"Thương cổ luận" - Một chỉ
dấu trên con đường duy tân
đầu thế kỉ XX
Tuy chỉ hoạt động trong khoảng 5 năm (1904-1908) rồi bị thực dân
Pháp đàn áp, nhưng phong trào Duy Tân đã tạo được ảnh hưởng rộng lớn
khắp đất nước, và những dư âm của nó vẫn còn vang tới tận ngày nay.
Trong những thời điểm đặc biệt của hiện tại, mỗi khi đứng trước cơ hội và
thách thức mới, người ta vẫn không ngừng phân tích, so sánh, đánh giá về
phong trào Duy Tân và các lãnh tụ của nó, cũng như những bài học quý giá
mà nó để lại
(1)
. Và để có được thành công trong quãng thời gian ngắn ngủi
đó, những tiền đề đã được tạo dựng trước đó gần một thế kỷ.
Con đường canh tân thực chất đã được khai mở từ giữa thế kỷ XIX
bởi nhiều trí thức Nho học có tư tưởng tiến bộ như Lý Văn Phức, Phan Huy
Chú, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ
Trạch Những người này, do công việc (đi theo các phái bộ ngoại giao)
hoặc do du học, may mắn được ra nước ngoài. Một thế giới khác mở ra làm
họ choáng váng. Các nước phương Tây như Pháp, Tây Ban Nha phô diễn
sức mạnh gần như không tưởng của kỹ nghệ và sự giàu có vật chất, còn
các nước phương Đông như Nhật Bản, Cao Ly lại phô diễn sức mạnh của ý
chí tự trị tự cường và thành quả tốt đẹp của việc mở cửa giao thương với
phương Tây. Chính vì thế, khi trở về nước, họ đã trình bày những điều
“thực mục sở thị” hoặc các ý tưởng canh tân của mình bằng nhiều hình
thức khác nhau, như Nguyễn Trường Tộ đã trình lên vua Tự Đức hàng
chục bản điều trần, hoặc Lý Văn Phức với tập ghi chép Tây hành kiến văn
kỷ lược
(2)
, Phan Huy Chú với Hải trình chí lược
(3)
, Phạm Phú Thứ với tập
nhật ký giới thiệu những kỳ tích của nền văn minh Tây phương trong hành
trình tới Pháp và Tây Ban Nha của phái bộ Phan Thanh Giản năm 1863 mà
ông là một thành viên
(4)
, Nguyễn Lộ Trạch với Thiên hạ đại thế luận
(5)
,
hoặc bắt tay vào thực hiện, biến các ý tưởng ấy thành công việc cụ thể,
như Đặng Huy Trứ (mở nhiều hiệu buôn ở Hà Nội, động viên sĩ phu mở
đồn điền vừa sản xuất nông nghiệp vừa luyện quân, xuất khẩu thiếc ra
nước ngoài; đồng thời cho thành lập và quản lý Ty Bình Chuẩn là cơ quan
chuyên lo việc kinh doanh của triều đình ở Hà Nội); “ trong hơn 1 năm cai
quản việc kinh doanh đó, Đặng Huy Trứ đã làm lợi cho triều đình hàng ngàn
lạng bạc”
(6)
. Tuy nhiên, họ đã không thực sự thành công. Bởi vì, hoặc là họ
đã đi quá xa trong hoàn cảnh triều đình nhà Nguyễn vẫn còn khư khư chính
sách “bế quan tỏa cảng”; hoặc những ý tưởng canh tân mới mẻ và táo bạo
ấy đã vấp phải những quan niệm cực kỳ bảo thủ từ trong chính tầng lớp
được xem là rường cột của đất nước. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Siêu (1799-
1872) cho rằng “Trong việc vi chính, binh lương chỉ cần làm thế nào cho đủ
là được, chứ không cần phải làm cho giàu mạnh”
(7)
, hoặc Nguyễn Xuân Ôn
(1825-1889): “nếu nói dùng tàu thủy để buôn bán, làm cho nước giàu, thì từ
xưa chăm nghề nông, trọng lúa gạo đều có thể làm giàu cho nước, chưa
từng nghe lấy việc buôn bán làm giàu bao giờ”
(8)
. Bên cạnh đó, thái độ coi
thường nghề buôn bán và khinh miệt tầng lớp thương nhân đã vô hình
trung đóng nốt cánh cửa còn lại trước những cố gắng của họ, và làm nản
lòng các phái bộ nước ngoài đến tìm kiếm cơ hội đặt quan hệ giao thương
với triều đình nhà Nguyễn (chẳng hạn, dưới đây là nhận xét của một thành
viên trong phái đoàn thương mại Hoa Kỳ đến Việt Nam hai lần nhưng đều
thất bại: “ có những trở ngại khác nằm trong sự ước lượng thấp kém về
các thương nhân (người viết nhấn mạnh) mà phía Cochinchina (tức Nam
Kỳ - chú của người dịch) đã có thành kiến, và những cuộc chiến tranh nội
thù và chống ngoại xâm thường xuyên làm cho chính quyền xao lãng [ngoại
thương] trong thời gian dài”
(9)
). Vả lại, họ không có được những phương
tiện hỗ trợ cần thiết để tìm kiếm hay tập hợp sự ủng hộ đông đảo của
những người cùng chí hướng cũng như phổ biến rộng rãi những tư tưởng
và ý tưởng của họ đến một đối tượng rộng lớn hơn.
