Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong
dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945, lớp 12
trung học phổ thơng (Chương trình chuẩn)
Nguyễn Tiến Trình
Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (bộ môn Lịch sử)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Bích
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng thục hành cho học
sinh (HS) trong dạy học lịch sử (DHLS) để hoàn thiện một số vấn đề lí luận về rèn
luyện các kỹ năng thực hành trong dạy học bộ môm ịch sử ở trường phổ thông.
Khảo sát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS lớp 12,
qua đó khái quát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS
ở trường phổ thơng hiện nay. Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa (SGK) lịch
sử lớp 12 phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919-1945 làm căn cứ xác định
những kĩ năng thực hành cần rèn luyện cho HS. Xác định, đề xuất các biện pháp
rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thơng nói chung,
phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919-1945 lớp 12, trường Trung học phổ
thơng nói riêng.
Keywords: Lịch sử Việt Nam; Lớp 12; Học sinh; Phương pháp dạy học; Giai
đoạn 1919-1945
Content
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước trong xu thế hội nhập hiện nay đang đặt ra những đòi
hỏi cho sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, khơng
chỉ có tri thức mà cịn phải có năng lực tư duy và khả năng thực hành. Đây là một yêu
cầu quan trọng của việc giáo dục thế hệ trẻ “Hoạt động giáo dục phải thực hiện theo
nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với
thực tiến, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội” [18, tr.8]. Cùng
với các bộ môn khác ở trường phổ thông, thực hành bộ mơn lịch sử có tác dụng rất lớn,
góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Thực hành nói chung và thực hành bộ mơn lịch sử nói riêng là một hoạt động trí
tuệ. Đối với giáo viên (GV), hoạt động thực hành có ý nghĩa làm sáng tỏ việc dạy học
lịch sử (DHLS) chính là “bó đuốc soi đường”, đem những bài học kinh nghiệm của cha
ông vận dụng để hiểu biết hiện tại và dự đoán tương lai. Đối với học sinh (HS), thực
hành môn học lịch sử giúp các em phát triển các kĩ năng tư duy nói chung, tư duy lịch sử
nói riêng. Đặc biệt là tác dụng rèn luyện tính tích cực, chủ động sáng tạo trong suy nghĩ
và hành động của chủ thể nhận thức nhằm đem lại kết quả tốt nhất. Tiến hành các hoạt
động thực hành, các em được chủ động làm việc, quan sát, phân tích, đối chiếu, so sánh,
tổng hợp, khái quát hóa, xác lập các mối liên hệ lịch sử, qua đó tư duy được thường
xuyên hoạt động và phát triển. Thực hành trong học tập lịch sử, HS tự mình trực tiếp tiến
hành các thao tác, hành động, được làm việc để tiếp nhận, củng cố những tri thức, tránh
sự thụ động, khắc phục tình trạng buồn tẻ, mệt mỏi khi giờ học ở trên lớp cứ diễn ra, lặp
đi lặp lại theo một trình tự nhất định. Như vậy, khi tiến hành các hoạt động thực hành,
bản thân HS được thực hiện các thao tác cụ thể, qua đó mà rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo
của các em ngày càng thuần thục hơn.
Tuy nhiên, thực tế DHLS ở trường phổ thông hiện nay, nhận thức và thực hiện
việc rèn kĩ năng thực hành cho HS bên cạnh mặt tích cực vẫn cịn tồn tại một số những
quan niệm chưa đúng. Nhiều GV vẫn cho rằng học lịch sử chỉ là ghi nhớ sự kiện, vì thế
học lịch sử khơng cần có thực hành. Hoặc, nhiều GV chưa nhận thức đúng vai trị, vị trí
của các hoạt động thực hành trong môn lịch sử, chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức phổ
thông mà quên đi hoặc xem nhẹ các bài tập thực hành. Những quan niệm, nhận thức sai
lầm này đã ảnh hưởng khơng tốt, góp phần làm cho HS không hứng thú học tập lịch sử,
chất lượng dạy học bộ môn bị giảm sút. Trong cuộc sống, con người luôn luôn phải lao
động sản xuất, đấu tranh với tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển. Trong nhà
trường, học đi đơi với hành chính là hoạt động để giúp các em tiếp thu kiến thức mới tốt
hơn, đồng thời gắn HS với đời sống hiện thực để vừa kiểm nghiệm tính chân lí của
những kiến thức khoa học, vừa tạo cơ hội cho các em góp phần nhỏ bé của mình thực
hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của
mình”…
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 là một thời kì đặc biệt đã chứng kiến
những bước ngoặt vĩ đại trên con đường phát triển của dân tộc. Cùng với việc trang bị tri
thức, tăng cường rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS có ý nghĩa góp phần giúp các
em hiểu biết sâu sắc hơn về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, khơi dậy lịng tự
hào dân tộc, hình thành ý thức trách nhiệm công dân trong công cuộc xây dựng và bào vệ
tổ quốc hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng
thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 – 1945 (lớp 12 Chương
trình chuẩn) ” để nghiên cứu với mong muốn góp phần khẳng định vị thế và khả năng
của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục, rèn luyện và phát triển toàn diện năng lực HS.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong dạy học nói chung , DHLS nói riêng là
vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cũng như ở
Viê ̣t Nam. Chúng tơi điểm qua tình hình nghiên cứu từ các cơng trin
̀ h tiêu biểu dưới đây:
2.1. Ở nước ngoài
T.A. Ilina trong cuốn “Giáo dục học” (tập II, NXB Giáo dục năm 1973) đã đề cập
đến nhiều kĩ năng thực hành của HS: kĩ năng làm việc với SGK; kĩ năng học tập ở phịng
thí nghiệm, thực nghiệm; kĩ năng luyện tập, ơn tập… Trong đó, tác giả đã nêu một cách
thật khái quát phương pháp làm việc với SGK, xem công tác thực hành của HS như một
phương pháp dạy học (PPDH) tích cực giúp các em nắm vững, hiểu sâu hơn bài học và
phát huy được tính độc lập, sáng tạo của mình.
