinhvật phùdu và tảo biển sinhsôi
nảy nở, làm thứcăncho mật độ cá và loài giáp sát. Về mặt lịch sử, Đại Tây Dương là
vùng đánhbắt lớn trên thế giới, những việc đánh bắt quá mức đã gây ra thiệt hại:
Đại TâyDương bây giờ chỉ cungcấp 1/3nhucầu đánh bắt trên thế giới.
Các thềm venbiển của Đại Tây Dươngcũng chứa một lượng khổnglồ dầu và khí
thiên nhiên. Các trầm tíchphong phúđược tìm thấytại vịnh Mexico, ngoài khơi
biển phíađông của Canada, tại BiểnBắc, và ngoài khơibiển phíatrung tây của
châu Phi.
Các biển lớn của Đại Tây Dương gồmcó biển Baltic của châu Âu- có khối nước lợ,

hay hơimặn, lớnnhất trên thế giới. Nối Baltic với Đại Tây Dươngrộng lớn hơn là
biển Bắc - một trong nhữngvùng đánh bắt quantrọng nhấtcủa châu Âu.
Về phía nam,BiểnĐịaTrung Hải, được nối với Đại Tây Dương rộnglớn hơnbởi eo
biển hẹp của Gibraltar,chia cắt châu Âura khỏi châu Phi.(Từ “Địa Trung Hải” là
mộ thuật ngữ Latin,có nghĩalà“biển ở giữa Trái đất”, người HyLạp vàLa Mã cổ
đại tin là như vậy). Tại Bán Cầu Tây là biển Caribbea và quầnđảo của vùngTây Ấn.
Bắc Đại TâyDương cũng có nhiều đảo.
Ấn Độ Dương
Ấn Độ Dương là vùng nước lớn thứ ba trên thế giới, bao phủ khoảng 74 triệu
km2 tại độ sâu trung bình là 3.890m.
Về hướng tây, biển ẤnĐộ Dương hợp lưu với vùng phía namĐại TâyDương của
châu Phi,và về hướng đông thìnó hòa vào Thái Bình Dương ở phíatrên và dưới
nướcÚc.
Với 36 triệu năm tuổi, Biển Ấn Độ Dương làđại dương trẻ nhất trên thế giới. Hình
dạng hiệnthời của nó hình thành bởi sự tanrã của các siêu lục địacổ của
Gondwanaland. Đáy đại dươngcủa nó vẫn tiếp tụctrải dài tại nhiềunơi.
Địa hình dưới biển của biểnẤn Độ Dươngcó những dãy núi lửagồ ghề, còn hoạt
động. Những dãynúi này có hình dạng chữ “Y” ngược, với đỉnh trên tại Biển
Aradian, còn hai nhánh của nó tuần tự trảidài bên dưới châu Phivà Úc.
Biển Ấn Độ Dươngcó nhiều núi lửa ngầm đã tắt,gọi là núi đáy biển,đỉnh tròn của
những ngọn núi này trồilên hơn 925mtrên đồngbằng đại dương.Một nétđặc
trưng cố hữu về địa lý ngầm của đại dương nàylà sự tồn tại củanhững hẻm núi
ngầm khổng lồ tạithềm lục địa.
Vài đảo của Ấn Độ Dương gồm có Madagascar,hòn đảo lớn thứ 4 thế giới; Sri
Lanka;và Seychelles.
Các dòng chảy thịnh hànhcủaẤn Độ Dươngthì phứctạp và phần lớnbị ảnh hưởng
bởi nhữngcơn giómùacó mưalớn và độc hại. Giómùa- có tốcđộ gió lên đến
45km/h - xuất hiện tại phía bắc, tại biển Arabian,và tại vịnhBengal.Từ khoảng
tháng 4 đến tháng 10,gió mùa thổi đếntừ hướng tây nam - cuốncác khối nước của
Ấn Độ Dươngnhìn chung làtheo hướngngượcchiều kim đồng hồ.Những tháng

còn lại trong năm,chúng thổi từ phía đông bắc, và do đó đảo nghịch dòng chảy.
Phần phía bắc củaẤn Độ Dương cũngphải chịu ảnh hưởng của gió xoáy - những
cơn gióxoáy hình thành trên khắpđại dương baola và thường di chuyểnvề hướng
tâyđến khi chúng quét vào đất liền bằnglực phá hủy ghê gớm.
Những cơn gió mậu dịch đông bắc đều đặn thịnh hànhtại phầntrung tâmcủa Ấn
Độ Dương. Xahơnvề phía nam, những cơn gió này trở nên nhẹ đi và biến đổi. Dần
dần, gầncác khối nước lạnh của cận cực namhơn, những cơngió tây này thường
đạt đến lựcbão.
Ấn Độ Dương có tầm quan trọng về mặt kinh tế. Nó có vùng sảnxuất dầu lớn nhất
trên thế giới - vịnh Persia- cũngnhư biểnArabiavà vịnhBengal, cólượng dầu
khổnglổ nằm bêndưới chúng.
Sự phongphú về đời sốngbiển của Ấn Độ Dương một phần là do sự nâng lênvới
quy mô lớn các khối nước giàu chấtdinhdưỡngmànhững cơn gió mùa đem lại.
Một số lượnglớn cá vàsinh vật giáp sát thuhútcác hạmđội đánh bắt cátừ Nhật
Bản,Nga, và nhữngnơi khác đến vùng này để khai thác tôm, cá chỉ vàng,cá ngừ,và
một loài giống cá ngừ khác gọi là cá chim.
Trong50 năm qua, con người bắt đầu đe dọa đến sức khỏe của Ấn Độ Dương. Các
thành phố và nhữngcôngty gần bờ biển thải ramột lượng lớn chất thải vào nước
biển. Mộtnguồn ônhiễm nghiêm trọngkhác là dầu thôđổ vào từ đượcchuyển
ngang qua đại dương. Sự tràn dầu từ những con tàuchở dầu và các trạm khoan
xuấthiện thường xuyên,vàđôi khi tác động thảm hạiđếnđời sống biển.
Đại Dương Bắc Cực
Như đã đề cập trướcđây, cácchuyên giakhông hoàn toàn đồngý với nhau về tình
trạng đại dương của Đại Dương Bắc Cực.
Tuy nhiên khôngcó một thắc mắc nào về việc biển Bắc Cực gần như chưađược
khámphávà tìmhiểu.điều này có thể thay đổi trong nhữngnăm tới đây, khi các
nhà khoahọc nhận thức được tầm quan trọng cựckỳ của Đại Dương BắcCực.
Hiện nay xemracác khối nướclạnh chảy ra ngoài Bắc Cực phầnlớn có ảnh hưởng
đến khíhậu trênkhắp thế giới. Vớimối đedọa từ sự ấm lên toàn cầu, các nhà khoa
học đặcbiệt quan tâm đến bất cứ sự tanchảy nào của vỏ băng trên Đại DươngBắc

