Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Kỳ hoa dị thảo part 6 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.85 KB, 20 trang )

Bạch Công Tấn sưu tầm

tán bột mịn. Sa nhân, trần bì, nhục đậu khấu, mỗi vị 20g, sắc lấy nước đặc. Trộn
nước sắc này với bột thuốc trên và mật ong vừa đủ để làm thành dạng cốm. Trẻ
em từ 1-3 tuổi, mỗi ngày uống 12-16g chia 2 lần. Với trẻ lớn hơn, tăng liều tùy
theo tuổi (cốm bổ tỳ).

Hoài sơn (sao) 60g; phục linh, bạch biển đậu (sao) sơn tra, m
ạch nha, thần khúc,
đương quy, mỗi vị 45g; bạch truật (sao), trần bì, sử quân tử, mỗi vị 30g; hoàng
liên, cam thảo, mỗi vị 20g. Tán bột, rây mịn trộn với mật ong, làm viên. Mỗi lần
uống 3g. Ngày 2-3 lần (phì nhi hoàn).

Chữa bệnh suy yếu của người cao tuổi

Đảng sâm 40g; long nhãn, đương quy, ngưu tất, mạch môn, mỗi vị 12g. Sắc
uống ngày một thang. Hoặc thêm nhân sâm 4-8g uống riêng, nếu bệnh nặng
nguy cấp.

Hà thủ ô đỏ 10g, đại táo 5g; trần bì, sinh khương, mỗi vị 3g; thanh bì, cam thảo,
mỗi vị 2g. Sắc và chia làm 3 lần uống trong ngày.

Chữa suy nhược cơ thể ở người thiếu máu, phụ nữ sau sinh thiếu máu

Bạch thược 10g, đương quy 8g; quế chi, sinh khương, đại táo, mỗi vị 6g, đường
phèn 50g. Sắc các dược liệu lấy 200ml, cho thêm đường phèn vào và chia làm 3
lần uống trong ngày.

Hạt sen, sa sâm, mạch môn, kỷ tử, mỗi vị 12g; long nhãn 9g; tâm sen, táo nhân,
mỗi vị 8g; đăng tâm 6g. Sắc uống ngày một thang.



Một số bài thuốc từ tỏi
Để trị cảm, viêm họng, sổ mũi, nên dùng cồn tỏi nhỏ mũi hoặc gi
ã
tỏi cho ngửi. Cũng có thể giã tỏi, đổ cồn 70 độ, đốt cháy rồi trùm chăn xông cho
ra mồ hôi.

Theo Đông y, t
ỏi vị cay, tính ôn, hơi độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát
trùng, chữa khí hư, tiểu tiện khó, bụng đầy chướng, tiêu nhọt, đờm và hạch ở
phổi, tẩy uế.

Lưu ý: Tỏi kỵ mật (mật ong, mật mía).

Một số bài thuốc có vị tỏi:
Bạch Công Tấn sưu tầm


- Trị cảm lạnh, ho gà, hen phế quản: Giã nát tỏi, xoa ngực cho nóng lên. Ngày
làm 2-3 lần.

- Ho gà: Tỏi 5 củ, bóc vỏ, giã nát, đổ vào 150 ml nư
ớc sôi để nguội, ngâm trong 6
tiếng, chắt lấy nước, cho một ít đường trắng (hoặc đường phèn) uống 2 lần trong
ngày.

- Say nắng hôn mê: Giã nát tỏi, vắt lấy nước nhỏ vào mũi, kích thích niêm mạc
mũi cho hắt hơi, sẽ tỉnh.

- Tăng huyết áp: Lấy 500 g tỏi, bóc vỏ, cho 50 g muối để muối dưa. Sau 3 ngày

đem ra hong khô, cho vào lọ thủy tinh ngâm với giấm ăn, cho tí đường, ngâm 2-3
ngày là dùng được. Sáng sớm và tối trước khi đi ngủ ăn 1-2 tép tỏi và u
ống một tí
nước giấm ngâm tỏi. Ăn 15 ngày, nghỉ 3 ngày lại ăn tiếp. Huyết áp sẽ hạ xuống
một cách ổn định. Thuốc này cũng chữa viêm khí quản mạn tính và ho lâu ngày.

- Viêm xoang, viêm mũi dị ứng: Giã tỏi lấy nước cốt trộn với dầu vừng, nửa nọ
nửa kia. Rửa mũi bằng nước muối, lau sạch, lấy bông tẩm thuốc nhét vào.

- Viêm, đau khớp: Tỏi và lá lốt đun sôi để xông, sau đó ngâm khớp tay chân đau.
Nếu đau lưng, đầu gối thì lấy khăn nhúng nước thuốc nóng mà chườm. Ngày làm
2 lần sáng, tối, sẽ khỏi.

- Lỵ, tiêu chảy: Lấy 5 củ tỏi lớn bóc vỏ, sắc cùng 2 lạng củ cải, lấy nước uống
hằng ngày.

- Chảy máu cam: Giã vài tép tỏi đắp gan bàn chân (từ gốc ngón giữa đo xuống
bằng 3 đốt ngón tay giữa của bệnh nhân). Nếu chảy lỗ mũi phải, đắp gan bàn
chân trái và ngược lại. Nếu chảy máu cả 2 lỗ mũi thì đắp cả 2 gan bàn chân. Hết
chảy máu, bỏ tỏi, rửa chân sạch.

- Sưng vú: Dùng 50-100 g tỏi giã nhỏ, trộn với bột mì, đường đỏ, dùng nước ấm
trộn đều đắp nơi sưng, chỉ 1 ngày sẽ giảm.

- Giun đũa, giun kim: Giã nhỏ tỏi, trước khi đi ngủ xát vào hậu môn. Hoặc sắc 25
g tỏi với 1 lít nước, đun sôi 10 phút, ngày uống 30 ml. Cũng có thể dùng 2 củ tỏi
giã nhỏ, hòa với nước sôi, gạn lấy nước, thụt vào h
ậu môn ngay lúc giun kim đang
chòi ra, rất có hiệu quả.


Có thể trị các chứng đau sưng khớp, các bệnh đái tháo đường, trĩ, béo phì, b
ệnh ở
tim mạch, phế quản, hệ tiêu hóa bằng cách dùng rượu tỏi. Cách làm: Tỏi khô
Bạch Công Tấn sưu tầm

bóc vỏ 40 g, thái nhỏ, bỏ lọ, đổ vào 100 ml rượu trắng 45 độ. Sau 10 ngày dùng
được. Sáng uống 40 giọt trước khi ăn, tối uống 40 giọt trước khi đi ngủ (h
òa thêm
nước nguội mà uống). Ngâm uống liên tục.
Y học cổ truyền: Rượu tỏi phòng và chữa bệnh
Y học cổ truyền nhiều quốc gia trong đó có nước ta cũng đã dùng tỏi vào điều
trị nhiều loại bệnh có kết quả tốt
Y học cổ truyền: Rượu tỏi phòng và chữa bệnh

Tỏi là một gia vị đã được nhân dân ta dùng từ lâu đời.

Y học cổ truyền nhiều quốc gia trong đó có nước ta cũng đã dùng tỏi vào điều
trị nhiều loại bệnh có kết quả tốt.