Cuốn “Giáo dục học” của N.V. Savin (NXB Giáo dục năm 1978) đã nhấn mạnh mục
đích của công tác thực hành là để đảm bảo việc củng cố và cụ thể hóa các tri thức lý luận
mà HS đã thu nhận được, thực hiện đầy đủ hơn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Thông qua việc quan sát, HS thực hành, ông cũng nhận thấy trong q trình thực hiện
cơng việc, nhất là những cơng việc mang tính tổng hợp dễ làm nảy sinh ở các em những
nhu cầu áp dụng độc lập các tri thức. Nó cũng có thể là những tri thức mà HS đã tiếp
nhận để đưa ra sử dụng trong những tình huống quen thuộc, hoặc cũng có thể là những
sáng tạo mới, nhờ đó mà khả năng sáng tạo tiếp tục phát triển. Cũng theo tác giả, việc mở
rộng khối lượng các công việc thực hành trong học tập đã thúc đẩy lý luận dạy học tìm
kiếm các điều kiện để nâng cao hiệu quả của chính các biện pháp này. Như vậy, Savin đã
khẳng định rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động thực hành trong dạy học, song ông lại
chưa đi sâu vào các vấn đề khác của hoạt động thực hành, phân loại các dạng thực hành
hoặc làm thế nào để rèn luyện các kĩ năng thực hành (phương pháp, biện pháp rèn luyện
kĩ năng thực hành) cho HS.
Tác giả N.G. Đai ri trong cuốn“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (do Đặng Bích Hà
và Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục Hà Nội 1973) đã khẳng định học là để giáo
dục, nên không thể dừng lại ở mức độ học thuộc lịng. Ơng quan niệm, trong giờ học lịch
sử cần phải kích thích các hoạt động độc lập của HS bằng cách ra các bài tập nhận thức,
yêu cầu các em phải thực hiện. Đây là một cơ hội tốt để HS vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn. Ông cho rằng kiến thức khi học sinh vận dụng thì được củng cố và là cơng
cụ phát triển, công cụ giáo dục và công cụ thu nhận kiến thức mới, chúng trở thành
phương pháp nhận thức hiện tượng của đời sống xã hội.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh như thế nào”, I.F.Kharla-mốp (1979) cho rằng học tập là quá trình nhận thức tích cực trong đó có bước ơn tập
kiến thức đã học, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức. Việc học tập ở nhà của HS hay việc ôn
tập bài cũ có ý nghĩa tích cực khơng chỉ với việc phát huy tính tích cực của HS mà cịn
giúp các em củng cố, nắm vững kiến thức [26, tr.68]. GV cần lựa chọn nội dung, tổ chức
các hoạt động ôn tập sao cho HS biểu lộ tính sáng tạo, đi tới hiểu và nắm vững kiến thức,
ví dụ như làm bài tập thực hành, trả lời câu hỏi, viết bài mô tả ngắn gọn về sự kiện lịch
sử, dẫn ra các ví dụ hoặc sự kiện để chứng minh một kết luận nào đó... Ơng cũng cho
rằng HS phải tự khám phá kiến thức cho bản thân dù chỉ là “khám phá lại”. Sự khám phá
này phải thông qua việc sử dụng các bài tập chứ không phải là học thuộc lịng. Có thể
nhận thấy cả N.G. Đai ri và I.F. Khar-la-mốp đã đề cập đến vấn đề các biện pháp thực
hành đó là làm bài tập lịch sử của HS. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu vào bản chất, chỉ rõ
các biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành cụ thể mà chỉ dừng lại ở việc khẳng định vị trí
quan trọng của bài tập nhận thức đối với việc phát triển tư duy độc lập của HS.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và hình vẽ” các tác giả
M.B. Kơ-rơ-cơ-va, Stu-đen-nhi-kin đã nhấn mạnh việc ôn tập, củng cố thông qua hình
thức giao những bài tập cho HS. Các tác giả đã đưa ra các loại bài tập có tính chất thực
hành như bảng biểu, sơ đồ hình vẽ trong dạy học và cho rằng GV khi hướng dẫn, giao bài
tập cho HS cần lưu ý tới khả năng của các em sao cho vẫn đảm bảo nội dung kiến thức,
kỹ năng cơ bản nhưng phải phân hố được trình độ nhận thức của HS. Để đạt được điều
đó, GV nên giao các nhiệm vụ học tập cần được xây dựng dựa trên các mục tiêu dạy học
rõ ràng, định hướng đến các năng lực đầu ra của HS như năng lực tái hiện và tái tạo lại
các biểu tượng lịch sử; năng lực phân tích, xử lý các nguồn thông tin; năng lực tư duy
logic, tư duy niên đại với các nguồn tư liệu lịch sử; năng lực sơ đồ hoá; năng lực đánh
giá sự kiện, hiện tượng lịch sử ... Ngoài ra, trong phần V của cuốn sách“Bài học lịch sử
và việc chuẩn bị bài học của giáo viên” có đề cập đến những kiến thức lý luận dạy học
bộ môn qua hệ thống sơ đồ, bảng biểu, hình vẽ. Đây là cách dạy và học tích cực giúp HS
nhớ nhanh, dễ nhớ và nhớ lâu kiến thức.
Như vậy, từ các tài liệu giáo dục học và giáo dục lịch sử chúng tôi nhận thấy các tác giả
nước ngoài đã tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề chung về lý luận thực hành:
khẳng định quan niệm, vai trò, ý nghĩa, cách phân loại các kĩ năng thực hành cho HS…
Tuy nhiên, làm thế nào để rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS thì hầu như chưa được đề
cập đến. Song, những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đề cập về thực hành trong dạy học
chính là những gợi ý, định hướng giúp chúng tơi giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
2.2. Ở trong nước
Cuốn “Giáo dục học” (tập I, NXB Giáo dục Hà Nội, 1987) các tác giả Hà Thế Ngữ,
Đặng Vũ Hoạt nhấn mạnh trong dạy học nhất định phải gắn tri thức HS đã được tiếp nhận
với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể. Có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận với thực tiễn, một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học.