Cực.
Một sự tanchảy như vậy có thể gâyra sự thayđổi khí hậu thậmchí còn lớnhơn
quaviệc làm biếnđổi các dòng chảy lạnh, khiến chúngchảy ra khỏi BắcCực và
bằng cách làm tăng lượng ánh sáng mặt trời phản chiếu ra khỏi các chỏm băng.
Về kích thước vật lý, Đại Dương Bắc Cực chỉ rộng14triệu km2;so với Ấn Độ
Dương thì nó nhỏ hơn gấp 6 lần. Các khối nước của Bắc Cựctrung bìnhchỉ sâu từ
900 đến 1.200m.Tuy nhiên, đáy của Đại Dương Bắc Cực khá phức tạp, nó được
chia thành hai lưuvực sâu, bị các rặngnúi, hay dãy núi ngầm cắt chéo qua.
Gần 1/3 Bắc Cựcnằm trên thềm lục địa. Vùng thềm này đặc biệt rộng và cạn - một
sự mở rộng củacác bờ biển phía bắc củaBắc Mỹ. Greenland, và Eurasia, bao quanh
Đại DươngBắc Cựctrên tất cả các mặt.
Các dòng chảy của Đại Dương Bắc Cực không được tìm hiểu nhiều vàchắc chắn là
phức tạp,cho đại dương một vị trí độcnhất là nằm tại đỉnh của địa cầu. Nói chung,
các khối nước của nólưuthông quanh cựctheo chiều kimđồng hồ. Một số đảo
băngtrôi của Bắc Cực dichuyển xungquanh thành mộtvòng tròn hoàn chỉnh cứ
mỗi10 năm hoặc khoảng đó.
Trêntọa độ 75độ vĩ bắc, Đại DươngBắc Cựcbị băngbao phủ quanhnăm. Giữa tọa
độ 60 và 75 độ vĩ bắc, băng biểntách ra thành nhữngtảng băng thường trôi về
hướngnam vàomùa hè. Băngbiển mớihiếmkhi hình thành trong đại dươngbao
la dưới tọa độ 60độ vĩ bắc.
Các Đại Dương của ngày mai
Vào năm1971, nhàkhám phá biển vĩ đại Thor Heyerdahl tránh khôngnhúngcây
bàn chảiđánh răng của mình vào giữa Đại TâyDương - donước biển bị ô nhiễm rõ
ràng. Từ đó cứ mỗi năm, hàng triệutấn chất thải, thuốc trừ sâu và các loại chất hóa
học khác đượcđổ rađại dương.
Các luậtđịnh bảo vệ đại dương được ban hành kể từ năm 1899, khichính phủ Hoa
Kỳ coi việc thải chất độchại trong ngành công nghiệp rabiển là bất hợp pháp. Tuy
nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng đại dươngvà cácsinhvật sốngcủa nó vẫn cònbị
đe doạ do sự ônhiễm liêntục, khaithác quá mức, và donhữngthay đổi của thời
tiết.

HoaKỳ và các tổ chức quốc tế khác tiếp tục chútrọng đến nhữngvấnđề này bằng
cách khuyến khích cácquốc gia riêng biệt hành động một cách có trách nhiệm.Một
số tin rằng có sự tiến triển, rằng ít nhất thì sự ônhiễm ở mứccó thể nhìn thấy đã
giảm đi. Nhưng mức độ độc hại tiềm tàngcủa các kim loại nặng và những chất độc
hại khác vẫn có thể đượctìmthấy trong cá biểnkhi nằm trên bàn ăn củachúng ta.
Ngoài các luật bảo vệ ra, các chuyên gia còn đồng ý rằng cầnphải nghiên cứukỹ
càng hơn về việccác đại dương “đương đầu” với sự xâm lấn của conngười và
những thay đổi như thế nào. Chắc chắn là cácđại dươngđều có khả năng tự làm
sạch. Nhưng vẫn không rõlà hàng đốngrácthải và chất gâyô nhiễm điđâua

×