Điều trị bệnh tự miễn
Thường các bệnh tự miễn là bệnh mạn tính cần theo dõi và chăm sóc cả đời, ngay
cả khi bệnh nhân có vẻ còn khỏe. Hiện nay đã điều trị được một số bệnh tự miễn
hoặc bệnh ‘biến mất’ nhờ điều trị. Tuy vậy nhiều người mắc bệnh có thể sống
cuộc sống bình thường khi được chăm sóc sức khỏe phù hợp.
Trong phần lớn các trường hợp bác sĩ sẽ giúp bệnh nhân quản lý các hậu quả do
hiện tụợng viêm mà bệnh tự miễn mang lại. Ví dụ, người mắc bệnh đái tháo đường
type 1 sẽ được bác sĩ kê toa insulin nhằm kiểm soát nồng độ đường huyết để mức
độ tăng đường huyết không gây tổn thương thận, mắt, mạch máu và thần kinh.
Tuy nhiên mục tiêu các nghiên cứu khoa học hướng đến là phòng ngừa hiện tượng
viêm không phá hủy các tế bào chế tiết ra insulin của tụy, là chất thiết yếu để kiểm
soát đường huyết.Mặt khác thuốc uống cũng làm chậm hay ngăn chặn sự phá huỷ
thận, khớp của hệ miễn dịch trong một số bệnh lý như lupus hay viêm khớp dạng
thấp.
Thuốc hay các liệu pháp điều trị làm chậm lại hoặc ức chế đáp ứng viêm trong cố
gắng chặn đứng hiện tượng viêm do các tấn công tự miễn được gọi là thuốc ức chế
miễn dịch. Các thuốc này gồm có corticosteroids (prednisone), methotrexate,
cyclophosphamide, azathioprine, và cyclosporin. Đáng buồn là các thuốc này cũng
ức chế luôn khả năng chống nhiễm khuẩn của hệ miễn dịch và có khả năng gây ra
các phản ứng phụ nghiêm trọng khác. Ở một số người, chỉ cần một lượng thuốc ức
chế miễn dịch giới hạn là có thể giúp lui bệnh. Lui bệnh là thuận ngữ chỉ giai đoạn
‘bệnh biến mất’ trong một thời gian đáng kể. Ngay cả khi đã bước vào giai đoạn
lui bệnh thì bệnh nhân cũng cần phải uống thuốc liên tục.
Khả năng tái phát bệnh khi ngưng thuốc cũng tương đương với các phản ứng phụ
do sử dụng thuốc ức chế miễm dịch dài ngày mang lại. Mục tiêu chăm sóc bệnh tự
miễn hiện tại là tìm ra các biện pháp điều trị giúp lui bệnh mà ít tác dụng phụ hơn.
Hầu như nghiên cứu tập trung khám phá các biện pháp điều trị nhắm đến các bước
trong đáp ứng miễn dịch. Các hướng tiếp cận mới như điều trị kháng thể chống lại
phân tử tế bào T đặc hiệu có thể sẽ ít gây ra phản ứng phụ dài hạn hơn là các biện
pháp điều trị thường qui đang được sử dụng.Nói cho cùng, các nhà khoa học đang
cố gắng để thiết kế các biện pháp điều trị giúp phòng ngừa bệnh tự miễn.
Cho đến thời điểu này các nhà khoa học đã bỏ ra một lượng lớn thời gian và nguồn
lực để nghiên cứu về hệ miễn dịch và con đường của hiện tượng viêm.Một số bệnh
tự miễn điển hìnhViêm khớp dạng thấp Ở người mắc bệnh viêm khớp dạng thấp
hệ tự miễn có ưu thế tấn công lớp màng lót (bao hoạt dịch) của các khớp trong cơ
thể. Bao hoạt dịch thường bị viêm theo hệ thống (thường đối xứng hai bên cơ thể)
gây đau, sưng, cứng khớp. Các đặc điểm này giúp phân biệt bệnh viêm khớp dạng
thấp với bệnh viêm xương khớp, là bệnh thường gặp hơn và gây viêm khớp thoái
hóa (mặc và xé ra).
