Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Chủ đề “Chiến tranh – tình yêu – nghệ thuật” trong tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh"" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.5 KB, 5 trang )




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


55
chủ đề Chiến tranh - tình yêu - Nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh


Phạm Văn Tình
(a)







Tóm tắt. Bài viết tập trung tìm hiểu hệ chủ đề Chiến tranh - tình yêu - nghệ
thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh. ở Nỗi buồn
chiến tranh, các chủ đề này lồng ghép vào nhau và đợc dẫn dắt bằng những giấc mơ
đứt nối, hồi tởng gấp khúc trong ý thức nhân vật chính tên Kiên. Đây là một khám
phá quan trọng ảnh hởng đến những cách tân nghệ thuật độc đáo trên các phơng
diện t duy tiểu thuyết và quan niệm nghệ thuật về con ngời của nhà văn. Bảo Ninh
đã góp phần đa nền văn học Việt Nam đơng đại hoà vào dòng chảy chung của văn
học thế giới.

1. Nỗi buồn chiến tranh là tác phẩm
tốt nghiệp xuất sắc, để đời của Bảo


Ninh tại trờng viết văn Nguyễn Du.
Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải
khôn nguôi của một ngời lính bớc ra
từ cuộc chiến khắc nghiệt. Với độ lùi
thời gian cần thiết để nhìn về quá khứ,
hiện lên trong tác phẩm là một câu hỏi
nhức buốt Chiến tranh đã để lại gì khi
con ngời bớc ra khỏi vòng xoáy dữ dội
của nó?.
Tác phẩm đợc dệt nên bằng hàng
loạt những giấc mơ đứt nối, hồi tởng
gấp khúc, hỗn loạn nhng thống nhất
trong một dòng chảy dòng ý thức của
nhân vật. Qua những trạng thái phân
lập và hoang tởng ấy, chiến tranh đợc
hiện lên với những gam màu chói gắt,
lửa, máu, tiếng gầm rú của xe tăng, của
đại liên khạc đạn và cái chết bao phủ
dày đặc, ma đến ngút trời thích hợp
với những giấc mơ, hồi ức dữ dội ấy là
hình ảnh của bóng đêm, không gian
màu xám, cảnh tợng nhoè mờ h ảo.
Theo quy luật thông thờng, đối với
một sáng tác có nhiều cách tân về nghệ
thuật, ngay từ khi mới ra đời và sau khi
đợc trao giải thởng của Hội Nhà văn

(1991), Nỗi buồn chiến tranh đã gây
nên một làn sóng xôn xao trong giới
nghiên cứu phê bình và bạn đọc. ở đây,

có một cuốn tiểu thuyết lồng trong một
cuốn tiểu thuyết khác nói về những
tiếng vọng, những giao thoa huyền bí
trong tình yêu, chiến tranh và niềm
đam mê sáng tạo nghệ thuật của ngời
lính. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, Đỗ Đức
Hiểu có nhận xét Trong văn học Việt
Nam mấy chục năm nay, có thể Thân
phận tình yêu là quyển tiểu thuyết hay
về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu
xót thơng nhất; có thể Phơng là nhân
vật phụ nữ đẹp nhất trong tiểu thuyết
hiện đại Việt Nam [1, tr. 265].
Mỗi nhà văn khi cầm bút đều xác
định cho mình những quan niệm riêng
về hiện thực và văn chơng. Với Bảo
Ninh, cách xử lý hiện thực theo nguyên
tắc cuộc chiến của riêng anh, cùng với
cái nhìn đổi mới về nhà văn trong mối
quan hệ với chính bản thân mình, cái
nghiệp văn chơng nặng lòng theo
đuổi tạo nên trong cuốn tiểu thuyết
của anh chủ đề: chiến tranh, tình yêu
và sáng tạo nghệ thuật luôn xoắn kết
với nhau. Nỗi buồn chiến tranh là dòng

Nhận bài ngày 09/4/2008. Sửa chữa xong 04/6/2008.