Qua hoạt động thực tiễn những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo HS nắm được sẽ hòa nhập vào
hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo đã có và trở thành những phần hữu cơ trong hệ thống
đó. Hệ thống này phải được củng cố thường xuyên thì chúng mới tồn tại một cách vững
chắc.
Tác giả Phạm Viết Vượng trong cuốn “Giáo dục học” (2000) đã chỉ ra 5 khâu để tiến
hành một quá trình dạy học (QTDH) đối với một bài học cụ thể: GV đề xuất nhiệm vụ
học tập; tổ chức cho HS nhận thức tài liệu mới; hệ thống hóa tài liệu đã học; vận dụng
kiến thức vào giải quyết các bài tập thực hành; kiểm tra lại các kết quả học tập. Các khâu
này được sắp xếp theo trình tự và được vận dụng một cách linh hoạt. Trong đó, khâu vận
dụng kiến thức vào giải quyết các bài tập thực hành có mối quan hệ chặt chẽ với các khâu
khác, tạo nên một QTDH thống nhất [24, tr.68].
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng thì cải tiến
PPDH là một nhân tố quan trọng. Vấn đề đổi mới PPDH lấy HS làm trung tâm đang được
đề cập đến ở hầu hết các sách, các tài liệu giáo dục. Nói đến việc phát huy tính tích cực
của HS trong học tập lịch sử, các tác giả đã bàn đến công tác thực hành ở nhiều mức độ
khác nhau, từ giải bài tập đến làm các đồ dùng trực quan.
Trong cuốn “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội tháng 1/1995 của các tác giả Nguyễn Thị Cơi, Trịnh Đình Tùng, Lại Đức
Thụ, Trần Đức Minh trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc với những quan điểm nhận thức
khoa học mới, đúng đắn, kết hợp những kinh nghiệm đã tích lũy lâu năm, các tác giả đã
nhận thức và khẳng định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành đối
với việc DHLS. Nó thực sự có ý nghĩa về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Cuốn
sách cũng nêu ra các nội dung cơ bản của việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử,
bao gồm cả các kỹ năng thực hành, ví như kỹ năng chế tạo và sử dụng các loại đồ dùng
trực quan; kỹ năng ghi chép các loại hồ sơ, tài liệu; kỹ năng tập hợp, tổ chức các hoạt
động ngoại khóa và cơng tác cơng ích xã hội…Tuy nhiên, đây là một cuốn sách rèn luyện
kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm cho các đối tượng là sinh viên các trường Cao đẳng Sư
phạm, Đại học Sư phạm thuộc chuyên ngành lịch sử, chứ không phải là đối tượng HS phổ
thông. Cho nên, các tác giả chưa đưa ra các biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng, nâng
cao năng lực thực hành nhằm phát triển năng lực nhận thức toàn diện cho HS.
Tiếp thu chân lý khoa học nảy sinh từ thực tiễn và trở về phục vụ thực tiễn, GS.TS Phan
Ngọc Liên (chủ biên); PGS.TS Nguyễn Thị Cơi, PGS.TS Trịnh Đình Tùng, trong cuốn
“Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB Đại học Sư phạm năm 2002, tái bản năm 2009,
2010) cho rằng: nhất định phải gắn học với hành để phát huy vai trò chủ thể của HS trong
nhận thức, khắc phục cách học giáo điều, nhồi sọ. Theo các tác giả thì thực hành sẽ giúp
HS có cơ sở, định hướng để suy nghĩ, hiểu sâu những kiến thức đã học, khám phá kiến
thức mới, vận dụng những hiểu biết vào cuộc sống. Sau khi đưa ra những nguyên tắc
phương pháp luận và yêu cầu của giáo dục là phải thực hiện nguyên lý “Học đi đôi với
hành” các tác giả cũng nêu lên một cách khái quát những nội dung chủ yếu của “hành”
trong môn lịch sử. Tại chương VII, các tác giả dừng lại ở việc nêu tên các loại thực hành
như làm các loại đồ dùng trực quan, tập viết, tập trình bày, miêu tả về một sự kiện lịch
sử; vận dụng kiến thức cũ để tiếp thu kiến thức mới; tham gia các cơng việc cơng ích xã
hội. Một số khía cạnh của thực hành lịch sử còn được nhắc tới ở các chương XIII - Kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử; chương IV và chương XV nói về các hoạt động
ngoại khóa. Cũng như cuốn Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm mơn lịch sử, giáo trình
Phương pháp dạy học lịch sử tập trung vào hướng dẫn giáo viên, sinh viên sư phạm cách
tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS, chưa đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề chủ
yếu của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành như: khái niệm, nội dung, phương thức
thực hiện và tác dụng của nó trong việc phát triển nhận thức của HS.
Cùng với các tài liệu giáo dục học và giáo dục lịch sử, vấn đề thực hành còn được đề cập
trong nhiều bài viết trên các tạp chí. Trên tạp chí nghiên cứu giáo dục số 6/1994 các tác
giả Trịnh Đình Tùng - Kiều Thế Hưng trong bài viết với tiêu đề: “Xây dựng và sử dụng
bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông”. Trên cơ sở vận dụng những lý luận về
xây dựng và sử dụng bản đồ lịch sử, bài viết đã hướng dẫn một cách cụ thể các bước tiến
hành và xây dựng một bản đồ SGK treo tường nhằm phát huy khả năng của thầy - trò để
bổ sung và làm phong phú hệ thống đồ dùng trực quan ở trường phổ thông.