Một khớp viêm – bao hoạt dịch – bị các tế bào và phân tử hệ miễn dịch tấn công
Xương
Bao khớp
Bao hoạt dịch bình thường
Các tế bào miển dịch gây viêm
Sụn khớp bình thường
Bao hoạt dịch bị phân hủy và tăng sinh
Sụn bị ăn mòn
Các biện pháp điều trị hiện tại hướng đến giảm viêm khớp bằng thuốc kháng viêm
và ức chế miễn dịch. Đôi khi hệ miễn dịch cũng tấn công phổi, mạch máu, mắt nên
thình thoảng bệnh nhân cũng có thể có các triệu chứng của các bệnh tự miễn khác
như hiện tượng viêm, ngứa, hóa vẩy Sjogren. Trong các trường hợp nặng cần phải
sử dụng thuốc uống. Bệnh vẩy nến thường gặp trên 2 người trong số 100 người
Mỹ. Bệnh vẩy nến thường có khuynh hướng gia đình.
Xơ cứng rải rác
Xơ cứng rải rác là bệnh lý trong đó hệ tự miễn tấn công các mô thần kinh của hệ
thần kinh trung ương. Trong đa số trường hợp bệnh biểu hiện từng giai đoạn cho
phép người bệnh có thể sinh hoạt gần như bình thường. Một thái cực khác của
bệnh là các triệu chứng gặp thường xuyên gây nên bệnh lý tiến triển có khả năng
gây mù, liệt và tử vong tiền trưởng thành. Một số thuốc hữu ích cho người bệnh xơ
cứng rải rác thể gián đoạn như beta interferon.Ở người trẻ, xơ cứng bì là bệnh lý
thường gây tàn tật nhất của hệ thần kinh trung ương. Bệnh xơ cứng bì có tác động
đến 1/700 người tại Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm các yếu tố
gây khởi phát bệnh. Bệnh đái tháo đường type 1 hay đái tháo đường liên quan
miễn dịch.
Tụy
Tế bào tiểu đảo
Đái tháo đường type làm phá hủy các tế bào sản xuất insulin của tụy. Insulin là
chất thiết yếu giúp cơ thể giữ mức đường huyết trong giới hạn kiểm soát được.
Đường huyết cao là triệu chứng và cũng là biến chứng của bệnh này.
Tuy nhiên, hầu hết các tế bào sản xuất insulin bị phá hủy trước khi cáctriệu chứng
của bệnh xuất hiện. Các triệu chứng của bệnh thường gặp là mệt, tiểu nhiều lần,
khát nước nhiều, ngất đột ngột. Đái tháo đường type 1 thường được chẩn đoán
trước 30 tuổi, và có thể được chẩn đoán sớm trong tháng đầu sau sanh. Cùng với
bệnh đái tháp đường type 2 (không được xem là bệnh tự miễn), đái tháo đường
type 1 là nguyên nhân hàng đầu làm tổn thương thận, giảm thị trường, đoạn chi.
Kiểm soát đường huyết chặt chẽ làm giảm tần số các biến cố trên.
Đái tháo đường type 1 có khuynh hướng di truyền, chiêm tỉ lệ 1/800 người tại Hoa
Kỳ. Trong số những người có liên hệ gần với bệnh đái tháo đường type 1 cần xác
định những người có nguy cơ mắc bệnh cao. Hiện nay các nỗ lực đang ở mức
đánh giá các chiến lược phòng ngừa mắc bệnh cho các thành viên trong gia đình
có nguy cơ.
