Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại Việt Nam và một cách nhìn hành trình thể loại" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.38 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


111
tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại việt
Nam và một cách nhìn hành trình thể loại

Lê Văn Tùng
(a)



Tóm tắt. Bài báo đề xuất phạm trù tính năng động nghệ thuật, một trong năm
đặc điểm loại hình của văn học hiện đại để thấy rõ một quy luật nội tại trong sự vận
động của văn học Việt Nam trên đờng hiện đại hoá. Từ đó góp phần lý giải một số
quan hệ phức tạp trong đời sống văn học hiện đại, đồng thời đa ra một cái nhìn hành
trình vận động, đổi mới của thể loại truớc hết là thơ - từ thế kỷ XX đến đầu thế kỷ này.


1. Tính năng động nghệ thuật là
một thuộc tính bản chất, một đặc trng
loại hình của văn học hiện đại. Chúng
tôi đã có dịp nêu vấn đề này nh một
trong năm tiêu chí để hiểu nội dung
khái niệm văn học hiện đại trên Tạp
chí Nghiên cứu văn học số 9/2005 và
sau đó, tháng 3/2006 trong Hội nghị Lý
luận phê bình văn học nghệ thuật toàn


quốc (Ban t tởng văn hoá TW tổ chức
tại Hà Nội). Bấy giờ, năm tiêu chí ấy
mới chỉ là những xác định mang tính
chất một tín chỉ để nhập cảnh vào
thế giới của nền văn học hiện đại một
nền văn học đợc khu biệt về loại hình
với nền văn học trung đại.
Tính năng động nghệ thuật vừa là
một đặc trng loại hình, vừa là một quy
luật tồn tại và phát triển của văn học
hiện đại. Điều hiển nhiên, tính năng
động là đặc điểm của mọi nghệ thuật và
mọi loại hình văn học. Bởi vì nói đến
văn học nghệ thuật là nói đến sự sáng
tạo cái mới, cái độc đáo. Không có tính
năng động nghệ thuật thì làm sao văn
học các thời đại có thể để lại những giá
trị nghệ thuật đặc sắc, không trùng lặp,
làm sao toàn bộ nền văn học có thể vận
động phát triển từ phạm trù này, trình
độ này đến phạm trù khác, trình độ
khác đợc? Nhng mặt khác, xét ở quan
điểm chính thống, quan phơng của
văn học từng thời đại, tính năng động
nghệ thuật không phải bao giờ cũng
đợc đặt ở bình diện thứ nhất nh là hệ
thống chiếm u thế trong tơng quan
với tính quy phạm, khuôn mẫu đợc
giới định bởi hệ thống các quy tắc nghệ
thuật, các công thức thẩm mỹ. ở loại

hình văn học trung đại, không phải
không xuất hiện tính năng động nghệ
thuật trong sáng tác. Nhng điều chắc
chắn, tính năng động đó chủ yếu đợc
biểu hiện trong thực tiễn sáng tạo của
nhà văn khi nó có nhu cầu và có khả
năng vợt thoát ở những vị trí nhất
định trên biên giới nghiêm khắc của
luật pháp nghệ thuật thời trung đại.
Nó không có đợc đặc quyền đứng ở
bình diện số một, chiếm u thế. Đặc
quyền ấy thuộc về các phép tắc, các quy
chuẩn nghệ thuật của thời đại. Đảo
ngợc vị thế giữa hai mặt đó sẽ không
còn là loại hình văn học trung đại. Nhìn


Nhận bài ngày 28/11/2006. Sửa chữa xong 17/01/2007.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


112
ở ý nghĩa này, trên hoạt động tổng thể
của nền văn học có thể khẳng định sự
tiến bộ của văn học hiện đại so với văn
học trung đại, trong khi không thể nói
đợc nghệ thuật thơ Xuân Diệu tiến bộ