Từ năm 1858, đội quân viễn chinh Pháp đã mang đến Việt Nam vũ
khí chiến tranh hiện đại và những chiến lược thôn tính lâu dài cả về lãnh
thổ lẫn văn hóa. Sự hiện diện của một nền văn minh khác bên cạnh nền
văn minh Trung Hoa vốn độc tôn chiếm lĩnh cả tư tưởng, học thuật lẫn khoa
cử ở Việt Nam từ hàng trăm năm trước, đã đặt tầng lớp trí thức vào tình thế
phải chọn lựa và bị phân hóa: hoặc là tiếp tục đi theo con đường đã được
“lập trình” sẵn: học hành, thi cử và làm quan như tổ tiên của họ, mà con
đường này, như đã thấy, sẽ trở nên bế tắc và sẽ bị đóng lại vĩnh viễn không
lâu sau đó (kỳ thi cuối cùng ở Bắc Kỳ vào năm 1915 và sau đó 4 năm là kỳ
thi Hội cuối cùng ở Trung Kỳ), hoặc là đi theo con đường mới (các trường
hậu bổ, trường sĩ hoạn được mở trước, trong và sau khi các kỳ thi bị bãi bỏ,
nhằm đào tạo một lớp viên chức mới có trình độ chuyên môn thay thế cho
lớp quan chức cũ), vốn cũng chưa định hình rõ ràng. Đương nhiên còn có
những con đường khác, nhưng không phải ai cũng đủ mạo hiểm và sáng
suốt để dấn thân.
Ở một góc độ khác, sự xuất hiện của báo chí và các phương tiện
truyền thông do người Pháp mang tới đã tác động mạnh mẽ đến đời sống
của người Việt giai đoạn chuyển đổi thế kỷ trong hoàn cảnh bị xâm lược.
Do những ưu thế vượt trội: in ấn nhanh chóng, phổ biến rộng rãi, cập nhật
thông tin dễ dàng, đề cập tới hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống, báo chí
đã cấp cho các trí thức yêu nước Việt Nam một phương tiện hữu hiệu để
thực hiện khát vọng canh tân tự cường của mình. Tờ báo quốc ngữ đầu
tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam, Gia Định báo (1865), tuy chỉ là một tờ
công báo của chính phủ Pháp, nhưng từ khi được giao cho các Chủ bút
người Việt như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký với sự cộng tác của
Huỳnh Tịnh Của (từ 1869), Gia Định báo đã trở thành nơi tập dượt viết báo
viết văn cho các trí thức Tây học vốn còn ít ỏi thời ấy, đồng thời không
ngừng truyền bá và phổ cập chữ quốc ngữ đến mọi tầng lớp dân chúng và
đã trực tiếp góp phần biến chữ quốc ngữ từ địa vị ngôn ngữ công cụ trong ý
đồ của người Pháp trở thành ngôn ngữ văn hóa, đem kiến thức Âu Mỹ phổ
biến vào đời sống chung, hòa nhập vào những kiến thức Nho học và kiến
thức dân gian bản địa cổ truyền. Tờ báo kinh tế đầu tiên, tờ Nông cổ mín
đàm (NCMĐ) xuất hiện muộn hơn 35 năm, và được sử dụng cho mục đích
khác. Tờ báo này ra đời bởi một Nghị định của Quan Tổng thống Đông
dương tại Sài Gòn ngày 14 Févier năm 1901, Paul Doumer. Nghị định này
có 2 điều, nguyên văn như sau:
- Điều thứ nhứt: chuẩn cho ông Canavaggio lập nhựt-trình Nông cổ in
chữ quốc-ngữ và chữ nho.
