Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.21 KB, 131 trang )

Đề tài:
Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của
Việt Nam theo quan điểm
Marketing-mix
4
MỤC LỤC
tài: Đề 4
y m nh xu t kh u g o c a Vi t Nam theo quan i m Marketing-mixĐẩ ạ ấ ẩ ạ ủ ệ đ ể 4
M C L CỤ Ụ 5
CH NG 1. T NG QUAN V G O XU T KH U TRÊN TH GI I VÀ T I VI T NAMƯƠ Ổ Ề Ạ Ấ Ẩ Ế Ớ Ạ Ệ 9
Nh p kh uậ ẩ 18
Nam Á 18
Ngu n: V xu t nh p kh u B Th ng m i–ồ ụ ấ ậ ẩ ộ ươ ạ 30
B ng 2.1. Các thành ph n c a Marketing-mixả ầ ủ 33
MM 35
2.2.1.1. S n xu t lúa g o - b c kh i u cho xu t kh uả ấ ạ ướ ở đầ ấ ẩ 36
2.2.1.2. Ch t l ng g o xu t kh uấ ượ ạ ấ ẩ 39
Ng i thu muaườ 64
Nhà xu t kh uấ ẩ 64
Bán buôn 64
2.2.3.4. Th tr ng xu t kh u g o c a Vi t Namị ườ ấ ẩ ạ ủ ệ 65
5
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những
thay đổi tích cực, làm thay đổi đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Chúng ta đã
đạt được một số thành tựu đáng kể trong Ngoại thương, đặc biệt trong xuất khẩu
gạo. Những con số báo cáo hàng năm là kết quả thật đáng tự hào của ngành nông
nghiệp nước ta, thể hiện quyết tâm của nhân dân và đường lối chỉ đạo đúng đắn của
Đảng và Nhà nước. Vị thế của Việt Nam đã được nâng lên, sánh vai cùng các nước
xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.


Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan, thực tiễn tại Việt Nam
trong thời gian qua cho thấy, hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta vẫn còn nhiều bất
cập, tồn tại nhiều vấn đề bức xúc trước những biến động thất thường của tình hình
chính trị và thị trường thế giới như định hướng, tổ chức quản lý, tìm đầu ra cho sản
phẩm, nâng cao giá và khả năng cạnh tranh Kết quả là, tuy khối lượng và kim
ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung tiềm năng vẫn chưa được khai thác một
cách tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất.
Trong tình hình đó, nghiên cứu Marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng
cao hoạt động xuất khẩu gạo là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy
mạnh hơn nữa sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào phân tích đặc điểm, tình hình xuất khẩu gạo củaViệt Nam
hiện nay theo quan điểm Marketing-mix đồng thời nêu lên các điểm mạnh, điểm
6
yếu theo mô hình SWOT. Qua thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam,
đề tài đưa ra giải pháp dưới góc độ vĩ mô và theo quan điểm Marketing-mix nhằm
thúc đẩy việc xuất khẩu gạo, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế của nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích luỹ trong suốt quá trình học tập với
những quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu
với việc đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp
lý nhất.
4. Mục đích, nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của
mặt hàng gạo, khoá luận đưa ra một số định huớng phát triển cho giai đoạn tiếp
theo, đồng thời tìm một số giải pháp về Marketing nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát
triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Để đạt được mục đích trên, về mặt lý luận,
khoá luận đã tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề đã và đang
được nghiên cứu, đồng thời xem xét trên cơ sở thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam theo quan điểm của Marketing để tìm ra hướng đi đúng đắn trong