hơn, cao hơn nghệ thuật thơ Nguyễn Du
hay thơ Hồ Xuân Hơng chẳng hạn.
2. Văn học hiện đại xem tính năng
động nghệ thuật nh là bình diện chiếm
u thế trong tơng quan với các phép
tắc nghệ thuật hiện đại. Nhng không
phải vì thế mà văn học hiện đại là một
nền văn học hoàn toàn phi chuẩn. Nó có
chuẩn của nó, ở mỗi thời kỳ văn học
hiện đại, đều có mô hình nghệ thuật, có
chuẩn mực thẩm mỹ cho thời kỳ đó.
Song tuyệt nhiên, các chuẩn mực, phép
tắc nghệ thuật này không phải là luật
pháp bất di bất dịch của nghệ thuật,
không phải là những phép tắc thống trị
nghệ thuật hiện đại nhất thành bất
biến.
Tính năng động nghệ thuật nh một
yêu cầu bản chất của văn học hiện đại,
đã biến văn học hiện đại thành một hệ
thống mở, luôn luôn vận động, đổi mới
trên mọi phơng diện của nó. Từ nhà
văn đến ngời đọc, từ quan niệm về thế
giới và con ngời, từ ý thức văn hoá đến
nhận thức lịch sử của nhà văn, từ t
duy nghệ thuật đến thể loại, ngôn ngữ,
phong cách và thi pháp v.v Mỗi
phơng diện đó, ở từng thời kỳ nhất
định của văn học hiện đại, khi đã phát
triển đến độ chín có nghĩa là tự nó mở

ra những giới hạn mới cho sự chiếm
lĩnh nghệ thuật, nghĩa là tự nó có nhu
cầu tiếp tục đổi mới để vơn xa hơn khả
năng phát hiện và sáng tạo thế giới
nghệ thuật. Điều đáng nói là quy luật
về tính năng động nghệ thuật cũng chi
phối cả phơng diện phép tắc nếu có
ở mỗi thời kỳ của văn học hiện đại,
biến các phép tắc đó thành một phạm
trù lịch sử nghĩa là bản thân các
phép tắc cũng vận động, thay đổi để
bắt kịp sự phát triển của thế giới hiện
thực và của nghệ thuật. Vì vậy, không
thể nhận thức đợc bản chất của văn
học hiện đại xét trên ý nghĩa toàn thể
cũng nh không thể giải thích một cách
đúng đắn, công bằng những đổi mới,
cách tân của các hiện tợng văn học cụ
thể đã, đang và sẽ xuất hiện nếu không
quan tâm đến tính năng động nghệ
thuật nh một đặc trng loại hình
của văn học hiện đại.
***
3. Tính năng động nghệ thuật của
văn học hiện đại, do đó đã trở thành
một trong những cái nhìn phơng pháp
luận phổ biến trong nhiều công trình
nghiên cứu, khảo sát phê bình các hiện
tợng văn học hiện đại cả một thế kỷ
vừa qua. Nhng chính bản thân nó với

t cách một đặc trng loại hình của văn
học hiện đại, hầu nh cha đợc khái
quát một cách đích thực, rõ ràng, cha
đợc lý giải và thực chứng thỏa đáng để
nhận ra một quy luật tồn tại và phát
triển của nền văn học hiện đại. Chính
không ý thức đầy đủ tính năng động
nghệ thuật nh là một bản chất, một
quy luật của văn học hiện đại nên từ
đầu nửa cuối thế kỷ XX, khi xuất hiện
trào lu văn học hậu hiện đại, lập tức
trào lu này mở cuộc tuyên chiến đối
lập với văn học hiện đại. Theo họ, văn



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


113
học hiện đại đã lỗi thời phải thay thế
bằng văn học hậu hiện đại. Xung đột
nói trên xoay quanh câu chuyện quyền
uy của văn học hiện đại. Tinh thần hậu
hiện đại chống lại quyền uy này nh
là chống lại những quy phạm nghệ
thuật mới, hay là tính cổ điển mới của
văn học hiện đại. Theo đó, chủ nghĩa
hậu hiện đại chống lại việc văn học hiện
đại từng phủ nhận tính khuôn mẫu

khắt khe trong t duy nghệ thuật trung
đại, nhng đến lợt nó, văn học hiện
đại lại đẻ ra những khuôn mẫu nghệ
thuật của nó, trong khi thực tiễn cuộc
sống xã hội hậu công nghiệp từng giây,
từng phút phá vỡ những giới hạn lý
thuyết đã có trên mọi hoạt động của con
ngời. Trào lu hậu hiện đại ra đời còn
muộn mằn hơn, nhng cũng nh một số
trào lu khác trong văn học thế kỷ XX,
nó mong muốn cắt đứt mối liên lạc giữa
nghệ thuật với hiện thực. ý đồ ly khai
với hiện thực đời sống của một số
khuynh hớng nghệ thuật nào đó, thực
chất là việc phủ nhận một cách chủ
quan quy luật về tính năng động nghệ
thuật của văn học hiện đại.
Hiện thực của cuộc sống hiện đại là
một hiện thực luôn luôn vận động về
phía trớc, về tơng lai. Đó là sức sống
của thực tiễn không ai phủ nhận đợc
mà chính C. Mác từng khẳng định nó
nh một quyền lực, quyền lực của thực
tiễn. Nó chính là nguồn gốc sâu xa
khởi động quy luật về tính năng động
của văn học hiện đại. Do đó, sự xuất
hiện nhiều chủ nghĩa, nhiều xu hớng
nghệ thuật trong thế kỷ vừa qua kể cả
hậu hiện đại, một mặt là những
phơng thức khác nhau của nghệ thuật