- Điều thứ hai: Quan thống-đốc Nam-kỳ cùng quan Chưởng lý đề hình
trong cõi Đông-dương đều tùy theo phận sự lãnh thi hành Nghị-định này.
Tờ báo ra mắt vào ngày 1 Aoút 1901. Tên báo được in bằng chữ
quốc ngữ, bên dưới là 4 chữ Nông cổ mín đàm bằng chữ Hán, sau cùng là
một hàng chữ Pháp. Báo ra thứ Năm hàng tuần. Chủ nhiệm: Canavaggio;
Chủ bút: lần lượt các ký giả Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn
Chánh Sắt Thời gian đầu, địa điểm của tòa soạn thay đổi liên tục, cuối
cùng tọa lạc ở số 12 đường Cap St – Jacques, Sài Gòn. Mục đích của việc
xuất bản tờ báo được nói khá rõ ở lời “tự tự”, số 1: thứ nhất, vì ông Chủ
nhiệm Canavaggio đã gắn bó với Nam Kỳ hai mươi năm chẵn, có lòng
thương mến đất và người phương Nam; thứ hai, “trong Đông cảnh Cao-ly,
Nhựt-bổn, nước Xiêm-la cùng nước Đại-thanh đâu đâu cũng đều có công
văn nhựt báo. Há Lục-tỉnh anh hùng trí dõng, lại khoanh tay ngồi vậy mà
xem không thi thố cùng người mà trục lợi”. Mục đích này tiếp tục được nói
rõ hơn ở số 29, mục Bổn quán cẩn tín: “để làm sự đại hữu ích cho người
bổn quốc trước là xem chơi truyện vui và lại luận việc lợi hại phải chăng,
cho rõ thấy, may có đồng tâm đồng chí mà học bán học buôn, học trồng
học trĩa”.
Phạm vi phổ biến của tờ báo khá rộng, hầu khắp Lục tỉnh, nhưng số
người mua báo không nhiều. Căn cứ vào mục Bổn quán cẩn tín số 39
(ngày 22 Mai 1902, trang 6), thì sau gần 1 năm phát hành, đã có 325 người
mua báo, chủ yếu là quan chức và điền chủ ở các địa phương, như cai
tổng, hội đồng, hương chủ, tri huyện, và các công chức nhà nước - tức là
những người biết đọc chữ quốc ngữ và có quan tâm đến các vấn đề mà tờ
báo đề cập đến. So với tờ Gia Định báo thì số lượng phát hành của NCMĐ
quả là khiêm tốn hơn nhiều, có lẽ bởi Gia Định báo là công báo, do chính
phủ Pháp tài trợ để in ấn, và buộc các làng các tổng phải mua, trong khi
NCMĐ là tờ báo tư nhân và tự trang trải tài chính.
Đây là tờ báo đầu tiên đăng từng số cho đến hết tác phẩm Tam quốc
chí do Canavaggio dịch (nhưng theo nhà nghiên cứu Sơn Nam, người thực
sự dịch tác phẩm này là Dũ Thúc Lương Khắc Ninh), thường là in ở trang 2,
3 và 4. Các trang 4, 5 và 6 có đăng một số truyện dịch khác của Anh, Pháp
hoặc Trung Quốc, thơ ca do các cộng tác viên sáng tác, mục Điểmbáo châu
Âu, hướng dẫn cách thức vệ sinh phòng bệnh hoặc trồng trọt chăn nuôi,
thông báo số lượng và giá lúa gạo bán đi các nước; 2 trang cuối dành cho
quảng cáo, rao vặt.
Thương cổ luận là mục chính, thường đăng ở trang 1 và 2 của tờ báo,
xuất hiện ngay từ số đầu tiên, và chỉ tạm dừng 7 số (từ số 73 đến số 79) do
tác giả của mục này - ông Lương Khắc Ninh
(10)
, đi dự đấu xảo tại Hà Nội.
Đến năm 1906, có lẽ vì những thay đổi nhân sự trong tòa báo (Trần Chánh
Chiếu làm Chủ bút thay Lương Khắc Ninh), Thương cổ luận chính thức giã
từNông cổ mín đàm.