thời gian tới.
Tên đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-
mix
• Chương 1: Tổng quan về gạo xuất khẩu trên thế giới và tại Việt Nam.
• Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam theo quan điểm Marketing-
mix.
• Chương 3: Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo.
Trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, đề tài nhằm:
• Khẳng định lại vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự phát triển của nền kinh
tế Việt Nam
7
• Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
• Nêu ra một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Văn Thoan, các cô
chú cán bộ của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại cùng các thầy cô và bạn bè đã
giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
8
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ GẠO XUẤT KHẨU TRÊN THẾ GIỚI
VÀ TẠI VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về thị trường gạo thế giới
Vấn đề tập trung của đề tài này là hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam ra
thị trường thế giới. Xét theo quan điểm Marketing là có tính hướng ngoại. Để đẩy
mạnh xuất khẩu, Việt Nam phải luôn hướng ra môi trường kinh doanh và lấy thị
trường làm cơ sở định hướng. Thị trường ở đây được hiểu là tập hợp những nhà
nhập khẩu gạo hiện tại và tiềm năng. Mặt khác, nhu cầu của thị trường gạo lại chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Chính vì vậy, các nhà xuất khẩu gạo Việt
Nam không chỉ tập trung vào các nhà nhập khẩu gạo mà còn phải hướng vào các
đối thủ khác để đánh giá kịp thời khả năng cạnh tranh của họ. Nghiên cứu thị
trường gạo quốc tế, nghiên cứu các nước xuất, nhập khẩu gạo chủ yếu trên thị

trường là một đòi hỏi cấp thiết để ứng dụng vào tình hình cụ thể của Việt Nam,
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo xuất khẩu nước ta trên thị trường thế
giới.
1.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu gạo thế giới
Trong số các loại lương thực bao gồm gạo, lúa mì, ngô, kê, lúa mạch thì gạo
và lúa mì là hai loại thực phẩm chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng
ngày của con người. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên
hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo và lúa mì đạt mức tương đương nhau. Nhìn
chung, sản lượng lúa gạo có thể duy trì sự sống cho hơn 53% tổng số dân trên thế
giới. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của gạo đối với vấn đề an ninh lương thực
của loài người, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh biến động của yếu tố nhân khẩu học.
1.1.1.1. Vấn đề sản xuất gạo trên thế giới
Ngành sản xuất lúa gạo bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như đất, nước,
khí hậu Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng, vào năm 1995, sản xuất gạo trên thế
giới giảm nhẹ với diện tích sản xuất khoảng 146 nghìn ha, sản lượng thóc toàn thế
9
giới đạt 553 triệu tấn, tương đương khoảng 360 triệu tấn gạo. Những thành công
trong sản xuất gạo là kết quả đạt được do cuộc Cách mạng xanh đem lại cùng với
việc áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới chiến lược kinh tế xã hội của Chính
phủ các nước sản xuất gạo chủ yếu.
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, dự đoán diện tích sản
xuất lúa toàn thế giới năm 2001 là 151,9 nghìn ha. Năng suất lúa năm 2000 đạt 3,92
tấn/ ha, gấp 1,6 lần so với năng suất lúa năm 1974 là 2,45 tấn/ha. Đây là một tiến
bộ vượt bậc, nhờ sử dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào sản xuất, đồng
thời áp dụng những loại giống lúa mới cho năng suất cao. Năm 2000 cũng là năm
kỉ lục về năng suất và sản lượng lúa toàn cầu là 607,4 triệu tấn so với 333,8 triệu
tấn năm 1974, tăng 1,8 lần. Qua đó cho ta thấy sản lượng lúa tăng chủ yếu do năng
suất tăng, là kết quả đáng khích lệ cho sản xuất lúa toàn thế giới, đảm bảo tốt nhu
cầu về lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng của loài người.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất gạo của thế giới (1998-2001)

Đơn vị tính: 1000 tấn
Sản xuất 1998 1999 2000 2001(ước)
Bắc Mỹ 8.747 8.836 9.795 9.062
Mỹ Latinh 17.225 22.165 21.229 20.204
EU 2.701 2.694 2.637 2.462
Liên Xô cũ 1.108 1.124 1.189 1.026
Đông Âu 56.000 52.000 56.000 56.000
Trung Đông 3.048 3.370 2.905 2.279
Bắc Phi 5.463 4.261 5.889 6.063
Châu Phi còn lại 10.540 10.845 10.950 11.481
Nam Á 165.170 172.526 183.311 179.426
Châu Á còn lại 358.864 358.485 36.281 354.965
Châu Đại Dương 1.324 1.362 1.101 1.761
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại
1.1.1.2. Vấn đề tiêu dùng gạo trên thế giới
Trên thế giới, phần lớn gạo được sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ
trong nước, chỉ 4% sản lượng toàn cầu được đem ra buôn bán, trao đổi giữa các
10
nước với nhau. Lúa gạo được sản xuất tập trung hoá cao độ, trong đó châu Á chiếm
tới 90% tổng lượng sản xuất, 50% lượng nhập khẩu và 72% lượng xuất khẩu.
Mức tiêu thụ gạo toàn cầu hiện nay luôn phụ thuộc vào tình hình canh tác và
khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo. Trên quy mô toàn thế giới, lượng
gạo tiêu dùng tăng đáng kể từ 222,4 triệu tấn năm 1974 lên 398,6 triệu tấn năm
2000, tăng 180% và dự đoán năm 2001 là 400,8 triệu tấn. Để đảm bảo tiêu thụ ổn
định cần đạt mức sản xuất hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy,
mức tiêu thụ gạo luôn bị khống chế bởi khả năng sản xuất và phụ thuộc vào số dân
toàn cầu nên nhìn chung nếu tính theo đầu người thì không tăng.
Trên thế giới, châu Á là khu vực tiêu thụ gạo nhiều nhất với 362,1 triệu tấn,
tức 90% so với lượng tiêu dùng toàn cầu vào năm 2001 (403 triệu tấn). Điều này
được giải thích bằng tập quán coi gạo là lương thực chính yếu ở châu Á, nơi tập