để chiếm lĩnh hoặc dự báo những thực
tiễn mới của xã hội, biểu hiện quan hệ
máu thịt không thể ly khai giữa văn học
nghệ thuật với hiện thực. Mặt khác, xét
từ tính năng động nghệ thuật của văn
học hiện đại, nó chính là kết quả, là sự
hiện thân sinh động của quy luật này.
Vậy thì hậu hiện đại cũng là văn học
hiện đại ở cấp độ mới, trong chiều kích
mới. Chẳng qua muốn tìm cách đối lập
với tính năng động nghệ thuật của văn
học hiện đại, những ngời đề xớng văn
học hậu hiện đại muốn tách nó ra nh
một loại hình nghệ thuật mới, thoát ra
khỏi loại hình văn học hiện đại một
cách siêu hình vì trên thực tế chính họ
cha thể khai phóng đợc một khái
niệm mới để gọi tên đích đáng loại hình
nghệ thuật mới này (nếu có) để đối lập
với khái niệm văn học hiện đại (nh
văn học hiện đại từng đối lập với văn
học trung đại) mà vẫn phải sử dụng
khái niệm hiện đại, còn hậu chẳng
phản ánh ý nghĩa phạm trù hay loại
hình mà chỉ có ý nghĩa thời gian, nh
một thời kỳ phát triển sau những thời
kỳ khác của văn học hiện đại mà thôi.
Mặt khác, ngời ta vẫn thờng hiểu
khái niệm hiện đại theo hai nghĩa:
Một là để chỉ một thời kỳ lịch sử và văn

học bắt đầu từ khi xuất hiện nền sản
xuất cơ khí đại công nghiệp, lấy xã hội
đô thị làm trung tâm thay thế nền sản
xuất nông nghịêp trung cổ lấy nông
thôn làng xã làm điểm tựa. Hai là hiện
đại nói với nghĩa trình độ cao nhất mà
nền văn minh nhân loại đạt tới hiện
thời (đơng đại). Cả hai cách hiểu này



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


114
không đối lập nhau, cách hiểu thứ hai
nằm trong cách hiểu thứ nhất, bởi theo
quy luật vận động của xã hội hiện đại,
trình độ cao nhất của thời kỳ này bao
giờ cũng là bà đỡ, là bậc thang để nhân
loại vơn tới trình độ cao hơn ở thời kỳ
sau.
***
4. Từ quy luật về tính năng động
nghệ thuật của văn học hiện đại, có thể
hiểu rõ hơn thực chất những bớc
chuyển của văn học Việt Nam thế kỷ
XX. Có ba bớc chuyển lớn:
Bớc thứ nhất: thời điểm 1932: khi
những trào lu văn học hiện đại chính

thức trình diễn sau hơn một phần t
thế kỷ quằn quại, vật lộn trong cuộc
đấu tranh mới cũ, Đông Tây để đổi
mới. Những thể nghiệm đầu tiên đã
xứng với vị trí mở đầu của nó: văn xuôi
hiện thực từ Hồ Biểu Chánh qua Phạm
Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết
lãng mạn với Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách và thơ lãng mạn Tản Đà đợc coi
nh những tiếng nổ đề pa, những bản
nhạc dạo đầu cho cuộc hoà tấu hiện đại
bắt đầu náo nhiệt. Tính năng động
nghệ thuật đợc giải phóng, đẩy văn
học đi lên với tốc độ một ngày của ta
bằng ba mơi năm của ngời. Đến một
ngày nào đó, tính năng động nghệ thuật
qua thị hiếu cảm thụ của công chúng
cũng đẩy những khúc dạo đầu vào quá
khứ. Từ sau 1932, Tố Tâm không còn
bán chạy nh 7 năm trớc, ít ai còn
mua đọc thơ Tản Đà, ngời ta lạ lẫm với
giọng đạo lý răn đời trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, ngời ta tìm đến Tự
lực văn đoàn, thơ Mới và văn xuôi hiện
thực phê phán. Và hơn 10 năm, đến
trớc 1945 cả ba t trào này sau khi đạt
đến độ chín với những thành tựu nghệ
thuật ngang tầm văn học hiện đại thế
giới cùng thời kỳ lại rơi vào bế tắc. Do
tính năng động nghệ thuật của nó, đến