Tác giả Nguyễn Thị Côi - Phạm Thị Kim Anh với bài viết: “Hướng dẫn học sinh làm bài
tập lịch sử”, đăng trên nghiên cứu giáo dục số 6/1994 và tác giả Trần Quốc Tuấn với bài
viết: “Bài tập lịch sử trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh”, nghiên
cứu giáo dục số 2/1998. Trong hai bài viết trên các tác giả đã đưa ra quan niệm của mình
về bài tập cũng như vai trị của nó với việc học tập của HS và đi vào tìm hiểu một số loại
bài tập cơ bản hay được sử dụng trong nhà trường phổ thông.
Tác giả Trần Đức Minh - Đặng Công Lộng với bài viết “Thực hành trong môn lịch sử”,
tạp chí nghiên cứu giáo dục số 6/1994, trình bày một cách vắn tắt sự cần thiết phải thực
hành trong môn lịch sử, nêu lên những công việc cụ thể khi làm thực hành lịch sử và đi
đến nhận định: giải quyết tốt việc thực hành trong môn lịch sử là tuân thủ nghiêm túc
phương pháp luận về mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong bài viết “Về tổ chức dạ hội tham quan và dự lễ hội truyền thống trong dạy học lịch
sử”, nghiên cứu giáo dục số 6/1994, tác giả Nguyễn Quang Lê - Trần Viết Thụ nhận
định: kiến thức trong hoạt động nội khóa rất phong phú nhưng cũng cần được bổ sung
bằng những hoạt động ngoại khóa để HS có những hiểu biết một cách thực tế hơn, nhất là
các vấn đề về lịch sử địa phương. Bài viết còn đưa ra đề nghị cho HS tham gia vào các
hoạt động lế hội, dạ hội, làm quen với các cơng việc sưu tầm tài liệu và tập dượt nghiên
cứu…góp một phần nhỏ bé vào cơng việc cơng ích xã hội.
Ngồi ra, vấn đề thực hành lịch sử cịn được đề cập rải rác trong một số bài viết dưới các
khía cạnh khác, tuy nhiên khơng được trình bày một cách rõ ràng cụ thể như một bài viết
về chuyên đề thực hành. Hoạt động thực hành rất phong phú, sinh động có tác dụng giáo
dục thế hệ trẻ theo đúng yêu cầu, mục tiêu đào tạo, gắn cuộc sống với thực tại, biến kiến
thức trong sách thành các giá trị thực tế về tri thức văn hóa, bồi dưỡng lịng tự tơn, tự hào
dân tộc, biết ơn tổ tiên và những truyền thống vẻ vang của dân tộc. Cho nên, rèn luyện
các kĩ năng thực hành cho HS cũng là một cách để giáo dục các em biết bảo vệ và phát
huy các giá trị lịch sử - văn hóa cần được quan tâm và thực hiện thường xuyên.
Như vậy, đề cập đến vấn đề rèn luyện kĩ năng thực hành, các tài liệu giáo dục học,
giáo dục lịch sử, các sách chuyên khảo, các bài viết ở trong nước cũng đã giải quyết
nhiều vấn đề, từ khẳng định quan niệm, vai trò, ý nghĩa đến xác định các kĩ năng thực
hành. Đây là những định hướng cho chúng tôi trong nghiên cứu đề tài. Song các tài liệu,
bài viết chủ yếu đi vào lý luận chung về thực hành đối với sinh viên các trường Đại học,
Cao đẳng mà chưa đề cập vấn đề này dưới góc độ của HS phổ thơng, địi hỏi trong đề tài
chúng tơi cần giải quyết:
- Thống nhất khái niệm, vai trò, ý nghĩa, phân loại, yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực
hành phù hợp với đối tượng HS phổ thông.
- Xác định rõ các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong dạy học lịch
sử ở trường phổ thông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiê ̣n đề tài, chúng tơi xác định rõ mục tiêu cần đạt là:
- Khẳng định quan niệm đúng đắn và vai trò , ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng
thực hành cho HS trong DHLS ở trường phổ thơng nói chung , DHLS Việt Nam giai đoạn
từ 1919 - 1945 nói riêng đớ i với viê ̣c phát triển toàn diện năng lực của HS . Từ đó , góp
phần giải quyết một số vấn đề lí luận chung về rèn kĩ năng thực hành trong q trình DH
LS ở trường phở thơng.
- Đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong q trình DHLS
ở trường phổ thơng.
3.2. Nhiêm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS
để hồn thiện một số vấn đề lí luận về rèn luy ện các kĩ năng thực hành trong dạy học bô ̣
môn lịch sử ở trường phổ thông.
- Khảo sát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS lớp
12, qua đó khái quát thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở
trường phổ thơng hiện nay.
- Tìm hiểu chương trình, sách giáo khoa (SGK) lịch sử lớp 12 phần lịch sử Việt
Nam giai đoạn từ 1919 - 1945 làm căn cứ xác định nh ững kĩ năng thực hành cần rèn
luyện cho HS.
- Xác định, đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong
DHLS ở trường phổ thơng nói chung, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 - 1945
lớp 12, trường Trung học phổ thơng (THPT) nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: của đề tài là viê ̣c rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh
trong dạy học li ̣ch sử Việt Nam giai đoạn từ 1919 – 1945 (chương trình chuẩn).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nơ ̣i dung nghiên cứu của đề tài là việc rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS
trong DHLS ở trường THPT theo chương trin
̀ h, SGK lịch sử hiê ̣n hành.
- Do thời gian có hạn nên trong đề tài chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đề xuất
các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS trong DH khóa trình lịch sử Việt Nam
giai đoạn từ 1919 - 1945 lớp 12 trường THPT (chương trình chuẩn).