Được viết bằng văn xuôi quốc ngữ (một vài số có lẫn văn
vần), Thương cổ luận chủ yếu bàn về việc thương nghiệp, kêu gọi hùn vốn
lập hội buôn bán để cạnh tranh với Hoa kiều và Ấn kiều. Tuy chỉ đề cập đến
một vấn đề tưởng chừng rất đơn giản và cũng chưa hẳn là cấp thiết lúc bấy
giờ, nhưng chính là từ góc độ này mà Thương cổ luận đã chạm đến một
trong những quan niệm khá phức tạp và đầy mâu thuẫn của người Việt, đặc
biệt là của giới trí thức Nho học (trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ
bàn đến quan niệm chính thống và thuần túy lý thuyết): nghề buôn bán là
hạ đẳng và các thương nhân là loại người không đáng tôn trọng. Trong tứ
dân (sĩ - nông - công - thương), thương nhân là tầng lớp cuối cùng, thường
bị gọi bằng những danh xưng đầy miệt thị, hoặc luôn bị đề phòng bởi khó
có thể tin cậy: “buôn gian bán lận”, hay: “thật thà cũng thể lái buôn”
(11)
. Tư
tưởng an bần lạc đạo, khinh ghét sự giàu sang do buôn bán mà có đã thấm
sâu vào đời sống văn hóa không chỉ của giới trí thức Nho học mà còn phổ
quát trong toàn dân chúng. Có lẽ vì thế mà các thế hệ người Việt vẫn luôn
răn dạy con cháu “đói cho sạch rách cho thơm” nhằm củng cố niềm tự hào
“giấy rách giữ lề” trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chứ quyết không chịu hạ
mình tìm kiếm sự giàu có, mặc dù không phải họ không biết cách làm giàu.
Vấn đề là ở chỗ, ngoài con đường giàu có nhờ làm quan được cho là vinh
hoa phú quý, họ không nhìn thấy một cách nào khác để trở nên giàu có,
ngoài việc buôn bán: “phi thương bất phú”. Nhưng đó lại là cách mà họ
không muốn, bởi “phú” do “thương” là điều không đáng tự hào và không
được hoan nghênh, và cũng bởi, đó là một nghề đầy rủi ro, đòi hỏi phải
mạo hiểm: có phúc làm quan, có gan làm giàu. Ngay cả các triều đại phong
kiến cũng không ngừng thực hiện chính sách trọng nông ức thương trong
suốt nhiều thế kỷ nhằm bảo vệ vương quyền và kiềm chế sự giàu có nhanh
chóng của tầng lớp thương nhân.
Cho đến thời bao cấp ở miền Bắc Việt Nam, những danh xưng “gian
thương”, “con phe”, “bọn phe phẩy”, “quân đầu cơ tích trữ” là để chỉ loại
đối tượng bị lên án và bị căm ghét nhất: những người buôn bán. Theo quan
niệm của số đông lúc ấy, kể cả các nhà chức trách, dường như chính họ
(những người buôn bán) chứ không phải ai khác, là thủ phạm và phải chịu
trách nhiệm về tình hình khan hiếm lương thực, vật dụng trong xã hội, là kẻ
chuyên trục lợi cá nhân trên sự thiếu thốn chung của người dân. Trong khi
trên thực tế, vai trò của họ ít nhiều có ý nghĩa tích cực hơn, chẳng hạn như
việc phân phối lại một số sản phẩm vốn bao giờ cũng hiếm hoi và thiếu thốn
do chính sách phân phối bất công và độc quyền của mậu dịch quốc doanh
đương thời.
Ngay từ số đầu tiên, mục Thương cổ luận đã tuyên chiến với quan
niệm cũ bằng lời khẳng định: “Sự đại thương là đệ nhứt cách giúp cho dân
phú quốc cường”. Điểm mấu chốt Lương Khắc Ninh dựa vào để bàn
chuyện đại thương chính là chữ lợi (chỉ riêng số 1, trong 2 cột báo của mục
này, đã có đến 20 chữ lợi), nhưng không phải là cái lợi riêng của một cá
nhân mà là cái lợi chung của cả một dân tộc
(12)
. Có điều, khác với những
nhà Duy Tân sau này, về tư tưởng, Lương Khắc Ninh vẫn phải mượn đạo
Khổng để hô hào canh tân. Theo ông, việc “thương cổ” là cần kíp và hữu
ích nhưng nhất thiết phải hợp với tam cương ngũ thường: “Cách đại
thương là làm cho nhơn dân trong nước hưởng, người giàu người nghèo,
kẻ giỏi kẻ dở, đều hưởng hết, và lại có luân thường mới đặng, là nhơn,
nghĩa, lễ, trí, tín Nếu điều chi làm mà phải có cho đủ luân thường, thì là
chẳng phải đều quấy, dầu quốc gia, dầu vương bá, cũng chẳng bỏ qua khỏi
ngũ thường cho đặng?” (số 36).