đây văn học hiện đại cần tiếp tục đổi
mới. Có lẽ không cần đặt một giả định
khác khi cuộc cách mạng tháng Tám
1945 thực sự đã tạo ra một thế giới hiện
thực mới cho văn học hiện đại. Hiện
thực đã năng động đổi mới, văn học
cũng tìm đợc lối thoát mới cho những
bế tắc của mình. Bớc chuyển của văn
học từ sau 1945 trớc hết biểu hiện tính
năng động của nền văn học ở phơng
diện sứ mệnh lịch sử cải tạo thế giới của
nó. ở phơng diện này, văn học cách
mạng và kháng chiến từ 1945 đến 1975
trong chừng mực nhất định đã có nhiều
thành tựu. Nó đă tạo ra đợc thi pháp
đặc thù của thời đại mà không thể nói
là cao hơn hay thấp hơn so với trớc và
sau nó, vì nó giải quyết những bài toán
cuộc sống đặc trng cho thời đại của nó.
Nhng, nh bất cứ thời kỳ nào của
văn học hiện đại, tự thân nền văn học
45-75 cũng bao hàm trong nó những
mâu thuẫn: trong giao thời văn học
trớc và sau 1945, tính năng động nghệ
thuật đã là bà đỡ cho sự lột xác, cho
sự giải thoát bế tắc của nền văn học, thì
từ sau 1945, tính năng động nghệ thuật
của văn học hiện đại theo quy luật của
nó lại bắt đầu va chạm với các quy tắc
miêu tả, những chuẩn mực và định

hớng nghệ thuật của văn học thời kỳ
này.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


115
Sự va chạm, mâu thuẫn thể hiện
trên nhiều phơng diện: giữa con ngời
cá nhân với con ngời cộng đồng, giữa
t duy nhị nguyên phân lập với cái nhìn
đa tuyến, đa phơng về con ngời và
cuộc sống, giữa cái một thời và cái vĩnh
cửu Tất cả tập trung vào va chạm
điển hình: giữa cá tính sáng tạo tự do
với những yêu cầu chính trị xã hội của
thời đại đối với văn học. Nhiều hiện
tợng văn học phức tạp có vấn đề của
thời kỳ 1945-1975 và đến cả 1985 đều là
những mảnh vỡ khác nhau của sự va
chạm đó. Điều đó chứng minh rằng tính
năng động nghệ thuật của văn học hiện
đại đang có mặt, đang vận hành để thúc
đẩy nền văn học tiếp tục phát triển trên
hành trình hiện đại hoá.
Giờ đây nền văn học hiện đại của ta
đang trong bớc chuyển thứ ba kể từ
đổi mới (1986). Thực ra, bớc chuyển

này đã đợc dự báo từ một số hiện
tợng văn học trớc 1986. Nhng tính
năng động nghệ thuật của văn học hiện
đại thực sự đợc thể hiện một cách
thuận lợi hơn nhờ có sự năng động mở
đờng của t duy chính trị xã hội. Cá
tính sáng tạo tự do của nhà văn dờng
nh tìm đợc chân trời mới của nghệ
thuật. Cá tính sáng tạo của nhà văn
đợc trả lại tính năng động nghệ thuật
vốn có của nó bởi vì nói nh R. Rô lăng:
Hoạt động của tôi (của nhà văn-LVT)
luôn luôn có tính chất năng động. Tôi
bao giờ cũng viết cho những ngời đang
tiến lên phía trớc, bởi vậy bản thân tôi
bao giờ cũng tiến lên phía trớc Đối
với tôi cuộc sống sẽ không là gì cả nếu
nh nó không biểu thị sự vận động, lẽ
cố nhiên là hớng thẳng về phía trớc
[1, tr. 98].
Cá tính sáng tạo tự do của nhà văn
ngày càng tìm đợc sự đồng thuận, bình
đẳng với yêu cầu chính trị. Một tác
phẩm văn học hiện đại đích thực ngày
nay phải đợc một sự bảo đảm đầy đủ
cho cá tính sáng tạo của nhà văn, thể
hiện rõ rệt nhất phơng thức cảm thụ
thế giới của chủ thể. Có nh vậy, văn
học hiện đại mới tạo ra đợc những thế
giới nghệ thuật sống động, đỉnh cao,