trung trên 60% dân số toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần, dân số các
nước này tăng mạnh trong khi diện tích trồng lúa giảm đáng kể do quá trình đô thị
và công nghiệp hoá. Thêm vào nữa, các thiên tai như lụt, bão, hạn hán thường
hay xảy ra nên các nước này cũng phải nhập khẩu gạo phục vụ cho nhu cầu trong
nước. Các châu lục khác tiêu thụ 10% số lượng gạo còn lại. Tại châu Mỹ, châu Âu
và khu vực Trung Đông, tiêu thụ gạo đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cụ
thể năm 2000, Bắc Mỹ tiêu thụ 4,1 triệu tấn, Mỹ Latinh 14,3 triệu tấn, EU 2 triệu
tấn. Dự đoán năm 2001, các khu vực này lần lượt tiêu thụ 4,7 triệu tấn, 14,7 triệu
tấn và 2,1 triệu tấn. Qua đó, có thể thấy rằng lượng gạo tiêu thụ phân bố không
đồng đều và phụ thuộc nhiều vào các nước châu Á.
Bảng 1.2. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới (1998-2001)
Đơn vị tính: 1000 tấn
Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước)
Bắc Mỹ 4,108 4,439 4,718 4,747
Mỹ Latinh 13,778 14,085 14,272 14,661
EU 2,012 2,066 2,131 2,079
11
Tây Âu còn lại 48,000 50,000 53,000 55,000
Liên Xô cũ 1,130 1,119 1,136 1,311
Đông Âu 344,000 382,000 360,000 386,000
Trung Đông 5,779 6,159 6,499 6,435
Bắc Phi 2,982 2,984 3,097 3,177
Châu Phi còn lại 10,412 10,973 11,563 12,155
Nam Á 104,835 110,412 113,711 114,989
Châu Á còn lại 234,508 236,025 241,852 238,692
Châu Đại Dương 563,000 608,000 670,000 706,000
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại
1.1.1.3. Những nước sản xuất và tiêu thụ gạo chính trên thế giới
* Trung Quốc
Với số dân đông nhất thế giới (1,26 tỷ người và dự kiến lên tới 1,6 tỷ năm