- Do điều kiện thời gian, đề tài chủ yếu tiến hành điều tra khảo sát và thực nghiệm
sư phạm ở một số trường THPT ở các tỉnh phía Bắc, như: Trường THPT Tây Hồ - Hà
Nội và Trường THPT Thái Hòa - Lập Thạch - Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề lí luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành trong giáo dục và đào
tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu tài liê ̣u Giáo du ̣c ho ̣c, Giáo dục lịch sử về vấn đề rèn luyện
kĩ năng thực hành cho HS; Nghiên cứu nô ̣i dung khoá trình lịch sử Việt Nam giai đoạn từ
1919 - 1945 lớp 12 (chương trình chuẩn).
- Nghiên cứu thực tiễn : khảo sát, phỏng vấn trực tiếp GV và HS về tình hình thực
hiện việc rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS trong DHLS ở trường THPT hiê ̣n nay
bằ ng phát phiế u điề u tra, dự giờ, quan sát...
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiể m chứng hiê ̣u quả của các biện pháp đề xuất trong
luận văn nhằm đánh giá toàn diê ̣n năng lực của HS , nâng cao chất lượng DHLS ở trường
phổ thông.
- Sử du ̣ng phương pháp thố ng kê toán ho ̣c xử lý kế t quả thực nghiê ̣m .
6. Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu đề tài có ý nghiã hế t sức quan tro ̣ng về lí luâ ̣n và thực tiễn :
- Về lí ḷn : Góp phần làm phong phú lí luận PPDH lịch sử ở trường phổ thông về
vấ n đề rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS.
- Về thực tiễn : Kế t quả nghiên cứu của đề tài là những gơ ̣i ý , tham khảo bổ ích cho
giảng viên, sinh viên các trường Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m , Cao đẳ ng Sư phạm , cho GV và H S ở
trường THPT trong viê ̣c rèn luyện và tự rèn luyện kĩ năng thực hành để đạt được mu ̣c
tiêu giáo du ̣c.
7. Giả thuyết khoa học
Chỉ có thể phát triển tồn diện năng lực học tập của HS trong DHLS ở trường
THPT nế u tích cực sử dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành mà đề tài đã đề
xuất.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: Rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thơng. Lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945, lớp 12 trung học phổ thơng (Chương trình chuẩn).
CHƢƠNG 1
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THƠNG. LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Cơ sở xuất phát
* Mục tiêu giáo dục
Chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa trong bộ luật giáo dục nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 23, chương II nêu rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông là
“…nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ
sở, hồn thiện học vấn phổ thơng và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào
cuộc sống lao động”. Đồng thời cũng khẳng định, tính chất nguyên lý của nền giáo dục
nước ta là:
“1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, có tính nhân dân,
khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
2. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà
trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” (Điều 3, chương I).
Mục đích, tính chất, nguyên lý giáo dục đã mở ra phương hướng cho các hoạt
động giáo dục. Phát triển năng lực thực hành cho HS không chỉ đáp ứng được xu thế phát
triển tất yếu của lịch sử mà nó cịn góp phần thực hiện các mục tiêu, nguyên lý, tính chất
giáo dục, đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn “thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông” [8, tr. 496]. Đặc biệt đối với cấp THPT - cấp học cuối cùng có
nhiệm vụ phải hoàn thành việc trang bị nguồn kiến thức cơ bản, các kĩ năng, kĩ xảo cần
thiết, trong đó có kĩ năng thực hành đủ để HS có thể học tiếp, hoặc tham gia vào đời
sống sản xuất.
* Nhiệm vụ của bộ môn
Từ mục tiêu môn học đã đặt ra nhiệm vụ, yêu cầu của việc học tập bộ môn lịch sử
là phải giúp HS biết, hiểu những gì xảy ra trong quá khứ để rút ra những bài học mang
tính quy luật, trên cơ sở đó giải thích được hiện tại, vận dụng vào thực tiễn và dự đoán
cho tương lai. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, trong DHLS cần chú ý đến việc bồi dưỡng năng
lực nhận thức và năng lực hành động cho HS.
* Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
Trong những năm gần đây, cùng với các môn học khác, bộ môn lịch sử cũng đã
triển khai thực hiện việc đổi mới chương trình, SGK và đổi mới trong các khâu cơ bản
khác của QTDH, đặc biệt là chú trọng vào đổi mới PPDH. Bởi vì chỉ có đổi mới căn bản
PPDH thì mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục để đào tạo được lớp
người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên
thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
1.1.2. Quan niệm về rèn luyện kĩ năng thực hành lịch sử
Từ điển tiếng Việt định nghĩa thực hành “nói một cách khái quát là làm để vận
dụng lý thuyết vào thực tế” [20].
Từ các cách định nghĩa cho thấy về câu từ khái niệm thực hành có cách diễn đạt
khác nhau, nhưng đều thống nhất hiểu thực hành là một động từ mà ở đó có hai điểm
chính cần chú ý:
Một là, thực hành gắn liền với những hành động, hoạt động của con người được
biểu hiện bằng các thao tác cụ thể, tác động lên đối tượng lao động nào đó nhằm biến đổi
chúng theo mục đích đã định. Ở đây. hoạt động được hiểu ở nghĩa rộng hơn so với hành
động, trong hoạt động gồm có nhiều hành động.
Hai là, thực hành là một biểu hiện của việc vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Đây
không phải là một hoạt động mang tính thuần túy của cơ bắp mà nó địi hỏi phải có sự
tham gia của những hoạt động trí tuệ. Hoạt động trong thực hành mang tính mục đích rõ
rệt, kiểm nghiệm và nắm vững lý thuyết hơn là mục đích chủ yếu.