Trong củ tỏi có chứa 0,10-0,36% tinh dầu, trong đó hơn 90% chứa các hợp
chất lưu huỳnh (S). Thành phần chủ yếu của tỏi là chất alixin có mùi đặc trưng
tỏi. Nhưng trong tỏi tươi không có chất alixin ngay, mà có chất aliin (một loại
acid amin) - chất này chịu tác động của enzym alinaza cũng có trong củ tỏi khi
giã giập mới cho alixin. Ngoài ra, củ tỏi còn chứa nhiều vitamin và chất
khoáng đặc biệt là selen. Theo y học cổ truyền, tỏi vị cay, tính ôn, hơi độc,
vào hai kinh can và vị, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, trừ phong,
thông khiếu, tiêu nhọt, tiêu đờm

Người ta có thể dùng tỏi bằng nhiều cách khác nhau, nhưng đặc biệt ở Ai Cập
thì hầu như nhà nào cũng dùng rượu tỏi. Vào thập kỷ 70 của thế kỷ 20, Tổ

chức Y tế Thế giới (WHO) nhận thấy Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa
mạc khắc nghiệt, nhưng sức khỏe chung của người dân lại vào loại tốt, ít bệnh
tật, tuổi thọ trung bình vào loại tương đối cao. Thấy đây là một hiện tượng lạ,
WHO đã cử nhiều chuyên gia y tế đến Ai Cập nghiên cứu. Các nhà y học đã
chia nhau về nông thôn và thâm nhập vào các vùng có khí hậu khắc nghiệt để
nghiên cứu, thu thập tài liệu có liên quan đến sức khỏe, bệnh tật. Họ có nhận
xét chung là nhà nào cũng có một hũ rượu ngâm tỏi để uống, từ nhiều thế kỷ
nay, người dân Ai Cập vẫn giữ được tập quán này. Tiếp đó, qua nhiều nghiên
cứu phân tích cho thấy rượu tỏi có thể chữa được 4 nhóm bệnh:

- Các bệnh xương khớp (viêm đau khớp, vôi hóa các khớp, mỏi xương
khớp ).
- Bệnh hô hấp (viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản ).
- Bệnh tim mạch (huyết áp cao, huyết áp thấp, xơ mỡ động mạch).
- Bệnh đường tiêu hóa (ợ chua, khó tiêu, viêm loét dạ dày - tá tràng).

Bạch Công Tấn sưu tầm

Cho tới năm 1983, các nhà nghiên cứu Nhật Bản lại thông báo bổ sung thêm 2
nhóm bệnh nữa là: các bệnh trĩ, bệnh tiểu đường, và nhận xét đây là loại thuốc
có hiệu quả chữa bệnh cao, không gây phản ứng phụ.

Cách bào chế rượu tỏi và uống như sau: Tỏi khô (đã bóc bỏ vỏ) 40g đem thái
nhỏ, cho vào chai ngâm với 100ml rượu trắng 40-45 độ, thỉnh thoảng lại lắc
chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ
10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được. Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống
40 giọt (tương đương một thìa cà phê) trước khi ăn; tối uống 40 giọt trước khi
ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp, để
ngày nào cũng có rượu tỏi dùng, uống liên tục suốt đời với một lượng rượu rất
nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được. Ở

nước ta, cũng đã có nhiều người áp dụng bài thuốc rượu tỏi của WHO, nhưng
liều lượng thì linh hoạt (thậm chí có người uống tới 3 thìa cà phê rượu tỏi/lần)
nhưng không thấy phản ứng phụ.

Những năm gần đây, các nhà khoa học ở nhiều nước đã nghiên cứu phát hiện
nhiều đặc tính trị liệu quý của tỏi. Nổi bật là tác dụng kháng khuẩn, hoạt tính
kháng nấm cũng đã được chứng minh - nghiên cứu dược lý thực nghiệm thấy
tỏi có phổ kháng khuẩn và kháng nấm rộng. Tác dụng kháng virut cũng đã
được nói đến. Với hệ tim mạch, những nghiên cứu mới cho thấy tỏi có tác dụng
làm giảm triglycerid và giảm hàm lượng cholesterol xấu (LDL), nhưng lại tăng
cholesterol tốt (HDL) do đó làm giảm các rối loạn chuyển hóa mỡ trong máu.
Tỏi có khả năng giúp cơ thể phòng ngừa được ung thư, đó là điều nhiều nhà
khoa học đã thừa nhận, song có điều trị được ung thư khi nó đã phát triển
thành khối u hay không thì chưa chứng minh được, còn cần nghiên cứu tiếp.

Tỏi có nhiều hữu ích, đó là điều rõ ràng. Tuy nhiên đã là thuốc thì phải tính đến
liều lượng thích hợp (thuốc dùng liều quá cao cũng có hại) và các phản ứng
phụ, không nên lạm dụng. Nếu dùng tỏi quá nhiều có thể gây hơi thở hôi, rối
loạn dạ dày - ruột, ức chế tuyến giáp Bởi vậy chỉ nên áp dụng bài thuốc rượu
tỏi với liều lượng mà WHO đã dày công nghiên cứu, phổ biến. Với liều lượng
ấy là có tác dụng phòng và chữa được nhiều bệnh, với cách dùng an toàn có
thể dùng hằng ngày một cách lâu dài.

BS. Vũ Định

Dùng thuốc Đông y, không cần kiêng nhiều
Cập nhật lúc 11h18" , ngày 08/02/2007
Bạch Công Tấn sưu tầm

Anh Vương (Dịch Vọng, Hà Nội) bị bệnh gan, khi đi cắt

thuốc Nam, lương y dặn kiêng thịt gà, cá chép và nội tạng
động vật. Anh ghét thịt bò, thịt lợn thì phải bỏ hết mỡ để
bớt gánh nặng cho gan nên ăn mãi cũng chán. Rốt cục,
Vương chẳng biết ăn gì để bồi dưỡng.
Khi đi cắt thuốc Đông y, hầu hết mọi người đều đư
ợc thầy
thuốc dặn kiêng một số thức ăn gì đó. Các lương y chủ
yếu tùy vào thể trạng của người bệnh để xác định thứ cần
kiêng. Nhưng cũng có người áp dụng "danh sách" thực
phẩm cấm kỵ cho mọi bệnh nhân. Có ông lang dặn đã
uống thuốc là phải kiêng thịt gà, có người yêu cầu kiêng
cá và các loại thủy sản, các vị chua cay, măng, rau muống
Theo thạc sĩ Tạ Văn Sang, Trung tâm Y dược Tinh Hoa (14 Nguyễn Như Đổ,
Hà Nội), việc kiêng kỵ khi dùng thuốc Đông y là cần thiết, nhưng cần theo thể
tạng và cơ địa của bệnh nhân chứ không áp dụng chung cho mọi ngư
ời. Chẳng
hạn, người tạng nhiệt hay đang bị các bệnh do nhiệt (mụn nhọt ) th
ì nên kiêng
những thực phẩm có tính nóng như cơm nếp, thịt gà, thịt chó, ớt, dứa, mít ,
những người tạng hàn hoặc mắc các bệnh do hàn (như rối loạn tiêu hóa gây
tiêu chảy) nên kiêng các thức ăn có tính lạnh như cua ốc
Ngoài ra, những người có cơ địa mẫn cảm thì được thày thuốc khuyên nên
tránh các thức ăn dễ gây dị ứng. "Danh sách" này khác nhau giữa các bệnh
nhân. Trong đó, các loại thủy hải sản hay được bác sĩ dặn kiêng vì trong thực
tế, đó là loại những thực phẩm dễ gây dị ứng nhất.
Kiêng không có nghĩa là nhịn
Theo thạc sĩ Sang, đến nay, sự tương tác giữa các thức ăn cụ thể đ
ối với Đông
dược chưa được khẳng định trong nghiên cứu khoa học nào. Việc dặn bệnh
nhân kiêng gì là do quan điểm riêng của từng thày thuốc, do đó không có sự

thống nhất, mỗi thày dặn kiêng vài thứ khác nhau.
"Nếu như người bệnh đến khám ở nhiều thày thuốc và áp dụng chính sách
kiêng cữ của tất cả họ thì đôi khi chẳng có gì mà ăn nữa. Trong khi đó, người
bệnh lại đang yếu và rất cần bồi dưỡng" - thạc sĩ Sang nói. Ngoài chất bột
đường, đạm và chất béo là những thứ sinh năng lượng, con người còn cần vô
số vi chất khác, mà phải ăn uống thật đa dạng mới tập hợp đủ.