2030) và diện tích lúa trên 30 triệu ha, Trung Quốc là quốc gia có chủ trương đẩy
mạnh sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực trong nước của mình.
Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia là chiến lược hàng đầu của chính phủ nước
này. Trái với một số nước khác chú trọng tới các dự án phát triển cây trồng bằng
cách tăng cường sử dụng có hiệu quả hơn đất trồng và các nguồn tài nguyên khác
như nguồn nước, khí hậu… Trung Quốc tập trung chủ yếu vào công nghệ và khoa
học. Trung Quốc đã và đang đi tiên phong trong các giống lúa lai mới và đang dẫn
đầu về thử nghiệm lúa biến đổi gien. Tuy diện tích trồng lúa của Trung Quốc mấy
năm gần đây liên tiếp giảm do nhu cầu gạo chất lượng thấp giảm và lợi nhuận từ
những loại cây khác tăng lên, sản lượng gạo Trung Quốc năm 2001 dự kiến đạt
136,40 triệu tấn, tăng so với 130,9 triệu tấn năm 2000 nhờ năng suất tăng.
Từ năm 1992-1993, cùng với công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước, Trung
Quốc đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh sản xuất lúa. Đến năm 2000, tiêu thụ gạo trung
bình tính theo đầu người vẫn bình ổn (96 kg/người/năm) mặc dù tổng tiêu thụ tăng
do dân số tăng. Nhu cầu về chất lượng cũng ngày càng tăng. Gạo chất lượng cao
12
như Japonica được trồng chủ yếu ở miền Bắc đã ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Tiêu thụ gạo nói riêng và lương thực nói chung sẽ tăng theo xu hướng của nền kinh
tế. Gạo chất lượng kém ngày càng được chuyển sang dùng trong công nghiệp hoặc
cho những người có thu nhập thấp. Một trong những chiến lược của Trung Quốc là
phát triển ngành chăn nuôi và gạo vụ sớm sẽ là thức ăn tốt cho gia cầm vì chất
lượng phù hợp và giá thành rẻ.
Theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 2000 Trung Quốc tiêu thụ 137,3 triệu
tấn gạo chiếm 34% tổng lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Ước tính năm 2001 lượng tiêu
thụ là 134,3 triệu tấn. Con số này nói chung không thay đổi nhiều so với các năm
trước. Với dự kiến nhu cầu tiêu thụ sẽ đạt được 220 triệu tấn gạo vào năm 2010 và
260 triệu tấn vào năm 2030, Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển các giống lúa mới,
năng suất cao để đạt trung bình 8 tấn/ha so với 6,5 tấn/ha hiện nay.
* Ấn Độ
Là nước đông dân thứ hai trên thế giới, Ấn Độ cũng là nước sản xuất gạo lớn

thứ hai trên thế giới. Năm 1994, sản lượng lúa của Ấn Độ đạt mức tăng kỷ lục
(2,8%) so với các nước khác. Ấn Độ là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích
trồng lúa và đang chiếm hơn 22% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu. Sản lượng gạo
của Ấn Độ niên vụ 1999/2000 đạt 88,55 triệu tấn so với 406,57 triệu tấn của thế
giới và dự đoán niên vụ 2000/2001 đạt 87,30 triệu tấn so với 396 triệu tấn của thế
giới. Cuối năm 2000, Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo dự trữ
để lấy chỗ chứa gạo mới, gây sức ép tới thị trường gạo thế giới. Bên cạnh đó, Ấn
Độ là một trong những nước đi đầu trong cuộc Cách mạng xanh, chủ yếu về giống
lúa. Hiện nay, Bộ Thương mại Ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm ADN để
bảo đảm sự thuần chủng cho giống gạo mới, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu
các loại gạo cao cấp.
Về tiêu thụ, Ấn Độ cũng là quốc gia tiêu thụ gạo lớn thứ hai trên thế giới với
lượng tiêu thụ là 78,2 triệu tấn (năm 1998), 81,2 triệu tấn (năm 1999), 82,5 triệu tấn
13
(năm 2000) và ước tính năm 2001 là 83,5 triệu tấn, chiếm 20,8% so với tổng lượng
tiêu thụ toàn thế giới .
* Inđônêxia
Với sản lượng gạo năm 1999/2000 là 34,08 triệu tấn, dự đoán năm 2000/2001
là 34,80 triệu tấn, Inđônêxia hiện đang xếp thứ ba trên toàn thế giới về nước có sản
lượng gạo cao nhất. Năm 2001, nhờ triển vọng đạt sản lượng cao nên nhu cầu về
nhập khẩu của nước này có thể giảm 40% so với năm trước. Điều đó chứng tỏ
Inđônêxia đã tích cực hơn trong việc sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu
trong nước, tránh bị phụ thuộc vào số lượng gạo nhập khẩu từ các nước bên ngoài.
Inđônêxia cũng là nước tiêu thụ gạo lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2000, quốc
gia này sử dụng hết 35,9 triệu tấn gạo, chiếm 9% lượng tiêu thụ toàn cầu. Dự tính
tiêu thụ năm 2001 có giảm nhưng không đáng kể là 35,8 triệu tấn. Năm 2002,
Inđônêxia có kế hoạch nhập khẩu 700 ngàn tấn, trong đó sẽ nhập khẩu khoảng 500
ngàn tấn từ Việt Nam để có nguồn gạo đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính phủ
Inđônêxia đang dự kiến vay Ngân hàng phát triển Hồi giáo 102,5 triệu USD để
nhập khẩu số gạo trên.