gắn bó máu thịt với sự vận động của thế
giới hiện thực hiện đại đang diễn ra
chóng mặt. Cá tính sáng tạo đợc giải
phóng tự do, có nghĩa là tính năng động
nghệ thuật tìm đợc môi sinh của nó,
truyền cho sáng tác văn học hiện đại
một ý nghĩa xã hội, một sức mạnh thẩm
mỹ to lớn. Vì vậy, ý nghĩa đích thực của
sự giải phóng cá tính sáng tạo không
thể tách rời sự vận động của thế giới
hiện thực. ý đồ muốn khẳng định cái
tôi chủ quan một cách cực đoan, siêu
hình, dìm mình vào một thế giới đơn
thể, quay lng, đối lập với thế giới phức
điệu của hiện thực cuộc sống đơng đại,
của dân tộc và nhân loại, của số phận
và tơng lai của con ngời sẽ đẩy nhà
văn và nghệ thuật đến chỗ đánh mất
cái sức mạnh thực sự của nghệ thuật,
cái sức mạnh đợc nảy sinh trên cơ sở
sự gắn bó mật thiết với hiện thực.
***
5. Tính năng động nghệ thuật của
văn học hiện đại chi phối mọi phơng
diện của nền văn học này. Nó là một
thứ năng lực đặc thù, một khả năng đặc
biệt để văn học hiện đại vận hành theo




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


116
một lối riêng tạo ra thế giới nghệ thuật
phong phú, phức tạp cha từng có xét ở
cả hai chiều đồng đại và lịch đại. Dới
đây là bớc đầu nghiệm thu hiệu quả
của thứ năng lực đặc thù đó qua hành
trình vận động đổi mới thể loại hiện
đại.
Thể loại trong văn học nói chung
thờng là điểm gặp, là phạm trù nghệ
thuật hội ngộ các phạm trù khác. Khi ở
ngoài tác phẩm, thể loại là cái khuôn vô
hồn. Khi nhà văn lựa chọn một thể loại
để viết tác phẩm, thì thể loại thành một
yếu tố nghệ thuật mang ý thức văn hoá
của nhà văn trong tác phẩm. Cũng nh
các yếu tố hình thức khác, thể loại của
tác phẩm là một kiểu khúc xạ các dạng
thức, hình thái của hiện thực qua tâm
lý sáng tạo của chủ thể. Thể loại trong
tác phẩm là một phần linh hồn, một
phần chân dung văn hoá của nhà văn.
Thể loại văn học trung đại mang
tính khép kín xét trong cả hệ thống và
từng thể loại. Có vận động, biến đổi ít
nhiều là kết quả của những cá tính
sáng tạo mạnh, không phải do đặc

trng bản chất loại hình của văn học
trung đại. Tính khép kín tạo ra những
quy tắc thể loại máy móc, bất biến, cầm
tù sáng tạo của nhà văn trong những
công thức tiền định. Hiện tợng số hoá
công thức thể loại là biểu hiện sáng
ngời nhất của tính khép kín đó: Thất
ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt,
Ngũ ngôn tứ tuyệt, lục bát, song
thất lục bát, Nghe tên các thể loại
này, ngời ta liên tởng liền mạch với
những quy phạm nhân sinh cũng bị số
hóa: đàn ông thì Tam cơng, ngũ
thờng; đàn bà phải Tứ đức, tam
tòng. Sách vở chỉ nam thì phải là Tứ
th ngũ kinh. Cùng với số hoá thể loại
là những quy tắc về bố cục, kết cấu,
chất liệu, những niêm, luật, vần, đối,
bằng trắc, v.v Tất cả là những barie
nghệ thuật bao vây, cản trở tính năng
động sáng tạo của cá tính nhà văn.
Thể loại văn học hiện đại là một hệ
thống mở đầy tính năng động. Ngay từ
đầu quá trình hiện đại hoá văn học, thể
loại cũng bắt đầu một tiến trình vận
động, biến đổi không ngừng, vì bản
thân cuộc sống hiện thực hiện đại đang
từng giờ đổi thay, mở rộng tầm nhìn
ngời Việt vào những chân trời mới lạ,
những quan hệ đa chiều phức tạp.

