Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KT - XH TRONG CÁC VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.11 KB, 8 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
KT - XH TRONG CÁC VÙNG
DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG


1. Khái quát chung

Duyên hải miền Trung bao gồm vùng duyên hải Bắc Trung Bộ (các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế) và duyên hải Nam Trung Bộ (thành phố Đà Nẵng, các
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận và Bình Thuận). Khối núi Bạch Mã – nơi có đèo Hải Vân, được
coi là ranh giới tự nhiên giữa hai vùng trên.

Đây là một lãnh thổ hẹp theo chiều Đông – Tây, nhưng lại kéo dài
theo chiều Bắc – Nam, với sự phân hoá khá rõ của các điều kiện tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên, của dân cư – dân tộc, điều kiện lịch
sử… cho phép phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành để khai thác có
hiệu quả nhất sự khác biệt lãnh thổ đó.

Duyên hải miền Trung có khá nhiều tài nguyên nhưng chưa khai
thác được bao nhiêu. Một số loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn.
Tài nguyên lâm nghiệp tương đối giàu. Tài nguyên nông nghiệp, thuỷ
sản cũng không kém phần đa dạng. Nhưng đây lại là vùng thường
xuyên chịu thiên tai và là vùng bị tàn phá nặng nề nhất trong thời
gian chiến tranh. Hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng
thực sự còn gặp nhiều khó khăn. Với sự tập trung đầu tư cho vùng,
nhất là với sự hình thành và phát triển của địa bàn kinh tế trọng
điểm miền Trung, trong tương lai gần đây, kinh tế của vùng sẽ có
bước phát triển đáng kể.


2. Vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp

Duyên hải miền Trung là vùng duy nhất của nước ta mà tất cả các
tỉnh đều giáp biển, có vùng biển rộng lớn phía Đông, tiếp đến là dải
đồng bằng nhỏ hẹp ven biển và vùng đồi núi thấp phía Tây. Vì vậy,
vấn đề hình thành cơ cấu kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp có ý nghĩa
lớn với tất cả các tỉnh trong vùng.

a) Lâm nghiệp

Tài nguyên lâm nghiệp của toàn vùng chỉ đứng sau Tây Nguyên cả về
diện tích và trữ lượng. Độ che phủ của rừng là 34%. Trong rừng có
nhiều loại gỗ quý (táu, lim, sến, kiền kiền, săng lẻ, lát hoa…), nhiều
lâm sản, chim, thú có giá trị. Hiện nay, rừng giàu chỉ còn tập trung
chủ yếu ở vùng sâu giáp biên giới Việt – Lào và ở sườn cao nguyên.
Chính ở đây tập trung nhiều lâm trường, vừa khai thác, tu bổ và
trồng rừng. Lâm sản khai thác chủ yếu được đưa về các cơ sở chế
biến lâm sản ở Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn để chế biến nhằm phục vụ
nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Ở các tỉnh duyên hải miền Trung, việc đẩy mạnh khâu chế biến gỗ và
lâm sản, tu bổ rừng và trồng rừng đã trở nên cấp bách. Việc bảo vệ
và phát triển vốn rừng còn có tác dụng điều hoà nguồn nước, hạn
chế tác hại của các cơn lũ đột ngột trên các sông ngắn và dốc của
Trung Bộ. Ở vùng Bắc Trung Bộ việc trồng rừng ven biển có tác dụng
chắn gió, bão và ngăn không cho cồn cát lấn sâu vào làng mạc, ruộng
đồng.

b) Nông nghiệp


Việc phát triển nông nghiệp của vùng cần dựa trên cơ sở khai thác
tổng hợp các thế mạnh về nông nghiệp của vùng trung du, đồng bằng
và miền biển. Vùng đồi trước núi có thế mạnh về chăn nuôi đại gia
súc (bò là chính). Đàn bò của vùng hiện nay có khoảng 2 triệu con,
bằng 50% đàn bò của cả nước. Bắc Trung Bộ còn có một số vùng
chuyên canh cây công nghiệp lâu năm (cà phê ở Tây Nghệ An và
Quảng Trị, cao su, hồ tiêu ở Quảng Bình và Quảng Trị, chè ở Tây
Nghệ An).

Trong số các đồng bằng thuộc duyên hải miền Trung chỉ có đồng
bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh là tương đối lớn, còn các đồng bằng khác
thì nhỏ hẹp, do phù sa bồi đắp các vụng biển cũ. Đất phần lớn là đất
cát pha, thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp hàng năm
(lạc, mía, thuốc lá…) nhưng không thật thuận lợi cho cây lúa. Ở đây
đã hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng năm và
các vùng lúa thâm canh. Tuy vậy, bình quân lương thực trên đầu
người của vùng còn thấp (chưa đến 290 kg/người).
Biển miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có
bãi tôm, bãi cá, nhưng lớn nhất là ở biển cực Nam Trung Bộ. Chỉ tính
riêng các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ, sản lượng thuỷ sản năm 1999 đã
vượt 400 nghìn tấn, gấp 2 lần sản lượng năm 1990. Sản lượng cá
biển năm 1999 của toàn vùng duyên hải miền Trung là 385 nghìn
tấn (của Nam Trung Bộ là 300 nghìn tấn), trong đó có nhiều loài cá
quý (như cá thu, cá ngừ, cá trích, cá nục, cá hồng, cá phèn), tôm hùm,
tôm he, mực… Bờ biển miền Trung có nhiều vụng, đầm phá thuận lợi
cho nuôi trồng thuỷ sản. Việc nuôi tôm hùm, tôm sú đang được phát
triển ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh ở vùng Nam Trung Bộ (Phú Yên,
Khánh Hoà). Hoạt động chế biển hải sản ngày càng đa dạng, phong
phú. Tương lai, ngành thuỷ sản sẽ có vai trò ngày càng lớn hơn trong
việc giải quyết vấn đề thực phẩm của vùng và tạo ra nhiều sản phẩm

hàng hoá. Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý tới việc khai thác hợp lí và
bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vùng.