Biểu đồ 1.1. Dân số và tiêu thụ gạo của 3 nước tiêu thụ lớn nhất
14
4%
16%
22%
58%
Dân số
9%
22%
33%
36%
Indonªxia
Ên §é
Trung Quèc
Kh¸c
Tiêu thụ gạo
1.1.2. Cơ cấu của thị trường gạo thế giới
1.1.2.1. Đặc điểm và triển vọng của thị trường gạo thế giới
* Đặc điểm của thị trường gạo thế giới
- Gạo là loại lương thực chủ yếu để nuôi sống hơn 50% dân số toàn cầu, tập
trung nhiều nhất ở châu Á. Chính vì vậy, thị trường gạo thế giới mang đặc tính
nhạy bén vì mỗi khi có sự biến động về nhu cầu ở những nước tiêu thụ gạo chính
như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Bănglađét, Pakistan thì cung cầu và giá gạo
trên thị trường thế giới lại thay đổi. Việc Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch giải toả 3
triệu tấn gạo vào cuối năm 2001 là một ví dụ để gây sức ép với thị trường gạo thế
giới. Cuối tháng 3/2000, Inđônêxia đã quyết định ngừng nhập khẩu gạo chính
ngạch cũng tạo những biến động không nhỏ tới giá gạo nói chung. Tuy nhiên, độ
nhạy cảm của thị trường gạo còn phải phụ thuộc vào lượng dự trữ toàn cầu và của
từng nước cũng như tỷ giá giữa gạo và loại lương thực thay thế gạo như lúa mỳ,
ngô

- Gạo không những được buôn bán đơn thuần như một hàng hoá giữa các
nước khác nhau mà còn là một trong những mặt hàng chiến lược thực hiện chính
sách đối ngoại của các Chính phủ thông qua hình thức viện trợ. Mỹ là nước đã sử
dụng hình thức này như một chiến lược ngoại giao nhằm tăng cường sự phụ thuộc
của các nước khác vào nước mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Tương tự như
15
vậy, EU thường nhập khẩu gạo để cung cấp miễn phí cho các nước châu Phi để đổi
lại các điều kiện khác về kinh tế.
- Trên thế giới có rất nhiều loại gạo mậu dịch phân loại theo các cách khác
nhau. Sự phong phú về chủng loại tạo nên sự đa dạng cho thị trường gạo thế giới.
Tương ứng với mỗi loại gạo khác nhau, tuỳ thuộc chất lượng phẩm cấp khác nhau
lại hình thành một mức giá cụ thể. Tính đa dạng và phức tạp của giá cả gạo là biểu
hiện sinh động trong buôn bán quốc tế trong suốt nhiều năm qua.
* Triển vọng của thị trường gạo thế giới
Trong những năm gần đây, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động phức
tạp, cụ thể là nhu cầu của các nước về gạo đặc biệt thấp. Mặc dù các nước xuất
khẩu không ngừng nỗ lực tìm kiếm thị trường nhưng giá gạo của tất cả các xuất xứ
đều giảm. Nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu lớn như Bănglađét, Inđônêxia,
Braxin hạn chế do sự phục hồi sản lượng sau 12 năm mất mùa. Theo dự báo của
FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo thế giới đến năm 2005 sẽ có chiều
hướng tăng chậm hơn so với những năm trước, mức tiêu thụ tăng chậm. Do đó, tốc
độ tăng của lượng gạo giao dịch toàn thế giới cũng sẽ giảm. Dự đoán trong tương
lai, châu Phi sẽ tham gia tích cực hơn vào thị trường gạo, đặc biệt là nhập khẩu.
Châu Á vẫn sẽ luôn là khu vực đứng đầu về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu với
nhiều thay đổi về cơ chế chính sách. Xuất khẩu gạo từ châu Âu và châu Mỹ có xu
hướng giảm do việc thắt chặt các quy định của thương mại thế giới làm hạn chế
chính sách trợ giá xuất khẩu.
Xu hướng trong những năm tới sẽ có nhiều nước tham gia vào xuất khẩu lúa
gạo, tạo sự sôi động và cạnh tranh gay gắt trên thị trường lúa gạo thế giới, đặc biệt
ở châu Á, do chính sách của nhiều nước cho phép khu vực tư nhân tham gia vào