Vì v
ậy, trong khi các tương tác của thực phẩm thông thư
ờng đối với thuốc (nếu
có) còn chưa được khẳng định rõ ràng, những người phải dùng thuốc dài ngày
nên nghĩ đến một nguy cơ rất hiển nhiên: Thiếu chất do kiêng quá nhiều thứ.
Tuy nhiên, ông Sang cho bi
ết, bệnh nhân đến điều trị bằng Đông y ở Trung tâm



Bạch Công Tấn sưu tầm

Y dược Tinh Hoa thường được khuyên kiêng ăn đậu xanh khi dùng thuốc. Cơ
sở của khuyến cáo này là: Nhiều nghiên cứu đã khẳng định, vỏ đậu xanh có tá
c
dụng giải độc rất cao nhờ khả năng làm giảm tác dụng của hóa chất. Do đó, nó
cũng có thể làm các hoạt chất trong Đông dược giảm hiệu quả.
(Theo VNE)


Cá chạch món ăn, vị thuốc chữa nhiều bệnh
Cá chạch còn gọi thu ngư. Trong đông y, chạch vị ngọt, tính bình có tác dụng
bổ khí huyết chống lão suy, tráng dương, thanh nhiệt trừ thấp. Chữa các bệnh

về gan mật, tụy, ngoài da, mẩn ngứa, trĩ. Là thức ăn quý của người già
Cá chạch món ăn, vị thuốc chữa nhiều bệnh
Cá chạch còn gọi thu ngư. Trong đông y, chạch vị ngọt, tính bình có tác dụng
bổ khí huyết chống lão suy, tráng dương, thanh nhiệt trừ thấp. Chữa các bệnh
về gan mật, tụy, ngoài da, mẩn ngứa, trĩ. Là thức ăn quý của người già.

Theo tây y, chạch giàu chất dinh dưỡng. Cứ 100g chạch có 16g đạm, 3,2g
đường, 2g chất béo, các vitamin A (70UI), B1 (0,01mg), B2 (0,03mg), P
(327mg), 17 axid amin, phần lớn dễ hấp thụ. Ngày nay chạch được xếp vào
thực phẩm màu đen có nhiều công dụng chống ôxy hóa nên được ưa chuộng
nhiều hơn. Nhớt của chạch có tác dụng tiêu viêm, kháng khuẩn mạnh nhưng
người ta ngại ăn.

Một số công dụng của chạch trong phòng chữa bệnh:
Cháo chạch của người già - Chống lão suy: Chạch tươi 300g-500g. Gạo tẻ
300g. Cháo sắp được cho chạch đã được ướp và xào sẵn vào cháo. Nấu tiếp
cho chín. Khi ăn cho gia vị, thơm, tiêu.

Canh chạch tráng dương: Lấy 5-6 con chạch loại to vừa, tươi sống. Làm
sạch nhớt, bỏ ruột, bảo toàn bộ xương! Đổ dầu rán mềm xương rồi cho thịt
chạch vào rán để khử bớt nước. Nên dùng ít dầu để khử tanh. Thêm 300ml
rượu hoặc 600ml nước. Vài lát gừng. Dùng lửa nhỏ đun lâu đến lúc nước
thang có màu trắng sữa và còn lại 1/2 là được. Bỏ lớp dầu trắng sữa, phần
nước và thịt còn lại cho muối vừa ý, ăn cái và nước canh thang. Thang canh
này dùng tốt cho người kém ăn, xanh xao, thiếu máu, nghiện rượu, bệnh gan,
suy nhược thần kinh và thể lực.

Cháo chạch chữa nam giới liệt dương, nữ giới đới hạ: Chạch 250g, nhục
quế và phụ phiến 10g, gừng tươi 5 lát. Gạo tẻ lùn 100g. Muối tinh vừa đủ. Cho
quế phụ vào túi vải đổ nước, nấu lấy nước bỏ bã. Chạch làm sạch nhớt, bỏ đầu

ruột, lóc lấy thịt. Nấu cháo bằng nước thuốc và chạch. Cháo chín cho gừng,
Bạch Công Tấn sưu tầm

muối nấu sôi lại. Ăn nóng (thận trọng tìm mua phụ phiến tốt, bào chế đúng cách
để tránh ngộ độc).

Chạch hầm lạc: Chữa suy nhược, thiếu máu. Dùng chạch 250g. Thịt lợn nạc
50g, lạc nhân 100g, gừng 5g, tiêu bột 5g, nước 200ml. Rán qua chạch, cho
nước, thịt, gừng đun to lửa 10 phút rồi hầm nhừ thịt đến khi nước còn 1/2. Nêm
gia vị.

Chạch với tỏi chữa phù thũng: Dùng chạch (hết nhớt, bỏ xương) với tỏi
lượng vừa ăn, xào nấu không dùng muối. Ăn liền 2-3 ngày.

Canh chạch chữa tiêu khát (tiểu đường): Chạch (làm sạch hết nhớt, bỏ
xương, ruột) nấu canh với lá sen non (chưa hoặc mới nở) lượng tùy ý.

Chạch 10 con (làm sạch nhớt, bỏ xương, ruột) lá sen khô và đủ. Chạch phơi
chỗ mát (âm can) cho khô. Bỏ đầu đuôi, đốt thành than. Lá sen tán bột. Trộn
hai thứ với nhau. Mỗi lần dùng 10g. Ngày 3 lần. Uống với nước đun sôi để
nguội.

Canh chạch thanh nhiệt giải độc, trừ mẩn ngứa
Chạch 30g (bỏ ruột), giun đất khô 10g, rau sam 50g sắc nước uống bỏ bã.
Ngày 1 lần.
Chạch 30g, đại táo 15g, gia vị vừa đủ. Nấu canh ăn ngày một thang, liền 10
ngày.

Chạch chữa các bệnh về gan
Viêm gan cấp: Chạch sấy khô gần như than, nghiền bột. Mỗi lần uống 15g.

Ngày 3 lần sau bữa ăn. Trẻ em dùng liều 1/2.

Viêm gan mạn: Chạch 150g (bỏ ruột, xương) thái mỏng. Mộc nhĩ đen 2,5g, rau
kim châm 15g. Tất cả nấu chín. Ăn nóng chia 2 lần trong ngày.

Viêm gan vàng da: Chạch 5 con, đậu phụ một miếng, hầm chạch với đậu phụ
cho nhừ. Ngày ăn 2 lần.

Ung thư gan: Chạch 500g, thịt lợn nạc 160g, nhau thai một cái, đông trùng hạ
thảo 40g, trần bì 10g, ít nước. Chạch làm sạch nhớt, bỏ đầu rửa sạch cho dầu
vào rán vàng rồi vớt ra. Các thứ còn lại đều rửa sạch. Đun nước sôi rồi bỏ vào.
Đun sôi lại, hầm vài tiếng, nêm muối. Có tác dụng kiện tỳ, khai vị, bổ can thận,
ích âm, lợi khí. Thích hợp với người bị ung thư gan, gầy yếu mệt mỏi, đuối sức,
ăn kém, ngại nói, đau lưng, mỏi gối

Canh chạch hoàng kỳ: Chữa búi trĩ chảy xuống, đau đớn. Cá chạch 100g làm
sạch (hết nhớt) bỏ ruột, xương cho vào nồi, 30g hoàng kỳ, một chén rượu gạo.
Nước vừa đủ nấu chín ăn.
Bạch Công Tấn sưu tầm


Chạch chữa mồ hôi trộm
- Người lớn: Chạch 250g, rượu gạo, lượng vừa đủ, chạch làm hết nhớt, bỏ ruột,
xương, nấu với rượu cho chín để ăn.

- Trẻ em: Chạch 90-120g làm sạch nhớt, bỏ ruột, rán vàng rồi cho vào một bát
rưỡi nước, ít muối vào nấu thành canh. Ngày ăn một lần. Ăn liền 3 ngày.