Phơng thức và quan niệm thể loại
cũng thay đổi. Sau những thể nghiệm
do học tập các thể loại hiện đại phơng
Tây ở bớc đi đầu với tiểu thuyết
Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh,
Hoàng Ngọc Phách, truyện ngắn
Phạm Duy Tốn, kịch nói Vũ Đình
Long, Nam Xơng, cùng những cải
biến thể loại truyền thống của Tản Đà,
Phan Bội Châuđến cuối những năm
20 thế kỷ trớc đã có thể nói đến một
sự định hình tính chất mới, hệ thống
thể loại mới của văn học hiện đại [2, tr.
526]. Nhng không nên hiểu định
hình ở đây nh là một sự cố định hoá,
nh là các thể loại đã đợc an bài mà
nên hiểu định hình theo nghĩa khẳng
định xu hớng và quan điểm thể loại
mới chuẩn bị cho một cuộc cách mạng
thật sự về thể loại sắp mở màn. Xa,
cha ông ta tập theo thể loại của văn học
cổ Trung Hoa và hầu nh chủ yếu là



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


117
rập khuôn theo mẫu gốc suốt 10 thế kỷ

văn học trung đại. Những cải biến thể
loại không nhiều do tính năng động,
sáng tạo của nhà văn không đợc phát
động. Bớc sang văn học hiện đại, thế
hệ nhà văn đầu tiên cũng bắt chớc học
tập thể loại văn học hiện đại phơng
Tây (trực tiếp là văn học Pháp). Hiện
tợng đó là tự nhiên, cần thiết, nhng
chỉ diễn ra chủ yếu trớc 1920, từ 1920
về sau nhất là từ đầu những năm 30 trở
đi, các mẫu gốc thể loại hiện đại
phơng Tây sẽ đi qua ý thức sáng tạo
của nhà văn Việt Nam không ngừng
vận động, đổi mới làm cho năng lực
chiếm lĩnh nghệ thuật đối với hiện thực
của thể loại ngày càng tăng trởng cả
chiều sâu lẫn chiều rộng.
Tính năng động của thể loại hiện đại
đã phát động đầu tiên cuộc cách mạng
về thơ. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt
Nam đã nói đến cuộc đổi thay này nh
những năm đại náo trong làng thơ, đó
là một cơn gió dữ dội tạo ra cuộc biến
thiên vĩ đại, cuộc cách mệnh về thi
ca. Nền tảng thơ xa bị một phen điên
đảo do cuộc thâm nhập táo tợn của văn
xuôi tràn vào thơ, phá phách tan tành
thơ cũ để tạo dựng mô hình thơ mới.
Cuộc thâm nhập này làm chuyển hoá
căn bản kiểu câu thơ điệu ngâm trung

đại sang câu thơ điệu nói hiện đại. Chất
văn xuôi tạo câu thơ vắt dòng, ngắt
dòng kiểu mới không chỉ trong thơ Mới
mà cả trong Từ ấy của Tố Hữu. Hiện
tợng câu thơ không tơng ứng với
dòng thơ đă thành phổ biến (trong khi
thơ trung đại câu thơ thờng trùng
khớp với dòng thơ): do yêu cầu diễn tả
đa dạng các kiểu thức lời nói có logíc, có
sự mạch lạc, khúc chiết nhằm truyền
đạt những ý tởng khác nhau: nhân
quả, tơng hỗ, hô ứng, khẳng định -
phủ định, đồng tình tranh biện, và để
trình bày những lý lẽ ấy, thơ hiện đại
sử dụng nhiều h từ, quan hệ từ vốn
không thông dụng trong thơ trung đại:
nh, vẫn, để, nhng, hãy, cứ, chẳng, sẽ,
với, nếu, hay, Đoạn thơ tám dòng sau
đây thực ra là diễn đạt một câu lời nói
dài với một chủ từ: ta và nhiều từ chỉ
hành động của ta: ta hát, ta cời
nói, ta khổ, ta nuốt, ta nao nao, ta
cháy ruột:
Nếu đôi lúc ta hát thầm nho nhỏ
Dới gầm xai, hay cời nói huyên thiên
Nh một thằng trẻ dại, một thằng điên
Là để khổ trong những giờ im lặng
Để nuốt bọt với bao nhiêu mật đắng
Của một đời cách biệt với đời chung
Để nao nao với những mộng không cùng

Để cháy ruột mơ những ngày hoạt
động
(Quanh quẩn Tố Hữu)
Hiện tợng đối thoại, chuyện và thời
gian chuyện xuất hiện nhiều trong thơ
1932-1945 cũng là chứng tích của cuộc
thâm nhập của văn xuôi vào thơ. Có thể
gặp hai hiện tợng đó trên nhiều bài
thơ: Chùa Hơng (Nguyễn Nhợc
Pháp), Lời kỹ nữ (Xuân Diệu), Bà má
Hậu Giang (Tố Hữu), và gặp từng
hiện tợng trên nhiều bài thơ khác.
Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể
loại hiện đại là hiện tợng phổ biến
mang tính quy luật, vì trong cuộc sống
hiện đại, càng ngày con ngời càng phải
ném mình vào vô vàn mối quan hệ mỗi