xuất nhập khẩu gạo. Ngoài ra, trong những năm tới, giao dịch các loại gạo có chất
lượng cao có xu hướng tăng mạnh trong khi giao dịch gạo phẩm cấp thấp sẽ giảm
dần.
16
Gạo một mặt là hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất, mặt khác là
hàng hoá nhạy cảm và xuất khẩu có tính chiến lược ở một số nước, có xu hướng
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt giữa các nước tham gia xuất khẩu. Các nước
xuất khẩu luôn luôn tăng sản lượng lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu
tăng dân số mà còn nhằm mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, trong tình hình
hiện nay, các nước đều đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu để giảm hao phí và hư
hao, đầu tư chiều sâu để tăng nhanh năng suất và sản lượng. Để tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường, các nước trang bị ngày càng tốt hơn từ việc chọn giống, thu
hoạch, bảo quản, chế biến, vận tải, bao gói và điều kiện giao hàng thích hợp với đòi
hỏi của thị trường thế giới.
1.1.2.2. Tình hình nhập khẩu gạo
* Tình hình chung
Nhập khẩu gạo của thế giới nhìn chung có xu hướng tăng lên nhưng không ổn
định trong những năm gần đây, tuỳ thuộc vào sản lượng lương thực trong năm và
khả năng thanh toán của những nước nhập khẩu. Đa số các nước xuất khẩu gạo đạt
sản lượng cao kỷ lục đã làm giảm mạnh giá gạo trên thị trường thế giới.
Lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới cũng như từng nước thường xuyên
biến động và mang tính thời vụ rõ rệt. Vì sản xuất gạo phụ thuộc vào điều kiện
thiên nhiên, tỷ lệ dự trữ, tồn kho lương thực nên thường bất ổn. Năm mất mùa, các
nước thường cần gấp, nên nhập khẩu nhiều nhưng năm khác lại giảm sản lượng
nhập đáng kể. Khi giá gạo tăng cao, các nước có thể chuyển sang nhập khẩu hàng
thay thế cho gạo như lúa mì hoặc các ngũ cốc khác, gây biến động không nhỏ cho
sản lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới.
Trong hơn 10 năm qua, sản lượng nhập khẩu tăng do nhu cầu tăng, đặc biệt là
năm 1998 lên tới 27,67 triệu tấn. Những năm sau đó có giảm nhẹ vì được mùa ở
các nước nhập khẩu. Ước tính toàn năm 2001, thế giới nhập khẩu 22,30 triệu tấn

gạo.
17
Bảng 1.3. Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới (1998-2001)
Đơn vị: 1000 tấn
Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước)
Bắc Mỹ 840 4.439 4.718 4.744
Mỹ Latinh 3.357 14.085 14.272 14.661
EU 787 2.066 2.131 2.079
Tây Âu còn lại 60 50 53 55
Liên Xô cũ 321 1.191 1.346 1.311
Đông Âu 313 382 360 386
Trung Đông 3.224 6.159 6.499 6.435
Bắc Phi 188 2.984 3.097 3.177
Châu Phi còn lại 4.188 10.973 11.563 12.155
Nam Á 2.765 110.412 113.711 114.989
Châu Á còn lại 10.370 236.025 241.852 238.692
Châu Đại
Dương
288 608 670 706
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu–Bộ Thương mại
Châu Á luôn là khu vực nhập khẩu gạo nhiều nhất với khoảng hơn 55% lượng
gạo nhập khẩu toàn thế giới nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ tại các nước này.
Châu Phi chiếm tỷ trọng hơn 20% lượng gạo nhập khẩu và có chiều hướng tăng lên
trong thời gian qua tuy mức tăng không lớn. Trên thực tế các nước nghèo ở châu
lục này tiêu dùng gạo khá nhiều nhưng khả năng tài chính lại bị hạn chế rất đáng
kể. Do vậy, ở các nước này tuy thiếu gạo nhưng khả năng nhập khẩu có hạn. Châu
Mỹ cũng có khối lượng nhập khẩu chiếm khoảng 20% với nhu cầu ổn định và có
xu hướng tăng lên.
Nhập khẩu gạo trên thế giới cũng biến động theo nhóm nước. Tuỳ theo mức
độ thường xuyên, các nước chia theo hai nhóm: nhóm nước nhập khẩu gạo thường