1.1.3. Vai trị, ý nghĩa của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy
học lịch sử
Rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS trong học tập bộ môn lịch sử là một hình
thức đa dạng hóa các hoạt động nhận thức trong các điều kiện sư phạm khác nhau, gợi
nên ở HS hứng thú hăng say học tập. Các hoạt động này có tác dụng làm nổi bật, mở
rộng, đào sâu những kiến thức cơ bản đã được học trong giờ nội khóa, nâng tầm hiểu biết
của HS lên mức độ cao hơn. Nó cũng khắc phục được tình trạng lạc hậu về kiến thức
trong SGK so với thực tế, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tuân thủ SGK - tài liệu chủ yếu
được dùng trong nhà trường phổ thông.
Như vậy, việc rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS chính là rèn luyện các em tinh
thần lao động cần cù, tạo hứng thú trong quá trình học môn lịch sử. Giờ học lịch sử giờ
đây không chỉ đơn điệu với hoạt động thầy đọc - trò chép mà dưới sự hướng dẫn của GV,
HS có thể tiếp nhận kiến thức theo ý hiểu của mình. GV khuyến khích HS làm những cơng
việc mà mình u thích, như thế sẽ tạo cho các em tâm lý thoải mái, hứng thú, giờ học lịch
sử sẽ trở nên sinh động và gần gũi hơn. Đặc biệt, khi liên hệ lịch sử với cuộc sống hiện tại thì
trong suy nghĩ của HS, lịch sử khơng cịn là sự “khơ cứng”, “xưa cũ” mà nó gắn với thực tại,
là sự phát triển liên tục từ quá khứ đến hiện tại và dự đoán tương lai.
1.1.4. Các kĩ năng thực hành cần rèn luyện cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
Việc thực hành trong môn lịch sử gồm:
- Thực hành bộ môn.
- Sử dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống:
+ Vận dụng những hiểu biết về lịch sử quá khứ của con người và xã hội lồi người để
hiểu biết và giải thích hiện tại.
+ Tập dượt các công việc nghiên cứu lịch sử, tham gia sưu tầm tài liệu để biên soạn và
học tập lịch sử địa phương.
+ Tham gia vào những hoạt động mang tính cơng ích xã hội như xây dựng phịng truyền
thống địa phương, hành quân theo bước chân người anh hùng, đi tìm địa chỉ đỏ, gìn giữ
chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ…
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học lịch sử
hiện nay
Đối với giáo viên: Qua kết quả tổng hợp trên cho thấy phương pháp thực hành
đã được áp dụng ở trường phổ thông. Gần 87,5% GV đã nhận thức được sự cần
thiết phải đưa hoạt động thực hành vào bộ môn dạy học lịch sử. Tuy nhiên, trong
thực tế, quan niệm về hoạt động thực hành của GV thì ý kiến cịn rất dàn trải, các
phương án lựa chọn với số GV lựa chọn chưa thể hiện được quan điểm đúng đắn
nhất rèn luyện kĩ năng thực hành. Điều này đương nhiên ảnh hưởng đến cách lựa
chọn các phương pháp thực hành cho HS. Cho nên, việc rèn luyện các kĩ năng thực
hành cho HS chưa thực sự mang tính tồn diện, hầu như chỉ tập chung vào biện
pháp tự đọc sách giáo khoa, rồi trả lời các câu hỏi cuối mục, cuối bài.
Đối với học sinh:
Nhìn chung có thể thấy nhiều HS vẫn u thích việc học lịch
sử, vấn đề là làm thế nào để các em cảm thấy giờ học hấp dẫn hơn, gần gũi hơn để các
em được hoạt động, tham gia vào giờ học nhiều hơn. Tổ chức tốt các hoạt động thực
hành trong giờ học lịch sử là cách hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu này. Tuy nhiên, từ
kết quả tổng hợp cũng cho thấy các em vẫn còn nhận thức chưa đúng về các hoạt động
thực hành.
1.2.2. Khái quát thực trạng
Từ kết quả điều tra, khảo sát đối với GV và HS cho thấy nội dung thực hành trong
dạy học lịch sử đã được áp dụng ở trường phổ thông, GV và HS đã bắt đầu quan tâm tới
các hoạt động thực hành nhằm củng cố kiến thức qua bài học và rèn luyện các kĩ năng
học tập cần thiết. Hầu hết GV đều nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thực
hành trong DHLS và đã chú trọng rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS. Đối với HS,
các em đều thích tham gia hoạt động thực hành dưới sự hướng dẫn của GV.
Tuy nhiên, việc rèn luyện các kĩ năng thực hành cho HS chưa mang tính tồn
diện, hầu như chỉ tập trung vào biện pháp tự đọc SGK rồi trả lời các câu hỏi cuối mục,
cuối bài. Thông thường công việc này, HS được giao như một nhiệm vụ bắt buộc phải
thực hiện trước khi học bài mới để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp thu kiến
thức cơ bản trên lớp. Các biện pháp cịn lại rất ít được áp dụng, trong khi chính các biện
pháp này mới có tác dụng giúp cho HS dễ nhớ sự kiện, nắm vững, hiểu sâu bài học cũng
như rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bộ mơn và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em, gắn
các em vào đời sống xã hội.
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn nêu trên chúng tôi hy vọng với sự nhận thức đúng đắn
về thực hành và những biện pháp đưa ra trong luận văn dưới đây sẽ có giá trị thực tiễn
góp phần tháo gỡ những khó khăn, hạn chế trong DHLS ở trường phổ thông.
CHƢƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945 (CHƢƠNG
TRÌNH CHUẨN)
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945 (lớp 12 chƣơng trình chuẩn)
2.1.1. Vị trí
Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 nội dung bao gồm 2 chương: chương I và chương II
của SGK lịch sử lớp 12 (Chương trình chuẩn), gồm có 5 bài, cung cấp cho HS những hiểu
biết có hệ thống tồn diện kiến thức về các sự kiện từ các phong trào dân tộc dân chủ ở
Việt Nam trước năm 1930 đến Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam năm 1930 đem đến thắng lợi vĩ đại đầu tiên là cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945 giành lại độc lập thực sự cho dân tộc sau hàng ngàn năm chịu ách thống trị
của chế độ phong kiến và hàng trăm năm ách đô hộ của các đế quốc, thực dân.