Các bệnh viêm ruột
Thuật ngữ này được sử dụng chung cho cả bệnh Cohn và bệnh viêm loét đại tràng
là hai bệnh lý miễn dịch tấn công ruột. Bệnh nhân có thể bị tiêu chảy, buồn nôn,
nôn, co thắt vùng bụng, đau khó kiểm soát. Cả chứng viêm ruột lẫn các tác dụng
phụ của thuốc được dùng điều trị bệnh này đều khiến bệnh nhân mệt thêm. Ví dụ
như điều trị bằng corticosteroid (prednisone) liều cao mỗi ngày để kiểm soát các
triệu chứng của bệnh Cohn có thể khiến bệnh nhân bị nhiễm trùng, mỏng xương
(hủy xương), gãy xương. Đối với bệnh nhân viêm loét đại tràng, phẫu thuật cắt đi
đọan đại tràng bên dưới giúp chữa bệnh và giảm nguy cơ ung thư đại tràng. Hơn
1/500 người Mỹ mắc các dạng của bệnh lý viêm ruột.
Lupus ban đỏ hệ thống
Ánh nắng là một trong những yếu tố khởi phát và làm nặng thêm diễn tiến bệnh
lupus
Bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống thường bị mệt, hồng ban, đau khớp. Trong các
trường hợp nặng, hệ miễn dịch có thể tấn công và gây phá hủy một số cơ quan như
thận, não, phổi. Ở một số người có thể kiểm soát các triệu chứng và các tổn
thương bệnh nhờ các thuốc kháng viêm. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không được
theo dõi sát thì các biến chứng do thuốc mang đến lại khá nghiêm trọng. Lupus
ảnh hưởng 1/2000 người Mỹ và số đông trong đó 1/250 là phụ nữ Phi – Mỹ còn
trẻ.
Bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến là một bệnh tử miễn ảnh hưởng đến da, thình thoảng gặp ở mắt,
móng tay, chân và khớp. Bệnh vẩy nến tác động đến một phần da nhỏ hay chiến
toàn boệ cơ thể bằng các vẩy đó chồng lên nhau được gọi là mảng. Các mảng có
kích thước, hình dạng, độ nhả cảm khác nhau.Các mảng này có thể bị đau cũng
như khó nhìn. Nhiễm khuẩn, áp lực hay chấn thương vùng da có thể làm bệnh vẩy
nến nặng thêm. Hầu hết các biện pháp điều trị hiện tại nhắm đến chăm sóc da tại
chỗ để giảm viêm, ngứa và hóa vẩy. Trong các trường hợp nặng có thể cần phải
dùng thuốc đường uống. Bệnh vẩy nến thường gặp, tại Hoa Kỳ cứ trên 100 người
có hơn 2 người mắc phải. Bệnh vẩy nến thường có tính gia đình.
Xơ cứng bì
Loại bệnh tự miễn này là sừng hóa da và các mạch máu. Hầu hết bệnh nhân xơ
cứng bì mắc chứng Raynaud là chứng co thắt mạch máy ngón tay, ngón chân. Các
triệu chứng của hội chứng Raynaud gồm có tăng nhạy cảm của ngón tay và ngón
chân với lạnh, thay đổi màu sắc da, đau và thường có loét đầu ngón tay, ngón
chân. Người bị bệnh xơ cứng bì có da và mạch máu dày hóa gây mất vận động,
hơi thở ngắn, trong một số trường hợp hiến gặp có thể bị suy thận, tim, phổi. Ước
lượng số người mắc bệnh xơ cứng bì thay đổi ở nhiều nhiều nghiên cứu khác
nhau, nhưng dao động trong khoảng 1-4 người mắc trong mỗi 10.000 người Hoa
Kỳ (hay tỉ số có thể lên đến 1/2500)
Bệnh tuyến giáp tự miễn
Viêm giáp Hashimoto và bệnh Grave là hậu quả của sự phá hủy hệ miễn dịch hay
kích thích mô tuyến giáp. Các triệu chứng thiểu năng (hypo) hay cường năng
(hyper) tuyến giáp thường không đặc trưng, tiến triển chậm chạp hay đột ngột gồm
có mệt, lo lắng, chịu được lạnh hoặc nóng, yếu người, thay đổi số lượng hay độ
mượt của tóc, tăng cân hoặc sụt cân. Chẩn đoán bệnh tuyến giáp thường dễ dàng
nhờ các xét nghiệm phù hợp. Mắt – Não – Cơ – Tóc – Xương - Tuyến giáp – Tim
.