xuyên và không thường xuyên. Nhóm thứ nhất bao gồm các nước luôn có nhu cầu
nhập khẩu gạo do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất không đáp ứng
đủ nhu cầu về gạo. Nhóm nước này bao gồm Malaixia (hàng năm cần nhập khoảng
400 ngàn tấn), Canađa (180 ngàn tấn), Angiêri (250 ngàn tấn) Nhóm thứ hai bao
gồm những nước sản xuất gạo nhưng không thường xuyên cung cấp đủ cho tập
18
quán tiêu dùng trong nước. Lượng gạo nhập khẩu ở các nước này không đều qua
các năm. Tiêu biểu cho nhóm này là Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản
* Một số nước nhập gạo chủ yếu trên thế giới
1) Inđônêxia
Hiện nay, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Inđônêxia. Dù đã sản xuất
một lượng gạo không nhỏ cho tiêu dùng nhưng Inđônêxia vẫn phải nhập khẩu
nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực. Đặc biệt vào năm
1995, nhập khẩu gạo của nước này tăng vọt lên tới 3,2 triệu tấn do chính sách dự
trữ gạo của Nhà nước và tốc độ tăng nhanh của dân số. Đến năm 1998, Inđônêxia
tiếp tục nhập gạo với sản lượng 6,1 triệu tấn cho tiêu dùng sau mất mùa. Năm
2000, Chính phủ Inđônêxia tăng thuế nhập khẩu từ 0% lên 35% và cho phép tư
nhân tự do nhập khẩu gạo nhưng cấm các loại gạo chất lượng thấp. Tổng số lượng
nhập khẩu năm 2000 giảm xuống là 1,3 triệu tấn, bằng 1/3 so với năm 1999 (3,9
triệu tấn). Năm 2001, dự đoán nước này cũng chỉ nhập khẩu khoảng hơn một triệu
tấn gạo.
2) Iran
Trong nhiều năm qua, Iran thường xuyên nhập khẩu gạo với số lượng khá ổn
định, đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Inđônêxia. Năm 1999, Iran
nhập 1,0 triệu tấn, năm 2000 tăng lên 1,1 triệu tấn và ước tính năm 2001 sẽ lại giảm
xuống mức 1,0 triệu tấn. Các số liệu trên đã cho thấy mức nhập khẩu tương đối cố
định của đất nước này. Với số dân 70 triệu, dự đoán trong tương lai, Iran vẫn là
nước nhập khẩu gạo lớn và có khả năng thanh toán cao. Nhà cung cấp gạo chủ yếu
của Iran là Thái Lan, Việt Nam, Pakistan.
3) Trung Quốc

Là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu
nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Năm 2000, Trung Quốc nhập khẩu 238.598 tấn
19
gạo, tăng 42% so với năm 1999, trong đó hầu hết là gạo có chất lượng cao của Thái
Lan. Nhập khẩu tăng do sản lượng gạo Trung Quốc giảm và tiêu dùng của người
dân đối với gạo thơm tăng lên. Khi tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), nhập khẩu gạo sẽ tăng nhẹ do Trung Quốc ban đầu phải nhập khẩu gần 3
triệu tấn mỗi năm nếu giá trị thị trường phù hợp với họ. Đến năm 2004, hạn ngạch
nhập khẩu dự kiến sẽ tăng tới 5,38 triệu tấn.
4) Braxin
Đây là nước duy nhất ở khu vực Nam Mỹ có mức nhập khẩu gạo khá lớn.
Tình hình nhập khẩu mặt hàng này ở Braxin trong đối ổn định và có xu hướng tăng
trong thời gian qua. Cụ thể năm 1989, lượng nhập khẩu của Braxin là 0,5 triệu tấn,
năm 1998 tăng lên 1,2 triệu tấn. Năm 1999, nước này tiếp tục là nước nhập khẩu
gạo lớn trên thế giới với mức nhập khoảng 1 triệu tấn. Năm 2000, sản lượng nhập
khẩu giảm xuống còn 0,7 triệu tấn và sẽ tiếp tục giảm trong năm 2001.
1.1.2.3. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua
* Tình hình chung
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, tổng lượng gạo xuất
khẩu của thế giới trong những năm gần đây tăng và tăng khá. Nếu như năm 1975,
thế giới xuất khẩu chỉ có 7,7 triệu tấn gạo thì năm 1989 số lượng gạo xuất khẩu đạt
13,9 triệu tấn, mức cao nhất so với các năm trước đó. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp
theo, số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 11,6 triệu tấn và 12,1 triệu tấn. Đến
năm 1998, số lượng gạo xuất khẩu tăng cao nhất là 27,7 triệu tấn. Trong 3 năm qua,
sản lượng gạo xuất khẩu có xu hướng giảm xuống: năm 1999 là 24,9 triệu tấn, năm
2000 là 22,9 triệu tấn và dự báo năm 2001 là 22,2 triệu tấn. Nhìn chung, mức tăng
trưởng chưa thật ổn định, có năm giảm so với năm trước và chưa thực sự phản ánh
khả năng dư thừa của những nước xuất khẩu và sự biến động không ngừng tình
hình cung cầu của thị trường gạo trên thế giới. Số lượng xuất khẩu gạo của thế giới
tăng lên nhờ những cải biến về mặt kỹ thuật, giống lúa và các chính sách mới của