Phạm Văn Tình chủ đề Chiến tranh tình yêu Nghệ thuật , Tr. 55-59


56
chảy miên man, bất tận của hồi ức con
ngời qua vùng ký ức còn in hằn bao
nỗi đau đớn, bao cái chết thơng tâm.
Phủ lên tác phẩm là một âm hởng
buồn nỗi buồn chiến tranh mênh mang,
nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và
vợt lên đau khổ [1, tr. 224].
Trong Nỗi buồn chiến tranh, các
chủ đề chiến tranh, tình yêu và niềm
đam mê sáng tạo nghệ thuật, xen kẽ,
đan chéo gây chóng mặt bàng hoàng
nhức nhối. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt
tất cả các biến động của tiểu thuyết là
một mối tình tuyệt đẹp nhng đau xót,
đợc nhà văn xây dựng bằng những từ
ngữ, câu văn, đoạn văn đầy chất thơ và
tính nhạc. Những trang viết mang tính
điêu khắc và những biểu tợng pha trộn
giữa hơng thơm và máu lửa, với đêm
đen và ma ngút trời. Tức là tình yêu
hoà với chiến tranh và sáng tạo nghệ
thuật. Thân phận tình yêu nhập thần
với Nỗi buồn chiến tranh tạo thành nỗi
buồn nguyên khối vỡ thành ba nhịp của
một bài ca (nỗi buồn chiến tranh, nỗi

buồn tình yêu và nỗi buồn sáng tạo).
Đan cài hai câu chuyện trong một
câu chuyện, với cấu trúc trần thuật kép,
Nỗi buồn chiến tranh đã tạo ra một chủ
đề quan trọng là sứ mệnh của nhà văn.
Bảo Ninh hơn một lần để cho nhân vật
Kiên ý thức về sứ mệnh của một ngời
cầm bút viết văn là để nói lên tiếng nói
cho thân phận con ngời, thân phận
tình yêu cả một thế hệ lính chiến. Một
đêm nh thế vào mùa xuân năm ấy anh
đã cảm nhận đợc thiên mệnh của đời
mình. Sống ngợc trở lại, lần tìm trở
lại con đờng của mối tình xa, chiến
đấu lại cuộc chiến đấu kể lại, viết lại,
làm sống lại những linh hồn mai một,
những tình yêu đã tàn phai, bừng sống
lại những giấc mộng xa [3, tr. 107].
Thiên truyện đầu tiên trong đời Kiên
giữa lúc chiến tranh hoàn toàn hiện lên
trớc mắt anh nh một phép màu làm
sống dậy một cách đặc biệt tàn nhẫn
trận tử chiến Truông Gọi Hồn, trận
đánh xoá sổ hoàn toàn phiên hiệu tiểu
đoàn 27 của anh. Chính từ tác phẩm
đầu tay ấy, sự tồn tại của Kiên giữa
cuộc đời đã gắn chặt anh với sứ mệnh
thiêng liêng - sứ mệnh một con ngời
lên tiếng vì thân phận của cả một thế
hệ lính chiến đã qua. Kiên là một trong

số những ngời hiếm hoi, ít ỏi sống sót
sau chiến tranh. Trong thời kì đau
thơng ấy, Kiên là một chứng nhân,
đồng thời cũng là một nạn nhân. Viết
văn với anh là dịp để trả món nợ lòng,
để anh có cơ hội nói lên tất cả những gì
mình trải nghiệm, suy ngẫm trong suốt
chiều dài cuộc chiến.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh đã nhìn nhận chiến tranh
với tất cả tính hiện thực của nó. Đó là
những cơn ác mộng, huỷ diệt tâm hồn
và lột trần nhân tính [3, tr. 113]. Anh
đã đi sâu vào khai thác cuộc chiến
tranh. Ngời lính trong chiến trận nếu
muốn giữ lấy nhân tính thì sẽ bị giết
chết, còn nếu họ thoát chết bớc ra khỏi
cuộc chiến thì nhiều khi phần nhân
tính trong họ đã bị méo mó, què quặt.
Oanh - ngời bạn của Kiên, không chĩa
súng bắn vào ngời đàn bà bên kia
chiến tuyến, thì cũng chính anh đã
hứng trọn cả mấy viên đạn mà kẻ bắn
lén kia vừa kịp bắn ra. So với đồng đội,
Kiên là ngời may mắn, thế nhng điều
nghịch lí là vào những ngày tháng ở
Truông Gọi Hồn, khi phần nhân tính
trong anh mong manh vụt tắt, khi anh
điên cuồng thúc mạnh họng súng nã
từng phát lạnh lùng lên thân thể những