3. Vấn đề hình thành cơ cấu công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ
tầng

Vấn đề hình thành có cấu công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng ở
các tỉnh thuộc duyên hải miền Trung có ý nghĩa cấp bách. Đó là vì
duyên hải miền Trung có nhiều tiềm năng về khoáng sản, lâm sản,
thuỷ sản, nhưng tiềm năng về năng lượng tương đối hạn chế, cơ sở
hạ tầng của vùng còn nghèo và bị tàn phá nhiều do chiến tranh, lại
hay bị đe doạ huỷ hoại do thiên tai.

a) Cơ cấu công nghiệp của vùng đang trong quá trình hình
thành

Trong vùng có một số mỏ khoáng sản có giá trị như mỏ sắt Thạch
Khê (Hà Tĩnh), mỏ crômit Cổ Định (Thanh Hoá), mỏ thiếc Quỳ Hợp
(Nghệ An). Duyên hải Nam Trung Bộ có trữ lượng lớn cát làm thuỷ
tinh, ôxyt titan. Đất sét, cao lanh, đá vôi làm xi măng sẵn có ở Bắc
Trung Bộ. Ngoài ra còn có một số mỏ đá quý.

Do hạn chế về điều kiện kỹ thuật và vốn nên nhiều tài nguyên
khoáng sản của vùng vẫn ở dạng tiềm năng hoặc được khai thác
không đáng kể (crômit, thiếc…)

Cơ sở năng lượng (điện) chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển cũng
như các hoạt động kinh tế khác của vùng. Vấn đề này đang được giải
quyết theo hướng sử dụng điện của nhà máy điện Hoà Bình qua
đường dây 500 kV, xây dựng ở Nam Trung Bộ một số nhà máy thuỷ

điện với quy mô trung bình như Sông Hinh (Phú Yên), Vĩnh Sơn
(Bình Định), hoặc tương đối lớn như Hàm Thuận – Đa Mi (Bình
Thuận). Ở Bắc Trung Bộ dự kiến sẽ xây dựng nhà máy thuỷ điện Bản
Mai (Nghệ An).

Các trung tâm công nghiệp của vùng như Thanh Hoá - Bỉm Sơn, Vinh,
Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang đang được phát triển với nhịp độ
nhanh, định hình rõ nét, với việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại cho các ngành công nghiệp cơ khí, sản xuất vật liệu xây
dựng, chế biến thực phẩm, dệt. Trong vùng có một số nhà máy xi
măng lớn như Bỉm Sơn, Nghi Sơn (Thanh Hoá).

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam - Quảng Ngãi) đang được chú trọng đầu tư, đặc biệt với
việc xây dựng cảng nước sâu Dung Quất và nhà máy lọc dầu số 1 ở
khu công nghiệp Dung Quất, công nghiệp của vùng sẽ có những bước
phát triển rõ nét trong thập kỉ tới.

b) Việc xây dựng cơ cấu công nghiệp của vùng gắn liền với việc
xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là giao thông vận tải và thông
tin liên lạc

Do lãnh thổ dài và hẹp nên trục đường quốc lộ 1, đường sắt Bắc –
Nam và các thành phố, thị xã nằm dọc theo các trục đường này trở
thành trục kinh tế xương sống của vùng. Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc
– Nam đã và đang được nâng cấp, hiện đại hoá, giúp đẩy mạnh sự
giao lưu giữa duyên hải miền Trung với các vùng cực phát triển của
cả nước là đồng bằng sông Hồng (ở phía Bắc) và Đông Nam Bộ (ở
phía Nam). Hệ thống sân bay của vùng đã được khôi phục, hiện đại,
gồm sân bay quốc tế Đà Nẵng và các sân bay trong nước Vinh, Huế,

Quy Nhơn, Nha Trang.

Duyên hải miền Trung (nhất là Nam Trung Bộ) là khu vực thuận lợi
nhất của nước ta để xây dựng các cảng nước sâu. Đây là lợi thế của
vùng để phát triển nền kinh tế mở. Hiện nay, hệ thống cảng biển
trong vùng đang được nâng cấp, trong đó có các cảng quốc tế Vinh,
Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang. Các cảng nước sâu mới xây dựng là
Nghi Sơn (Thanh Hoá), Dung Quất (Quảng Ngãi).

Dự án đường Hồ Chí Minh nhằm hiện đại hoá các tuyến đường
xuyên Trường Sơn, nối với đường quốc lộ 1 bằng các tuyến đường
ngang theo hướng Đông – Tây, trong đó có các tuyến đường sang
Lào, lên Tây Nguyên, nối các vùng khai thác với các cơ sở chế biến và
các cảng xuất khẩu, làm cho sự phân công lao động theo lãnh thổ
được phát triển ngày một hoàn chỉnh hơn.

Câu hỏi:
1. Hãy phân tích những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế
ở các tỉnh duyên hải miền Trung.
2. Những vấn đề gì đang đặt ra đối với sự phát triển của ngành lâm
nghiệp ở trong vùng? Hãy chứng minh.
3. Vấn đề lương thực, thực phẩm trong vùng cần được giải quyết bằng
cách nào? Khả năng giải quyết vấn đề này?
4. Tại sao việc tăng cường và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
vận tải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành cơ cấu
kinh tế của vùng?

×