BS. Phó Đức Thuần


Vừng: vị thuốc quý
Cây vừng còn gọi là cây mè, chữ Hán lại gọi là Chima, và hạt vừng được gọi
tên là Chi ma tử. Sử sách chép rằng, cây vừng vốn ở nước Hồ (tên xưa kia của
Ấn Độ), vì vậy người Trung Hoa còn gọi cây vừng (kể cả vừng đen) là Hồ ma
và hạt vừng là Hồ ma tử
Vừng: vị thuốc quý

Cây vừng còn gọi là cây mè, chữ Hán lại gọi là Chima, và hạt vừng được gọi
tên là Chi ma tử. Sử sách chép rằng, cây vừng vốn ở nước Hồ (tên xưa kia của
Ấn Độ), vì vậy người Trung Hoa còn gọi cây vừng (kể cả vừng đen) là Hồ ma
và hạt vừng là Hồ ma tử. Ngoài ra vừng còn được gọi với nhiều tên khác nhau
như Du tử miêu, Duma, Cẩu sát, Cự thắng…

Theo sách Bản thảo cương mục thì hạt vừng bổ dưỡng ngũ tạng, chưng với
mật ong chữa được nhiều bệnh.

Với Nam dược thần hiệu thì: “Hạt vừng vị ngọt, tính hàn, không độc, chất trơn,
nhuận tràng, giải độc, tiêu nhiệt kết, sát khuẩn, có tác dụng thúc sản phụ sinh,
chữa mụn lở rất công hiệu”.

Vừng có hai loại trắng và đen, trong đó vừng đen có nhiều dược tính hơn nên
được dùng làm thuốc chữa bệnh. Vừng đen vị ngọt, tính bình, tác dụng dưỡng
huyết, nhuận táo, bổ ngũ tạng, hư nhược, ích khí lực, đầy tủy não, bền gân cốt,
sáng mắt, thêm thông minh, dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao
dán nhọt.

Lá vừng vị ngọt, tính lạnh có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê
thấp. Nấu lá vừng làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt,
da mặt thêm tươi tắn. Nếu giã lá vừng tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được
bệnh rong huyết.

Bạch Công Tấn sưu tầm


Để giúp bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần, chúng tôi xin giới thiệu cụ thể
một số phương thuốc chữa trị từ vừng, tùy hoàn cảnh mà sử dụng.

Làm thuốc bổ dùng cho mọi bệnh (uống kết hợp): Vừng đen, lá dâu non,
lượng 2 thứ như nhau, đem tán bột vo thành viên, dùng uống hàng ngày.

Chữa ngã, đau nhức, bầm tím: Dùng dầu vừng hòa lẫn rượu uống sẽ khỏi.

Chữa rết cắn: Nhai vài hạt vừng đắp vào vết cắn băng lại.

Chữa táo bón: Uống 1 chén dầu vừng hoặc mỗi buổi sáng ăn một nắm hạt
vừng là khỏi, hoặc có thể nấu cháo vừng ăn cho dễ.

Chữa sinh khó vì khô nước ối: Lấy dầu vừng với mật ong, mỗi thứ 1 bát (bát
ăn cơm), đem đun sôi vài lần, vớt bỏ bọt, sau lấy trộn cùng hoạt trạch 40g và
cho sản phụ uống, thai sẽ thoát ra (theo Nam dược thần hiệu).

Chữa bỏng: Lấy dầu vừng hay nhai vừng đen sống, đắp vào nơi bỏng rất hiệu
nghiệm, chóng lên da non.

Chữa kiết lỵ mới phát: Ăn sống vừng đen mỗi ngày 30g. Ăn trong 3 ngày.

Chữa điên cuồng: Theo Nam dược thần hiệu, lấy dầu vừng 160g, rượu 1 bát,
cho hòa lẫn rồi đun lên; lấy 20 cành dương liễu, dùng từng cành khuấy 2 lần
vòng tròn, đến khi thấy rượu và dầu vừng còn lại 8/10 thì cho người bệnh uống
để có thể nôn ra và ngủ say, đừng đánh thức, cứ để ngủ yên, đợi khi thức dậy
sẽ tỉnh.


Chữa trúng nắng ngất xỉu: Lấy 40g vừng đen sao gần cháy, để nguội, tán bột
và cho uống, mỗi lần uống 12g, chiêu với nước mới mục (tân cấp thủy) rất
công hiệu (theo Nam dược thần hiệu).

Chữa ngộ độc nặng: Cho uống dầu vừng một bát, chất độc sẽ được nôn ra
(theo Nam dược thần hiệu).

Chữa chứng ói mửa: Lấy 1 bát hạt vừng, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội,
ép lấy nước cốt. Khi uống, pha thêm chút muối, bệnh sẽ lành (theo Ngoại đài bí
yếu).

Chữa chứng thương hàn vàng da (theo Ngoại đài bí yếu): Dùng hạt vừng
đen còn tươi giã nát, ép lấy đủ một tách trà dầu, thêm nửa tách trà nước và 1
lòng trắng trứng gà, khuấy đều, cho uống hết một lần, uống vài lần sẽ khỏi.
Bạch Công Tấn sưu tầm


Chữa bụng đầy trướng: Vừng đen 1 bát (ăn cơm), nấu thành cháo, thêm ít
muối và một miếng vỏ quýt thái nhỏ, múc ra để hơi nguội, húp ăn sẽ khỏi.

Chữa rụng tóc: Vừng một bát, rang chín tán nhuyễn, thêm đường, nấu uống
nhiều lần, tóc sẽ đen mượt, hết rụng.

Chữa thiếu sữa (theo Tế thế kỳ phương): phụ nữ sau sinh, sữa không đủ cho
trẻ bú: Lấy 40g vừng đen rang nở trên muối ăn, sau đó đem giã nhỏ chấm xôi
hay cơm nếp ăn rất hiệu nghiệm.

Chữa tiểu ra máu (theo Nam dược thần hiệu): Nguyên nhân là do hỏa uất của
tâm đưa nhiệt xuống tiểu trường mà sinh ra chứng tiểu ra máu. Lấy 40g vừng

đen, giã nát, ngâm với 80g nước đang chảy (gọi là trường lưu thủy) sau 1 đêm,
sáng hôm sau vắt lấy nước uống thì khỏi (có thể dùng nước sôi để nguội thay
nước đang chảy, nếu ngại nước không hợp vệ sinh).

Chữa đinh nhọt chảy máu: Theo Ứng nghiệm lương phương, uống một tô
dầu vừng là cầm.

Chữa mụn nhọt lở loét: Lấy 1 vốc vừng đen, rang, tán nhỏ, rửa sạch máu mủ
trên nhọt bằng nước muối ấm, sau đó đắp bột vừng lên vết nhọt vài lần sẽ khỏi.

Chữa đau lưng: Đau lưng do thận suy hay phong hàn thấp: Vừng đen 40g sao
cháy, tán bột, mỗi lần uống 12g với rượu hoặc mật hay nước gừng, uống vài
ba lần sẽ khỏi (theo Nam dược thần hiệu).

Chữa kiết lỵ mãn tính: Lấy 1 bát hạt vừng đen giã nhỏ, sau đó nấu kỹ pha
thêm chút mật ong, uống ngày 2 lần, dùng vài ngày sẽ khỏi.

Chữa nhũ ung: Chứng này gặp ở phụ nữ sau sinh, tuyến sữa bị tắc nghẽn làm
vú sưng to, đau nhức (áp-xe vú). Dùng hạt vừng tươi nhai nhuyễn rồi đắp lên
nơi vú sưng đau vài lần sẽ khỏi.

Chữa viêm đại tràng mạn: Vừng đen 40g rang bốc mùi thơm và 1 bát mật
mía, mỗi lần uống 1 thìa canh vừng trộn lẫn với 1/3 thìa canh mật, uống ngày 2
lần, uống liên tục trong một tháng sẽ khỏi.