ngời lính bên kia chiến tuyến, thì anh
lại đợc cấp trên cử đi học lớp sĩ quan



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


57
dài hạn làm hạt giống cho những vụ
mùa chiến tranh liên miên.
2. Có thể nói nỗi buồn chiến
tranh, nỗi buồn tình yêu hoà tan với
nhau làm thành nỗi buồn sáng tạo.
Những nhịp mạnh xen kẽ kết thành
một tổng thể mang tính triết lý về kí ức,
điều này gợi nhớ đến Đi tìm thời gian
đã mất của M. Proust: Thời gian lại
tìm thấy, chính hành động văn chơng,
là sáng tác, viết văn, kể lại, viết lại, làm
sống dậy những linh hồn đã mai một,
những tình yêu đã tàn phai, làm bừng
sáng những giấc mộng xa, đó là con
đờng cứu rỗi của Kiên.
Nỗi buồn chiến tranh là dòng hồi ức
của Kiên chảy từ thời thơ ấu đến những
năm tháng cầm súng bớc vào cuộc
chiến. Trong những mẩu kí ức gãy vụn
chắp nối tuỳ tiện đó, bên cạnh nỗi ám
ảnh của một con ngời phải chứng kiến

nhiều cái chết còn có niềm đau xót
của một con ngời chứng kiến sự phôi
pha dần của cái đẹp - cái đẹp trong
những bức tranh nghệ thuật u buồn của
cha anh, cái đẹp thiên thần hoàn mĩ của
Phơng - ngời bạn gái thơ ấu - và cái
đẹp của cỏ cây sông núi vĩnh viễn mất đi
cùng với sự mất mát của cả một thế hệ.

tuổi 17, Kiên cha hiểu biết hết
thế giới những bức vẽ rời rợi buồn
của cha mình. Kiên đã từng hổ thẹn,
bực bội những điều ngời ta nói về cha
anh - ngời hoạ sĩ mang trong mình
dòng máu sáng tạo mộng du, quẩn trí di
truyền từ dòng họ. Ông không thể hạ
tính vĩnh cửu, thêm chất phàm tục, xác
định thành phần giai cấp cho sông núi
[3, tr. 165]. Bi kịch của cha Kiên và
những sáng tạo nghệ thuật của ông có
lẽ cũng là bi kịch của những con ngời
tâm huyết với nghệ thuật nhng phải
sống cô đơn trong một thời đại mà do
điều kiện chiến tranh, tính minh hoạ
đợc đề cao lên trên hết. Còn với Kiên,
cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh chắc
gì đã còn lại trong ánh lửa nếu không có
sự đảm bảo bằng vàng của ngời đàn bà
câm? Chị chính là cầu nối đa cuốn
sách đến với ngời đọc bởi ở chị có lòng