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


118
lúc thêm phức tạp và phong phú. Để
nghiệm ra mình và thế giới xung quanh
qua những quan hệ ấy, con ngời (tác
giả và ngời đọc) không thể chỉ sử dụng
vốn tự có của từng thể loại văn học.
Nhu cầu tự thân của thể loại hay của

chính con ngời là phải vay vốn,
hoán vị vốn từng phần cho nhau để
cùng mở rộng chân trời và năng lực
sáng tạo. Trên là văn xuôi vào thơ, đến
lợt văn xuôi cần chất thơ nh cần
thêm sinh khí mới hình thành loại văn
xuôi trữ tình độc đáo trong tác phẩm
Thạch Lam, Hồ Zdếnh, Thanh Tịnh,
Xuân Diệu Tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn cũng đầy chất thơ. Văn học hiện
thực phê phán khi phân tích tàn nhẫn
cái hiện thực thù địch với con ngời vẫn
không chối từ chất thơ. Chất thơ trong
văn Nguyên Hồng rạo rực tình ngời,
trong thế giới phiêu lu của Tô Hoài
(Dế mèn phiêu lu ký) Rồi chất thơ đi
vào vơng quốc của kịch, tạo ra thể kịch
thơ có lịch sử riêng của nó. Phóng sự và
tiểu thuyết hoán vị cho nhau một phần
hồn cốt của mình tạo ra những khả
năng vô tận trong việc lột trần hiện
thực qua tác phẩm Vũ Trọng Phụng và
nhiều nhà văn khác. Chúng tôi đồng ý
với Vũ Tuấn Anh khi sử dụng thuật ngữ
cộng sinh [2, tr. 543]thể loại để nói
hiện tợng trên, nhng muốn chỉ rõ cả
hai bình diện sinh thành và chức năng
của hiện tợng đó nhằm phân biệt với
hiện tợng có vẻ tơng đồng của văn
học trung đại: dòng truyện thơ nôm.

Theo chúng tôi, khác với hiện tợng
cộng sinh thể loại hiện đại, truyện thơ
nôm là một hiện tợng ký sinh: cốt
truyện tự sự tìm đến gửi thân phận vào
hình thức thơ, do cha ông mình xa
thiên tính thơ trội hơn gien văn xuôi.
ở bình diện sinh thành, có thể nói đó là
hành vi năng động sáng tạo bất đắc dĩ,
khác với hiện tợng cộng sinh thể loại
hiện đại do nhu cầu tự thân, quy luật
vận động nội tại của mỗi thể loại nh
đã nói trên. Còn ở bình diện chức năng:
các yếu tố thể loại do cộng sinh hay ký
sinh khi đã hiện diện trong tác phẩm,
đều có sự cộng hởng với nhau để biểu
hiện thế giới một cách độc đáo.
Từ sau 1945, tính năng động nghệ
thuật của thể loại vẫn tiếp tục vận
hành trong những sứ mệnh nghệ thuật
mới của từng thể loại. Từ sau đổi mới
đến cuối thế kỷ XX, sang đầu thế kỷ
này, tính năng động nghệ thuật của thể
loại dờng nh đang tạo ra những đột
phá mới. ở đây chỉ nói tiếp về thơ nh
một dẫn chứng nhất thể.
Hoài Thanh từng ghi nhận thơ Mới
1932-1945 nh Một thời đại trong thi
ca, hiển nhiên ta hiểu là một thời đại
mới sau nghìn năm thi ca trung đại.
Nếu ta xét thơ Mới với ý nghĩa một t

trào nghệ thuật, một sự kiện văn học
sử, thì giá trị mà thơ Mới để lại là vô
tiền khoáng hậu, một giá trị không gì
thay thế đợc. Còn nếu nhìn thơ Mới
nh là một loại hình thơ Việt Nam hiện
đại, thì cũng nh với bất cứ một thể loại
nào khác khi đã phát triển đến rực rỡ,
hoàn chỉnh ở một thời kỳ, không có
nghĩa thể loại đó đã định hình, đã trở
thành kiên cố. Do quy luật về tính năng
động nghệ thuật của thể loại, nó phải
vận động, phải đổi mới, vừa giải thể,