Chữa chân tay đau buốt hơi thũng: Đây là chứng do thấp nhiệt thâm nhiễm
làm chân tay đau buốt và hơi thũng. Cách chữa là dùng 40g vừng đen, rang có
mùi thơm, tán bột, đổ vào 40g rượu, ngâm trong một đêm, chia đều uống nhiều
lần, bệnh sẽ giảm dần và khỏi (theo Nam dược thần hiệu).


Chữa thai chết lưu không ra: Lấy 40g dầu vừng và 40g mật nứa, đổ lẫn vào
Bạch Công Tấn sưu tầm

nhau, thêm nước nấu lên, sau lấy ra uống, thai sẽ ra khỏi bụng (theo Phổ tế
phương).

Chữa tai bỗng dưng điếc: Thường do thận bị bệnh làm thận khí và tâm khí
không lưu thông với nhau bình thường. Lấy dầu vừng nhỏ vào tai vài giọt, nhỏ
mỗi ngày đến khi nào hết điếc thì thôi (Nam dược thần hiệu).

Chữa sau sinh bị xổ ruột: Lấy giấy tẩm dầu vừng, đốt cháy lên rồi thổi tắt để
xông khói vào mũi sản phụ, ruột sẽ rút thu vào như cũ (theo Y học chuẩn
thằng).

Chữa đau tim khi đang mang thai: Theo Thiên kim phương, lấy một vốc hạt
vừng sắc với hai chén nước, khi còn độ 6 phần thì lọc bỏ bã lấy nước uống hết,
rất hay.

Chữa khó sinh: Lấy 1 tách dầu vừng hòa 1 tách mật ong, sắc còn lại một nửa
cho uống, uống 3 lần sẽ sinh được (theo Phổ tế phương).

Chữa đau răng: Đau răng do hỏa vượng, phát nhiệt gây nên, cần dùng vừng
đen sắc với 3 bát nước, còn lại 1 bát chia đều mà ngậm và xúc miệng nhiều lần
trong ngày, chỉ cần hai lần sẽ khỏi.

Chữa cổ họng sưng đau, nói khó, nuốt đau: Dùng dầu vừng, ngậm và nuốt
từ từ, thường xuyên rất hiệu nghiệm.

Chữa âm hộ ngứa, sinh lở: Lấy vài hạt vừng nhai nhuyễn đắp vào nơi lở vài
lần là khỏi.


Chữa sốt nóng ở trẻ em: Khi trẻ sốt nóng, lấy một chén dầu vừng, chế thêm
chút nước cốt của củ hành, khuấy đều, dùng thoa đầu, mặt, cổ, gáy, ngực,
lưng, và lòng 2 bàn tay, 2 bàn chân sốt sẽ dịu.

Chữa chứng đơn độc ở trẻ em: Chứng đơn độc ở trẻ là bỗng nhiên thấy trẻ
bị sưng đỏ ở mặt, mình, tay, chân… và ngứa, nóng rất khó chịu, nằm ngủ
không yên. Khử bệnh mới phát phải dùng dầu vừng bôi vào khắp người là khỏi.

Chữa phù thũng độc mới phát: Nguyên nhân là do chất độc trong người tụ lại
làm sưng người, kết thành những cục cứng gây đau nhức. Lấy một chén dầu
vừng cho thêm nước cốt hành vào rồi cô đặc, khi thấy nước cô có màu đen là
được, lấy đắp vào nơi sưng đau khi còn nóng vừa, chỗ sưng sẽ tiêu ngay.

Chữa ung nhọt phá miệng lâu ngày không thu miệng: Dùng vừng đen sao
cháy, tán bột, rắc vào miệng nhọt vài lần nhọt sẽ thu miệng, phương pháp này
theo Nam dược thần hiệu rất hay.
Bạch Công Tấn sưu tầm


Chữa ung nhọt độc: Cũng theo Nam dược thần hiệu lấy 40g dầu vừng nấu
sôi một lúc lâu thì đổ thêm vào một bát ăn cơm giấm thanh. Sau chia ra 5 phần,
mỗi lần uống 1 phần rất công hiệu.

Chữa tóc xấu, ngắn, khô, không đen mượt: Có thể dùng một trong hai cách
sau:

Cách 1: Lấy 40g dầu vừng nấu với một nắm lá dâu tươi, khi dầu sôi kỹ, lá dâu
chín nhừ vớt bỏ lá dâu, lấy dầu này sát lên tóc và da đầu, kiên trì hàng ngày sẽ
thấy tóc mọc dài, đen mượt rất đẹp.


Cách 2: Lấy một nắm lá vừng, một nắm lá dâu và 40g nước gạo cho vào siêu
nấu lên, dùng nước này gội đầu, sau 7 lần gội sẽ hiệu quả.

Chữa tay chân sưng đau do lội nước quá lâu: Lấy hạt vừng sống giã
nhuyễn, đắp vào nơi sưng đau vài lần là khỏi.

Chữa lang ben trắng: Dùng 1 chén dầu vừng hòa với rượu uống ngày 3 lần,
uống đến khi khỏi.

Chữa rết cắn: Lấy hạt vừng nhai nhuyễn đắp vào, chỉ chốc lát là hết sưng đau.

BS. Hoàng Xuân Đại


Bài thuốc, món ăn chữa viêm tuyến tiền liệt
Cập nhật lúc 14h19" , ngày 14/02/2007
Viêm tuyến tiền liệt mãn (VTTLM) là một bệnh thường gặp
ở nam giới độ tuổi trưởng thành. Theo một số liệu thống kê
gần đây ở Trung Quốc, có tới 30%- 40% nam giới ở tuổi
trên 30 bị mắc căn bệnh này.

Nguyên nhân:
- Tuyến tiền liệt (TTL) sung huyết là một trong số những
nguyên nhân dễ dẫn đến VTTLM nhất. Vì vậy, trong sinh hoạt thường ngày,
cần đặc biệt lưu ý tới những tình huống dễ dẫn đến sung huyết TTL, như sau:
Ham muốn tình dục quá độ, thủ dâm quá nhiều, hoặc giao hợp bị gián đoạn, vì
một số nguyên nhân nào đó ; Huyệt “hội âm” (ở giữa hậu môn và tinh hoàn) b

chèn ép trực tiếp, do đi xe đạp, xe máy, cưỡi ngựa, ngồi quá lâu

- Rượu có thể khiến cho TTL bị sung huyết và dẫn đến trạng thái hưng phấn
tình dục tạm thời.
- Bị cảm lạnh: Khi bị lạnh, thần kinh giao cảm trong TTL bị kích thích, khiến áp

Cây Nga truật


Bạch Công Tấn sưu tầm

lực niệu đạo gia tăng, kích thích TTL gây nên sung huyết.
Các triệu chứng thường gặp trong VTTLM có thể phân loại theo những nhóm
như sau:
- Cảm giác dị thường ở đường tiểu: Tiểu tiện nhiều lần, nhất là về đêm; triệu
chứng này thường xuất hiện sớm nhất và kéo dài lâu ngày. Tiểu tiện gấp (niệu
cấp), cảm giác mót tiểu xuất hiện đột ngột, phải tiểu tiện ngay. Tiểu tiện đau
hoặc buốt, nhất là khi bắt đầu đi tiểu hoặc tiểu tiện gần xong.
- Nước tiểu biến đổi: Thẫm màu hoặc vẩn đục. Một số bệnh nhân, nước tiểu
có màu trắng như sữa. Có người sáng dậy thấy có chất dịch dính ở đầu niệu
đạo. Một số người khi đi xa về, sau khi làm việc nặng, hoặc khi đi đại tiện,
thấy có chất dịch rỉ ra ở niệu đạo.
- Đau cục bộ: Đau tức ở vị trí “hội âm”, giang môn, sau niệu đạo; có thể đau
tinh hoàn hoặc dương vật, đau lan lên vùng xương mu, thắt lưng, bẹn, phía
trong đùi
- Chức năng tình dục dị thường: Dương vật bột khởi thất thường, xuất tinh
sớm, rối loạn cương