thuỷ chung của một độc giả dành cho
một tác phẩm gối đầu giờng. Điều ấy,
cha Kiên không bao giờ có đợc khi mà
ngời duy nhất biết về nỗi cô độc trong
ông là cô bé Phơng 16 tuổi.
Nỗi buồn chiến tranh còn là ký ức
về một mối tình đau xót giữa Kiên và
Phơng. Phơng là ngời yêu duy nhất
và cũng là mối tình đầu của Kiên trong
suốt cuộc hành trình trên con tàu định
mệnh. Đó là một chân dung đau xót về
sự mất mát của cái đẹp. Tiếng sáo đầu
tiên của chiến tranh đã khiến họ lạc
mất nhau giữa đêm tối của chiến trận
hoang vu, sâu thẳm. Phơng đánh mất
đời con gái và cùng một lúc nàng mang
hai vết thơng, vết thơng trong tâm
hồn và vết thơng trên thân thể. Hình
ảnh Phơng tắm khoả thân phô phang
bất chấp trớc những vồng lửa hình
sin của bom đạn chiều hôm là bức chân
dung tuyệt mĩ, là sự hiện thân của cái
đẹp trong không gian chiến trận ác liệt.
Phơng với hai cánh tay đẹp đẽ, hai bờ
vai tròn lẳn cái eo mịn màng phẳng
đôi chân đẹp nh tạc, dài và chắc mềm
với làn da trắng nh sữa đặc [3, tr.
260].
Đằng sau dáng vẻ bất chấp đời của
Phơng, cách nàng ung dung biểu diễn

tấm thân trần truồng, phô phang nỗi
khổ nhục ra giữa nớc trời quang quẻ,
qua sự quan sát lạnh lùng, rắn đanh
của Kiên, ta vẫn đọc thấy nỗi buồn
trớc sự mất mát của cái đẹp. Một cái
đẹp trong trắng, kiều diễm, có tính
chất bản năng cùng thiên hớng hoàn
mĩ bẩm sinh của ngời con gái Kiên



Phạm Văn Tình chủ đề Chiến tranh tình yêu Nghệ thuật , Tr. 55-59


58
yêu say đắm. Đúng nh lời tiên đoán
đầy lo âu, phấp phỏng của mẹ Phơng
trong một ngày xa xa trớc đó: Trợt
khỏi cây đàn, những tâm hồn nh con
gái bác sẽ bị trờng đời vò nát [3, tr.
228]. Cái đẹp thiên bẩm ở Phơng là vẻ
đẹp đầy thách thức, ngạo nghễ. Vậy mà
Phơng vẫn là nạn nhân của cuộc
chiến, bị xô đẩy đến mức hơn một lần
nàng hỏi Kiên về phẩm giá của nàng.
Giữa chiến tranh, cái đẹp sao mà quá
đỗi mong manh, không có khả năng tự
vệ giữa cuộc đời, lại càng không đủ sức
chống trả sức nặng ghê gớm của cuộc
chiến tranh khốc liệt.

Tình yêu của Kiên và Phơng là
một nốt nhạc buồn, đẹp, giàu chất thơ
giữa ma bom, bão đạn, giữa chuỗi hình
ảnh đầy màu xám của sự huỷ diệt. Tình
yêu ấy đợc bắt đầu từ một nỗi cuồng
khấu trẻ thơ, những ngày tháng trẻ dại
của hai ngời. Nhng chiến tranh nh
một nhát cắt phũ phàng của số phận,
đẩy tình yêu của họ ra xa hai cực. Bắt
đầu từ đây, cuộc đời Kiên chìm trong
máu lửa, thơng đau và thất bại. Vĩnh
viễn mất đi tình yêu trong sáng của
tuổi 17. Ngày Kiên trở về, tình cảm của
họ chỉ còn là nỗi thống khổ của hai con
ngời chịu nhiều tổn thơng, mất mát
bởi chiến tranh. Kí ức chẳng buông
tha, chúng mình đã lầm tởng có thể
vợt qua đợc một hạt sạn. Không phải
là hạt sạn mà là một trái núi . Lời
nói của Phơng lúc nàng ra đi là một lời
thú nhận cuối cùng. Họ vĩnh viễn mất
nhau, số phận cay đắng cho tình yêu
đầu đời của hai ngời sau chiến tranh
không thể nào hàn gắn nỗi.
3. Với thủ pháp đồng hiện và kỹ
thuật dòng ý thức, ba chủ đề chiến
tranh, tình yêu và đam mê sáng tạo
nghệ thuật trong Nỗi buồn chiến tranh
xoắn kết vào nhau và trong ba cõi này
luôn có sự hiện diện chập chờn luân