2.1.2. Mục tiêu
Học tập phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945, HS cần đạt được:
* Về kiến thức
Hiểu được các phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến 1930 để đưa
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3 - 2 - 1930) là một tất yếu lịch sử, là một
bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt có giá trị và ý nghĩa to lớn trong
việc vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi bước đầu trong
thắng lợi của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930, tiếp đến là phong trào dân chủ
1936 - 1939 và đỉnh cao là thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập tự do.
* Kỹ năng
Dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945, bên cạnh với việc cung cấp những
kiến thức cơ bản, GV cần hướng dẫn HS rèn luyện các kĩ năng thực hành làm bài tập lịch
sử, trả lời câu hỏi, làm việc với các loại đồ dùng trực quan, đặc biệt là tạo điều kiện cho
các em trực tiếp làm việc với đồ dùng trực quan để củng cố kiến thức đã được tiếp thu.
Thông qua làm việc với những đồ dùng trực quan như vậy sẽ góp phần phát triển óc quan
sát, khả năng tri giác, thực hành của HS. Qua các thao tác tự làm đồ dùng trực quan để
phân tích, đánh giá, nhận định… các em sẽ phát triển hơn tư duy sáng tạo, độc lập và rèn
luyện kỹ năng thực hành bộ mơn.
* Tư tưởng, tình cảm
Khai thác, cung cấp nội dung kiến thức giai đoạn lịch sử này cịn có ý nghĩa giáo
dục rất lớn cho HS.
Trước hết, nó bồi dưỡng cho HS có thái độ đúng đắn khi đánh giá về các sự kiện,
nhân vật lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945, đánh giá những thắng lợi mà nhân dân ta đã
giành được. Bên cạnh lòng tự hào dân tộc, tự hào về những thắng lợi đạt được, đặc biệt là
thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, GV giúp HS nhận thức được rằng để
làm nên thắng lợi lịch sử này, dân tộc Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu. Từ
đó, giáo dục cho các em lịng biết ơn những người đã ngã xuống, những người anh hùng đã
đấu tranh cho độc lập tự do ngày hôm nay và sự khâm phục tinh thần đấu tranh kiên cường,
bất khuất của hàng vạn đồng bào cả nước, khơi dậy trong các em những tình cảm tốt đẹp,
quý trọng, giữ gìn giá trị của độc lập tự do ngày hôm nay. Việc hiểu biết giai đoạn lịch sử
Việt Nam đầy khó khăn, thử thách này cịn bồi dưỡng cho HS truyền thống yêu nước,
chống ngoại xâm của cha ông.
Qua bao gian nan, thử thách, dân tộc ta mới có thể giành được độc lập bằng thắng
lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945. Vì vậy, cần phải giáo dục HS càng khâm phục,
tự hào và yêu nước bao nhiêu thì càng lên án âm mưu xâm lược và căm thù tội ác của các
thế lực đế quốc, thực dân đã thống trị và đô hộ nước ta bấy nhiêu. Qua đó, giáo dục cho
các em lịng biết ơn sâu sắc đối với thế hệ cha anh đã hy sinh để giành lại nền độc lập cho
dân tộc, tinh thần u chuộng hịa bình, căm ghét chiến tranh, củng cố niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tương lai tươi sáng của dân tộc.
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945
Theo cấu tạo của SGK (Chương trình chuẩn), phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945
được chia ra làm 5 bài:
Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.
Bài 13: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.
Bài 14: Phong trào cách mạng 1930-1935.
Bài 15: Phong trào dân chủ 1936-1939.
Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945).
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 đề cập chủ yếu đến
những vấn đề sau:
Thứ nhất, Việt Nam từ 1919 đến năm 1930. Trong nội dung này, HS cần nắm
vững những kiến thức cơ bản sau:
- Những chuyển biến mới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam sau
chiến tranh thế giới thứ nhất
- Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925
- Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930
Thứ hai, phong trào cách mạng 1930-1939. Trong nội dung này, HS cần phải
nắm được những kiến thức cơ bản sau:
* Về phong trào cách mạng 1930 - 1931
* Về phong trào dân chủ 1936 – 1939
Thứ ba, phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (19391945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
2.2. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh trong dạy học phần
Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1945
2.2.1. Rèn luyện kĩ năng làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo
2.2.1.1. Đối với sách giáo khoa
2.2.1.2. Đối với tài liệu tham khảo
* Sử dụng tài liệu lịch sử, văn kiện Đảng, Nhà nước
* Sử dụng tài liệu văn học
2.2.2. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt (nói và viết) khi trả lời câu hỏi và làm bài tập
2.2.2.1. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt
2.2.2.2. Xây dựng và hướng dẫn học sinh làm bài tập lịch sử
2.2.3. Rèn luyện kĩ năng lập niên biểu, sử dụng và thực hành làm việc với đồ dùng
trực quan (sơ đồ, biểu đồ, bản đồ)
2.2.3.1. Kỹ năng lập niên biểu
2.2.3.2. Kỹ năng xây dựng, sử dụng bản đồ cho học sinh trong học tập lịch sử
2.2.3.3. Rèn luyện kỹ năng vẽ sơ đồ
2.3.3. Rèn luyện các kĩ năng trong hoạt động ngoại khóa lịch sử (tham gia các cơng
tác cơng ích xã hội)
2.3.3.1. Xây dựng, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, đi tìm địa chỉ đỏ
2.3.3.2. Sưu tầm để biên soạn lịch sử địa phương và xây dựng nhà truyền thống
* Công tác sưu tầm, nghiên cứu lịch sử địa phương:
* Xây dựng nhà truyền thống.