Phương pháp chữa trị:
1. Thể thấp nhiệt:
Triệu chứng: Đái gấp, đái nhiều lần, niệu đạo nóng rát, khi nước tiểu ra hết
hoặc khi đại tiện ở đầu niệu đạo có những giọt dịch trắng tiết ra; vùng bụng

dưới, vùng xương sống dưới thắt lưng, huyệt hội âm, tinh hoàn có cảm giác
đau tức khó chịu; miệng khô đắng, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác (trơn,
nhanh).
Phép chữa: Thanh nhiệt lợi thấp.
Bài thuốc tiêu biểu (Tỳ giải phân thanh ẩm gia giảm): Tỳ giải 10g, xa tiền thảo
10g, phục linh 10g, đan sâm 10g, hoàng bá 6g, ý dĩ nhân 10g, hậu phác 10g,
liên tâm 10g, xương bồ 10g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 ph
ần
uống trong ngày.
Món ăn hỗ trợ (Cháo hoạt thạch): Hoạt thạch 30g, cù mạch 50g, gạo tẻ 50g,
hành trắng 4 củ, mắm muối lượng thích hợp. Trước hết sắc cù mạch lấy nước,
bỏ bã; cho gạo vào nấu đến khi cháo chín, thêm hành, bột hoạt thạch, mắm
muối vào trộn đều, chia 3 lần ăn trong ngày.
2. Âm hư hỏa động:
Triệu chứng: Lưng gối mỏi yếu, đầu choáng mắt hoa, đêm ngủ hay di tinh.
Khi đại tiểu tiện thường có chất dịch trắng tiết ra ở đầu niệu đạo. Dương vật
dễ bột khởi. Một số trường hợp, hơi có chút xung động tình dục, dịch trắng đã
Bạch Công Tấn sưu tầm

rỉ ra ở đầu niệu đạo; tinh dịch có thể lẫn máu. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch
huyền tế sác (căng nhỏ nhanh).
Phép chữa: Thanh hỏa, dưỡng âm, bổ thận.
Bài thuốc tiêu biểu (Tri bá địa hoàng thang gia giảm): Tri mẫu 15g, hoàng bá
6g, sinh địa 12g, ngô thù du 10g, sơn dược 20g, đan bì 10g, phục linh 10g,
trạch tả 10g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong
ngày.
Món ăn hỗ trợ (Cháo sơn dược địa hoàng): Sơn dược 20g, sinh địa 30g, nhục
thung dung 15g, gạo tẻ 100g. Sắc 3 vị thuốc lấy nước (bỏ bã), cho gạo vào n
ấu
cháo, thêm mắm muối cho vừa miệng. Chia thành 2-3 lần ăn trong ngày, liên

tục 7 ngày (một liệu trình).
3. Thận dương hư suy:
Triệu chứng: Lưng mỏi, gối lạnh yếu, rối loạn cương, xuất tinh sớm, di tinh.
Tinh thần uể oải, đầu chi lạnh. Làm việc hơi nặng nhọc một chút là dịch trắng rỉ
ra ở đầu niệu đạo. Chất lưỡi nhạt, bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm nhược (chìm
yếu).
Phép chữa: Bổ thận trợ dương.
Bài thuốc tiêu biểu (Hữu quy hoàn hợp kim tỏa cố tinh gia giảm): Sinh địa 10g,
thục địa 10g, sơn dược 10g, phục linh 10g, tục đoạn 10g, kim anh tử 15g, ngũ
bội tử 12g, ích trí nhân 10g, thỏ ty tử 15g, đỗ trọng 10g, câu kỷ tử 10g, đương
quy 10g, nhục quế 4g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 ph
ần uống
trong ngày.
Món ăn hỗ trợ (Cháo lộc giác giao): Lộc giác giao 15-20g, gạo tẻ 100g, gừng
tươi 3g. Gạo vo sạch, nấu cháo, khi cháo chín cho gừng, lộc giác giao vào trộn
đều, thêm mắm muối cho vừa miệng, ăn khi cháo còn ấm.
4. Khí huyết ứ trệ:
Triệu chứng: Bệnh kéo dài lâu ngày không khỏi, đau ở vùng bụng dưới,
xương sống phía dưới thắt lưng, hoặc tinh hoàn; hội âm trướng đau; hoặc có
niệu huyết (nước tiểu lẫn máu), huyết tinh (tinh dịch lẫn máu). Chất lưỡi tím có
điểm ứ huyết. Mạch trầm sáp (chìm, rít).
Phép chữa: Hoạt huyết hóa ứ.
Bài thuốc tiêu biểu (Bài thuốc của Khoa tiết niệu, Quảng An Môn y viện): Đào
nhân 10g, hồng hoa 10g, xích thược 10g, đan sâm 20g, trạch lan 10g, vương
bất lưu hành 10g, nguyên hồ 10g, xuyên sơn giáp 5g, ngưu tất 10g, đ
ương quy
Bạch Công Tấn sưu tầm

10g. Nếu tuyến tiền liệt bị xơ cứng, cần thêm tam lăng 6g, nga truật 6g, tạo
giác thích 6g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong

ngày.
Món ăn hỗ trợ (Cháo đan sâm vương bất lưu hành): Vương bất lưu hành 20g,
đan sâm 15g, đào nhân 15g, gạo tẻ 100g. Sắc các vị thuốc lấy nước nấu cháo,
chia thành 3 phần ăn trong ngày.



Nấm Hồng chi Đà Lạt chữa được bệnh hiểm nghèo
Cập nhật lúc 09h33" , ngày 23/02/2007
Tác dụng trong điều trị hội chứng rối loạn Lipid máu của
nấm Hồng chi Đà Lạt không thua kém so với nấm Hồng chi
của Nhật Bản và Hàn Quốc trong khi giá thành lại rẻ hơn
nhiều. Hiện nấm của Đà Lạt chỉ có 200.000đồng/kg.

Sau khi cùng các nhà khoa học y dược trong nước sang
Trung Quốc tìm hiểu về những loại thuốc quý điều chế từ
nấm, BS Phạm Thị Bạch Yến - Phó Giám đốc Sở Y tế Lâm
Đồng nảy sinh ý tưởng tìm kiếm phát hiện tác dụng điều trị
bệnh hiểm nghèo của một số loài nấm quý tại Đà Lạt.
Năm 2005, nấm Hồng chi Đà Lạt (Ganoderma lucidum) ở dạng cao lỏng được
sử dụng thử nghiệm trên chuột và thỏ với liều lượng tăng dần. Sau đó, các nh
à
khoa học tiến hành nghiên cứu lâm sàng ở 80 bệnh nhân có biểu hiện của hội
chứng rối loạn lipid máu tại Bệnh viện YHCT Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện
Đa khoa Lâm Đồng.
Nhóm bệnh nhân dùng viên nấm Hồng chi Đà Lạt cho kết quả điều trị tốt là
62,5%, cao hơn 7,7% so với nhóm bệnh nhân dùng Lipanthyl (Fenofibráte) -
biệt dược có tác dụng điều trị rối loạn lipid máu do hãng Founier của Pháp sản
xuất.
100% bệnh nhân sau 40 ngày dùng viên nấm Hồng chi Đà Lạt đều không bị

ảnh hưởng đến chức năng gan, thận. Một số bệnh nhân ở nhóm dùng viên
Lypanthyl, chức năng gan và thận bị ảnh hưởng.
Kết quả phân tích thành phần hoá học của nấm Hồng chi Đà Lạt chủng DL1
cho thấy có 6 nhóm chất (Saponin, Sterol, Flavonoid, Acid amin, Polysaccarid,
Alcaloid) như n
ấm Linh chi của Nhật Bản, trong đó Saponin và Steron có tác
dụng ức chế sinh tổng hợp cholesterol máu. Về tác dụng sinh học, các nhà
khoa học đã chứng minh nấm Hồng chi Đà Lạt có thể chống oxy hóa với hoạt
tính khá cao.