phiên giữa đợc và mất, tin tởng và
hoài nghi, hạnh phúc và khổ đau, hy
vọng và tuyệt vọng, ảo ảnh và thực tại
một sự chập chờn đầy rẫy bất trắc và
phi lí, khiến cho ngời trong cuộc không
thể không tin ở một thiên mệnh thiêng
liêng cao cả, vô danh và tuyệt đối bí
ẩn. Hoàng Ngọc Hiến khi đọc Nỗi buồn
chiến tranh có viết: Cuốn tiểu thuyết
sẽ nh thế nào nếu tác giả chỉ viết về đề
tài chiến tranh? Sự lồng ghép với đề tài
tình yêu và đề tài sáng tạo nghệ thuật,
chí ít đã tránh cho tác giả khỏi đóng vai
trò thuần kể và tả, một vai trò dễ tẻ
nhạt trong văn xuôi hiện đại [2, tr.
281].
Nỗi buồn chiến tranh cuốn ngời
đọc vào một thế giới của những ám ảnh
chiến trận, của nỗi đau tình yêu tan vỡ,
của nỗi buồn thân phận, của những nỗi
niềm tiếc nuối đam mê và sáng tạo, tạo
nên trong lòng bạn đọc d ba về nỗi
buồn, Nỗi buồn chiến tranh mênh mang
cao cả. Đó là thứ nghệ thuật của lòng
ngời, với những niềm vui nỗi buồn
nguyên khối. Vả chăng trong cuộc sống
này niềm vui nh ngọc trai còn nỗi
buồn nh biển cả. Văn chơng từ cổ chí
kim, những tác phẩm lớn đều là những
tác phẩm nói lên một cách chân thành

nhất, da diết nhất, thậm chí dữ dội
nhất, nỗi buồn đau trong kiếp sống
ngời, thân phận ngời.
Trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh, các chủ đề chiến tranh, tình yêu
và niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật
luôn xoắn kết, lồng ghép vào nhau.
Cùng với chất keo ngôn ngữ và kỹ thuật
dòng ý thức, Bảo Ninh đã tạo ra một
cuốn tiểu thuyết vợt ra khỏi sức
tởng tợng của ngời Mỹ. Nỗi buồn



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


59
chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt
Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu
thuyết chiến tranh vĩ đại Mặt trận phía
tây yên tĩnh của Errich Maria
Remarque (một cuốn tiểu thuyết về sự
mất mát của tuổi trẻ bởi chiến tranh,
mất mát của cái đẹp, và câu chuyện
tình đau đớn một thành quả lao động
nghệ thuật tuyệt đẹp) [5, tr. 299].
Văn học Việt Nam đơng đại đã có
một cuốn tiểu thuyết xứng đáng với thời
kỳ lịch sử đau thơng, hào hùng của

dân tộc, xứng đáng với thế hệ ngời lính
đi qua chiến tranh với nỗi buồn bất tận.
Nỗi buồn chiến tranh đó là hành trình
đau đớn của một số phận kì dị đi tìm lại
quá khứ của mình với nỗi buồn nguyên
khối.


Tài liệu tham khảo

[1] Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.
[2] Hoàng Ngọc Hiến, Những ngả đờng văn học, NXB Giáo dục, 2006.
[3] Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
[4] M. Proust, Đi tìm thời gian đã mất, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
[5] Trần Đình Sử, (chủ biên), Tự sự học, NXB Đại học S phạm, 2004.



Summary

the themes: War Love Art in the Novel War Sadness
by Bao Ninh

This paper studies the themes: War Love Art in the novel War Sadness by
writer Bao Ninh. In the literary work, the themes are mutually overlapped and
guided with serie of interrupted dreams and rushed memorization in the sense of
the main character named Kien. This is an important finding affecting unique
artistic reforms in perspective of novel ideology and artistic notion on human of the
writer. These are Bao Ninhs great contributions to creating Vietnamese current
literature to integrating into the common current of the world existing literature.


(a) Cao học 14 - Văn học Việt nam, Trờng Đại học Vinh.

×