2.3.3.3. Tổ chức một số hoạt động ngoại khóa khác
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích thực nghiệm
- Khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của những biện pháp sư phạm về việc rèn
luyện các kỹ năng thực hành trong dạy học lịch sử.
- Qua dạy thực nghiệm, lấy kết quả kiểm tra và ý kiến phản hồi của GV, HS để
phân tích, xác định tính hiệu quả của việc rèn luyện các kỹ năng thực hành trong DHLS.
- Qua quá trình thực nghiệm và kết quả đánh giá thực nghiệm sư phạm ở các
trường THPT, chúng tơi tiếp tục hồn thiện, nâng cao những kiến thức lý luận về dạy học
bộ môn, nhất là việc xây dựng và rèn luyện kỹ năng thực hành trong DHLS.
- Là cơ sở quan trọng để chúng tôi rút ra những kết luận về việc rèn luyện kỹ năng
thực hành cho HS trong DHLS nói chung và DHLS lớp 12 phần lịch sử Việt Nam từ
1919 - 1945 (chương trình chuẩn), góp phần khắc phục những hạn chế trong khâu rèn
luyện kỹ năng thực hành cho HS trong DHLS tại các trường THPT hiện nay.
2.4.2. Nội dung thực nghiệm
Nội dung thực nghiệm là bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi
nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời” (tiết 3).
Bài học giúp HS có những hiểu biết về diễn biến cuộc đấu tranh giành chính
quyền của nhân dân ta trong cách mạng tháng Tám 1945. Cuộc cách mạng đó là kết quả
của một quá trình lâu dài, gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ
Hồ Chí Minh. Bắt đầu bằng những cuộc khởi nghĩa từng phần lúc đầu ở căn cứ Cao Bắc - Lạng và sau đó lan nhanh ra khắp các tỉnh ở 3 miền nước ta.
Trên đà thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa từng phần, Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ
Hồ Chí Minh đã phát động tồn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở
Đông Nam Á.
Qua bài học giúp cho HS thấy được nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng trong
cơng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, thấy được sức mạnh đại đồn kết của
nhân dân ta trước kẻ thù ngoại xâm.
Bài học còn giúp rèn luyện cho HS các kỹ năng tự đọc SGK, tự nghiên cứu tài
liệu, kỹ năng trình bày, trả lời câu hỏi, kỹ năng sử dụng bản đồ, tranh ảnh trong SGK, lập
bảng niên biểu, vận dụng kiến thức giải quyết tình huống có vấn đề.
2.4.3. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm
Chúng tôi chọn nơi tiến hành thực nghiệm là trường THPT Tây Hồ, quận Tây Hồ,
Hà Nội. Đây là ngơi trường có nề nếp dạy và học của Hà Nội, có các lớp học chương
trình cơ bản. Trình độ HS các lớp đó tương đối đồng đều phù hợp cho việc thực nghiệm
đề tài.
Sau khi tìm hiểu đối tượng HS và thăm dò ý kiến của các GV dạy bộ môn chúng
tôi chọn lớp thực nghiệm như sau:
Lớp 12C là lớp thực nghiệm, lớp 12D là lớp đối chứng. Các lớp này được chọn
lựa để tiến hành thực nghiệm trên nguyên tắc: chất lượng và trình độ nhận thức bộ
mơn ngang nhau, có số lượng HS khơng q chênh lệch.
2.4.4. Tiến hành thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm chúng tôi sử dụng hai loại giáo án trên cơ sở dạy chung
cho một bài. Lớp thực nghiệm dạy theo giáo án có sử dụng các biện pháp rèn luyện kĩ
năng thực hành cho HS. Trước khi học bài mới HS đã được dặn dò đọc trước nội dung
sách giáo khoa, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu liên quan đến bài học như: bản tuyên ngôn độc
lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh năm
1945…
Đối với lớp đối chứng dạy theo giáo án bình thường, không sử dụng các biện pháp
rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS.
2.4.5. Kết quả thực nghiệm
Qua giờ thực nghiệm chúng tơi nhận thấy HS tích cực tham gia học tập, xây dựng
bài trên cơ sở sự hướng dẫn, điều khiển của GV. Sau khi kết thúc bài học ở cả lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng. Chúng tôi sử dụng giờ học sau để kiểm tra trình độ nhận thức
của cả hai lớp thông qua việc làm bài kiểm tra (phụ lục).
Sau khi chấm bài của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, xử lý số liệu chúng tơi có
kết quả sau đây:
Bảng kết quả kiểm tra thực nghiệm
Kết quả thực ngiệm
Loại
Lớp
nhóm
Số học
Khá, giỏi
sinh
Số
học
sinh
Thực
nghiệm
Đối
chứng
%
Trung bình
Yếu
Số
Số
học
sinh
%
sinh
học
%
12C
45
27
60
15
33,3
3
6,7
12D
46
15
32,6
21
45,6
10
21,8
Qua kết quả trên có thể khẳng định HS ở lớp thực nghiệm trả lời câu hỏi kiểm tra
tốt hơn lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ việc rèn luyện các kỹ năng thực hành cho HS sẽ
giúp HS nắm vững kiến thức hơn, rèn luyện cho HS kỹ năng làm bài tập tốt hơn. Điều đó
cũng khẳng định rằng việc rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS trong học tập lịch sử
nhất là phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1945 sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy
học nói chung và chất lượng giáo dục lịch sử dân tộc nói riêng.
KẾT LUẬN
Rèn luyện các kĩ năng thực hành lịch sử cho HS là một hoạt động có ý nghĩa trong
DHLS ở trường phổ thơng, góp phần vào việc hình thành nhân cách, đào tạo con người
phát triển toàn diện “học đi đôi với hành”.
Trong thực tiễn DHLS ở các trường phổ thơng nói chung, THPT nói riêng, việc rèn
luyện kĩ năng thực hành thường bị tách rời khỏi phương pháp truyền thụ kiến thức. Quan