Nấm Hồng chi Đà
Lạt


Bạch Công Tấn sưu tầm

Lưu hành rộng rãi nấm Hồng chi dạng viên
Theo BS Bạch Yến, để khẳng định thương hiệu nấm Hồng chi Đà Lạt chủng
DL1 trên thị trường trong và ngoài nước, Sở Y tế và Sở KH&CN Lâm Đồng n
ên
tiếp tục tạo điều kiện nghiên cứu trên lâm sàng tại các bệnh viện địa ph
ương và
trung ương với cỡ mẫu lớn hơn,
ở các liều khác nhau để chọn ra một liều thuốc
có hiệu quả nhất.
Trên cơ sở đó, các nhà khoa học sẽ xây dựng quy trình sản xuất và đ
ề nghị Bộ
Y tế cho phép lưu hành rộng rãi nấm Hồng chi Đà Lạt dưới dạng viên.
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy Đà Lạt - Lâm Đồng là nơi
có số loài nấm Linh chi phong phú nhất Việt Nam (hơn 20 loài), trong đó Linh

chi màu đỏ - Hồng chi (hay còn gọi là xích chi, đơn chi…) đã được phát hiện
trong điều kiện tự nhiên từ những năm 1990 với ký hiệu được công nhận quốc
tế là DL.
Tác dụng chữa bệnh của nấm Hồng chi Đà Lạt không thua kém so với nấm
Hồng chi của Nhật Bản và Hàn Quốc trong khi giá thành lại rẻ hơn nhiều. Hiện
nấm của Đà Lạt chỉ có 200.000đồng/kg, trong khi sản phẩm của Nhật Bản và
Hàn Quốc từ 1 - 1,5 triệu đồng/kg.
Đà Lạt có khí hậu, thời tiết quanh năm mát mẻ, thích hợp cho việc nuôi trồng
nấm Linh chi, đặc biệt là Hồng chi. Các nhà chuyên môn cho rằng chính quyền
địa phương nên tiến hành qui hoạch diện tích thích đáng tạo điều kiện phát
triển nghề này.


Lợi và hại của ớt
Cập nhật lúc 10h43" , ngày 27/02/2007
Vị cay trong ớt có tác dụng giảm đau hiệu quả, hỗ trợ
chữa bệnh đau đầu do thần kinh. Tuy nhiên, việc ăn quá
nhiều ớt sẽ làm đau dạ dày, gây chảy máu ở bệnh nhân
trĩ.
Lợi
So với cam, ớt giàu hơn hẳn về lượng vitamin C, sắt, canxi, phốt pho và
vitamin nhóm B. Mỗi 100 g ớt cay tươi chứa tới 144 mg vitamin C, đứng đầu
trong các loại rau tươi. Lượng vitamin C phong phú có thể khống chế bệnh tim
mạch, xơ cứng động mạch và giảm cholesterol.
Trong ớt cay có tới 1390 mg beta-caroten - một trong những nguồn tốt nhất
cung cấp caroten, diệp hoàng tố, là chất chống ôxy hóa có tác d
ụng chống cảm
mạo, phong hàn.



Bạch Công Tấn sưu tầm

Khi cắn một miếng ớt, vị cay kích thích mạnh sẽ khiến não bộ bài tiết chất hóa
học làm giảm bớt đau đớn và sinh ra một chút khoái cảm. Gần đây, đã có
người thử dùng ớt cay để chữa trị chứng bệnh đau đầu nghiêm trọng mang
tính thần kinh và hiệu quả rất tốt.
Ớt cay không những hữu dụng đối với người bị phong hàn mà trong việc điều
chỉnh mỡ máu cũng rất có tác dụng. Các nghiên cứu của nước ngoài đã cho
thấy chuột sau khi ăn đồ ăn có ớt, lượng cholesterol trong máu giảm rõ rệt.
Trong ớt cay có những chất đặc biệt có thể đẩy nhanh sự trao đổi chất để đạt
được hiệu quả đốt chất béo trong cơ thể, nên có tác dụng trong việc giảm béo.
Chất này còn có thể thúc đẩy bài tiết hoóc môn nên cũng có tác dụng làm đẹp
da.
Hại
Trong ớt cay có rất nhiều vitamin C, nhưng do chất này không chịu nhiệt, dễ bị
phá vỡ nên khi nấu nướng, phần lớn vitamin C đều hòa tan vào trong thức ăn
hoặc bị phân tách.
Ớt tuy có nhiều tác dụng tốt nhưng chỉ nên ăn với một lư
ợng vừa đủ, bởi lẽ nếu
ăn nhiều sẽ có hại với cơ thể. Cái chát trong ớt sẽ kích thích mạnh đến niêm
mạc dạ dày, gây đau bụng, đi ngoài và chảy máu khi bị trĩ.
Ngoài ra, người bị cao huyết áp, viêm họng, viêm thực quản, viêm loét dạ dày,
trĩ nên ít ăn hoặc không ăn ớt.



SỨC KHOẺ -> Y HỌC CỔ TRUYỀN

Chống béo phì và tiểu đường nhờ đậu nành đen
Cập nhật lúc 10h21" , ngày 28/02/2007

Các nhà khoa học Hàn Qu
ốc cho biết, chế độ dinh
dưỡng giàu đậu nành đen có thể giúp chúng ta
kiểm soát thể trọng, hạn chế chất béo và phòng
bệnh tiểu đường. Loại hạt ít chất béo nhưng giàu
chất xơ hòa tan này còn làm giảm hàm lượng
cholesterol trong máu.
Sau khi cho 32 con chuột dùng chế độ ăn nhiều
chất béo với hàm lượng đậu nành đen khác nhau
trong khoảng 1 tháng, các nhà nghiên cứu nhận thấy những con chuột hấp
thu 10% năng lượng từ đậu nành đen ch
ỉ tăng cân bằng một nửa so với các
con không ăn đậu nành đen.



Bạch Công Tấn sưu tầm


Hàm lượng cholesterol của chúng cũng giảm 25% và cholesterol “x
ấu” giảm
đến 60%. Các chuyên gia cho biết nguồn prôtêin dồi dào trong đậu nành có
tác dụng chuyển hóa chất béo trong gan và mô mỡ, hạn chế sự hình thành
các axít béo và cholesterol mới.



Chữa viêm gan bằng đông y
Trong y học cổ truyền, viêm gan thuộc chứng hoàng đản (vàng da), một chứng
bệnh do thấp ở tỳ, nhiệt ở vị nung nấu làm ảnh hưởng tới chức năng sơ tiết

của can, đởm
Chữa viêm gan bằng đông y

Trong y học cổ truyền, viêm gan thuộc chứng hoàng đản (vàng da), một chứng
bệnh do thấp ở tỳ, nhiệt ở vị nung nấu làm ảnh hưởng tới chức năng sơ tiết
của can, đởm. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh, chủ yếu do cảm nhiễm ngoại
tà hoặc cảm phải thời khí ôn dịch, hoặc thử tà ẩn phục làm cho thấp nhiệt uất
kết, tà khí không có đường ra ở lại nung nấu hóa nhiệt, ảnh hưởng đến công
năng sơ tiết, điều đạt của can, đởm mà sinh hoàng đản. Mặt khác, do ăn uống
thiếu giữ gìn, tửu độc, lao thương quá độ làm tỳ, vị tổn thương, trọc khí uất kết
phối hợp với phong thấp hóa, thấp nhiệt nung nấu ứ lại sinh hoàng đản.