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


119
vừa kiến tạo, vừa hoại thải, vừa sinh
sôi, nếu không nó sẽ yên giấc nh một
số thể loại văn học trung đại đã từng
cáo chung. Giờ đây (cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI), ta nói về một thời đại mới
của thơ Việt Nam đang hình thành,
đang lớn dậy; biện chứng và công bằng
là nói theo nghĩa đó. Nhà thơ Trần Dần
vào khoảng năm 1996 có nhấn mạnh ý
này: Trung thực một lòng cho đổi mới
văn học. Phải chôn vùi văn học tiền

chiến (Tự lực văn đoàn và thơ Mới)
vào lịch sử. Có nh vậy mới mở ra đợc
một thời đại văn học thực sự mới (Văn
nghệ số 42 21/10/2006 tr 5). Chúng
tôi hiểu và đồng cảm với cách nói khoa
trơng, vót nhọn của nhà thơ, nhng
chúng tôi cũng muốn hiểu thêm rằng,
Tự lực văn đoàn và thơ Mới từng làm
cuộc cách mạng văn học nghìn năm một
lần, mở ra cả một loại hình t duy nghệ
thuật hiện đại. Đến nay, tuy mới có trên
dới bảy mơi năm, quả có những yếu
tố của t duy thơ 1932-1945 đáng để
chôn thật rồi, nhng không phải tất
cả. Nhiều yếu tố đầu thai từ đó và trớc
đó, có thể đến bây giờ mới có khí quyển
mà lớn dậy. Thơ văn xuôi ló mầm đầu
tiên trong một nét phóng bút của Tản
Đà khi Luận cô Kiều. Thơ không hạn
khổ, câu không hạn từ, gồ ghề, trắc trở
đã có từ thơ Mới, đến Nhất định thắng
(1956) của Trần Dần đã thành một điển
hình với 509 dòng thơ - nói nh Phong
Lê - dài ngắn leo thang, rất lô
nhô cũng rất êm, rất thấm (Văn
nghệ số 42 21/10/2006). Thơ Việt Nam
1932-1945 cũng rất sớm chịu ảnh hởng
các trờng phái hiện đại phơng Tây:
thơ tợng trng, siêu thực, phi lý, v.v
Có thể tán thành ý kiến của Đỗ Đức

Hiểu: Khởi đầu biến động thơ hôm nay
có thể từ những bài thơ của Nguyễn
Xuân Sanh trong Xuân Thu Nhã tập
[3, tr. 147]. Vậy là ngay từ trong cuộc
cách mạng về thơ 1932-1945, thơ Việt
Nam (thơ Mới và các xu hớng khác) đã
ngấm ngầm một sức năng động mới để
mở rộng biên giới của thơ. Thơ mới
đơng đại vừa tiếp tục những năng
lợng ấy, vừa đợc bồi dỡng những
năng lợng mới mẻ từ sức sống mới của
thời đại, dân tộc, từ cuộc tiếp giao văn
hoá đa phơng với thế giới hiện đại.
Hớng tới một thời đại văn học thực sự
mới nh niềm khao khát của nhà thơ
Trần Dần thật là chân thành, cảm
động. Nhng cũng nh quan niệm của
bạn ông - nhà thơ Lê Đạt - về tính
không đầy đủ, không toàn vẹn của mọi
hệ kiến giải mà ông diễn từ nguyên lý
bất toàn của Godel (cũng trong Văn
nghệ số 42 2006) thì thời đại văn học
thực sự mới theo ý Trần Dần thực ra
cũng chỉ là tơng đối, không thể toàn
hình, toàn cốt đợc vì hiện thực vẫn
đang vận động qua biên giới của một
kiến giải và quy luật về tính năng động
nghệ thuật của văn học hiện đại sẽ tạo
ra tiếp tục trong thời đại văn học thực
sự mới đó những sức sống ngầm, rồi sẽ

đến lúc thực sự mới lại trở thành cái
cũ để cho cái mới khác lại ra đời và mãi
mãi.





Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007


120

Tài liệu tham khảo

[1] M. B. Khrapchenkô, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
[2] Nhiều tác giả, Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002.
[3] Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.



Summary

the artistic dynamism in Modern literature
and an outlook on the itinerary of genre

The article cliscusses the artistic dynamism, one of the five form-features of
modern literature, to identify the immanent law in the movement of Vietnamese

literature on the process of modernization. Hence, it helps to explain some
complicated relations of the modern literature life and to provide an outlook on the
movement, innovation itinerary of genre firstly poetry from the 20
th
century to
the early of this century.


(a)
Khoa Ngữ văn, trờng đại học Vinh




×