Y sinh học phân tử thì cho rằng do tác động của môi trường sống, có những
yếu tố bất lợi chẳng hạn thời tiết nóng, lạnh, không gian ô nhiễm hay do một
tác nhân gây bệnh nào đó như: vi khuẩn, virut, sự nhiễm độc , quá trình
chuyển hóa trong cơ thể con người làm cho dạng ôxy hoạt động hay còn gọi là
các gốc tự do sản sinh ra quá mức bình thường ở tế bào gan làm thương tổn
các nhu mô gan, các tổ chức liên kết của gan mà gây ra viêm gan.

Thuốc điều trị viêm gan có tác động ức chế, ngăn cản những diễn tiến của sự
sản sinh này.
Dược liệu dùng chữa trị viêm gan rất phong phú, chủ yếu với tác dụng thanh
nhiệt, giải độc, hóa thấp, dưỡng can. Nghiên cứu về thành phần hóa học của
nhóm thuốc này, người ta thấy rằng đa số chúng chứa các chất flavonoid. Hoạt
chất này có tác dụng ngăn chặn sự hủy hoại cấu trúc, chức năng của tế bào
gan, đặc biệt trong những trường hợp tế bào gan bị hủy hoại do các chất độc
hướng gan gây ra. Đó là vì cấu trúc hóa học các chất flavonoid có tính chất
chống ôxy hóa. Nó làm trung hòa các ôxy hoạt động do có cấu trúc polyphenol
dễ tạo ra các gốc semiquinon bền vững trong cơ thể. Chúng có khả năng tạo
phức với ion các kim loại chuyển tiếp Ca++, Fe++ xúc tác cho phản ứng Fenton

sinh ra các gốc tự do, để làm mất tính xúc tác của các kim loại này. Tác động
này đã làm mất tính chất khơi mào quá trình perocid hóa, dập tắt phản ứng gốc
Bạch Công Tấn sưu tầm

tự do dây chuyền ở tế bào gan. Vì vậy, bảo vệ được tế bào gan, hạn chế quá
trình viêm và hoại tử, đồng thời thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào gan, giúp gan
hồi phục.

Một số bài thuốc chữa viêm gan thường dùng:
Bài 1: Chữa viêm gan cấp và mạn tính: Rễ chàm mèo 12g, bại tương thảo 15g,
nhân trần 12g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 2: Chữa viêm gan, hoàng đản cấp tính, bụng trương cứng: Hoàng bá 6g,
nhân trần 12g, quả dành dành 9g, đại hoàng 6g. Sắc uống.
Có thể dùng rễ cây đơn châu chấu (sao vàng) 15g hay cây trầu nước (hàm
ếch) 20g, đại kế 10g. Sắc uống hằng ngày.
Bài 3: Chữa viêm gan mạn tính: Đan sâm 15g, cây điền cơ hoàng (cây ban)
15g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc dùng hy thiêm 12g. Sắc uống hằng ngày.
Bài 4: Chữa viêm gan cấp tính: Dùng thân hoặc rễ hoàng liên ô rô 25g, rễ
hoàng liên gai 15g, nhân trần 15g. Sắc uống. Trường hợp hoàng đản dùng đinh
lịch tử 4g, long đởm thảo 4g, sơn chi tử 6g, nhân trần 6g, hoàng cầm 6g. Sắc
uống.
Bài 5: Chữa viêm gan hoàng đản cấp tính do thấp nhiệt: Long đởm 12g, uất
kim 6g, nhân trần 12g, hoàng bá 6g. Sắc uống.
Bài 6: Chữa viêm gan mạn tính, đau tức vùng gan, viêm gan do ngộ độc, xơ
gan thời kỳ đầu: Uất kim (củ nghệ vàng), đan sâm, đương quy, đẳng sâm, trạch
tả, hoàng tinh, hoài sơn, sơn tra, thần khúc, tần giao, cam thảo, sinh địa, rễ
chàm mèo mỗi vị 9g; bạch thược 3g; hoàng kỳ, nhân trần mỗi vị 18g. Tán thành
bột mịn làm hoàn với nước mỗi lần uống 6g x 2 lần trước bữa ăn sáng và tối
với nước ấm. Dùng một đợt 6 ngày nghỉ một ngày. Uống liền 6 tuần nghỉ một
tuần. Rồi lại tiếp tục uống lần thứ hai như vậy.

Bài 7: Chữa viêm gan do siêu vi trùng mạn tính, vàng da: Nhân trần Trung
Quốc, bồ công anh, uất kim mỗi vị 30g; khương hoàng 12g. Sắc uống ngày một
thang. Cũng có thể dùng nhân trần Trung Quốc 20g, quả dành dành 10g, đại
hoàng 5g. Sắc uống.


DSCKI. Phạm Hinh (Trung ương Hội đông y Việt Nam)

Phương pháp trị tiêu chảy ở trẻ
Cập nhật lúc 13h22" , ngày 06/03/2007
Do nhiều nguyên nhân, bệnh tiêu ch
ảy ở trẻ em gia tăng
từ sau Tết Nguyên đán đến nay. Một số bài thuốc theo
kinh nghiệm dân gian và bài thuốc cổ phương sau đây
sẽ có công dụng trị chứng tiêu chảy ở trẻ.
Theo kinh nghiệm dân gian
+ Mã đề, lá mơ tam thể, búp ổi, tô mộc, củ sắn dây

Bạch phục linh


Bạch Công Tấn sưu tầm


+ Nếu tiêu chảy do nguyên nhân ăn, bú thất thường, tỳ vị suy yếu thì dùng các
vị như: mề gà (sao vàng), các vị thuốc: sơn tra, chỉ thực, thần khúc, sa nhơn
(sao vàng), trần bì, hoàng đằng, hậu phác (sao gừng).

+ Nếu thể trạng suy nhược, thì dùng các vị: hạt sen, hoài sơn, bột thịt cóc, bố
chính sâm, ý dĩ (sao vàng), và liên nhục.

Mỗi loại trên dùng từ 10gr - 20gr, chọn từ 2 - 3 vị để hợp lại thành một thang,
đem sắc uống, sẽ có công dụng thanh nhiệt, ôn kiện tỳ thận
Bài thuốc cổ phương

* Bài thuốc Bảo hòa hoàn

Thành phần gồm: sơn tra, thần khúc, liên kiều, la bặc tử (mỗi vị 100 gr), trần b
ì,
bán hạ (mỗi vị 60 gr) và 160 gr phục linh. Tất cả đem sắc để dùng, có công
dụng trị các chứng: cơn đau bụng là đi tiêu ngay, nhưng sau khi tiêu rồi thì
bụng hết đau, bụng hông đầy chướng
* Bài Dị công hoàn
Thành phần gồm các vị thuốc: 20 gr phòng đảng sâm,
bạch truật (sao với gạo), 20 gr bạch phục linh, 6 gr chích
cam thảo, 6 gr trần bì (sao với gừng), 4 lát gừng, 4 quả đại
táo. Tất cả đem sắc uống từ từ, sẽ có công dụng tỳ hư tiết
tả, dùng để trị các chứng: ăn xong đi tiêu liền phân sống,
môi lưỡi nhạt, ăn kém
Điểm cần lưu ý là phải giữ vệ sinh trong ăn uống cho trẻ, nên ăn chín, u
ống sôi,
dùng những thức ăn dễ tiêu hóa; đồng thời khi thấy trẻ có dấu hiệu tiêu chảy
nặng cần đưa trẻ đi khám ngay, vì bệnh diễn biến rất nhanh


Hoài sơn






Công dụng của Mầm thóc lúa Chữa các chứng bệnh: tiêu hóa kém, thức
ăn tích đọng, bụng đầy trướng, do tỳ, vỵ hư nhược
Lúa (Mầm thóc lúa)

Tên khoa học: Oryza sativa L. họ Lúa (Poaceae).

Tên khác: Cốc (Trung Quốc) – Riz (Pháp) – Rice (Anh).

×