20
các nước xuất khẩu gạo làm cho lượng gạo có xu hướng tăng lên trong những năm
gần đây.
Xuất khẩu gạo thế giới tập trung ở một số nước đang phát triển, chiếm 75%
đến 80% tổng số lượng xuất khẩu. Là châu lục sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều nhất,
với tiềm năng, điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng lúa, châu Á vẫn luôn là
khu vực xuất khẩu nhiều nhất. Bình quân hàng năm, châu Á cung cấp khoảng 70%
lượng gạo xuất khẩu cho thị trường thế giới, đồng thời còn là nơi tập trung hầu hết
các nước có thế mạnh về gạo như Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc
* Các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới
1) Thái Lan
Tuy Thái Lan không phải là nước sản xuất gạo lớn trên thế giới nhưng lại là
nước có số lượng gạo xuất khẩu nhiều và ổn định nhất, đồng thời có tốc độ tăng
trưởng cao, gần 10%/năm. Từ năm 1977 đến nay, cụ thể vào năm 1998 Thái Lan
xuất khẩu 6,4 triệu tấn, năm 1999 đạt con số kỉ lục là 6,7 triệu tấn (25% lượng xuất
khẩu toàn thế giới), năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt hơn 6,5 triệu tấn, giảm nhẹ so
với năm trước do ảnh hưởng của lũ lụt và bão nhiệt đới tại miền Đông Bắc. Trong
tình hình giá cả quốc tế biến động mà trong nước lại bội thu, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện chương trình can thiệp để ổn định giá gạo trong nước, giúp nông dân
duy trì phát triển trồng lúa. Các tổ chức quốc doanh Thái Lan đã mua gạo lưu kho
và thực hiện chính sách cho nông dân vay tín dụng dài hạn với lãi suất thấp. Chính
phủ Thái Lan đã thực hiện kế hoạch để phát triển ngành gạo, đặc biệt tập trung vào
thị trường gạo Jasmine, loại gạo đặc sản và là thế mạnh của Thái Lan.
Năm 2001, dự kiến tổng xuất khẩu của Thái Lan đạt 6,7 triệu tấn. Chiến lược
xuất khẩu gạo Thái Lan gồm 3 điểm chính. Đối với sản xuất, Thái Lan tiến hành
nghiên cứu để giảm thất thoát trong quá trình thu hoạch. Đối với thương mại và thị
trường, Thái Lan áp dụng triệt để Marketing-mix, tập trung tuyên truyền dùng gạo
Hương nhài, xúc tiến bảo vệ và tăng chất lượng gạo. Đối với chính sách gạo, Nhà
21
nước phối hợp với tư nhân soạn thảo chính sách khép kín từ nghiên cứu, sản xuất,

tiếp thị cho tới chế biến.
Với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo, Thái Lan luôn chi phối sâu sắc tình hình
biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới. Về chất lượng, gạo Thái Lan
có nhiều loại, đặc biệt là các loại gạo đặc sản được ưa chuộng ở khắp nơi và được
xuất đi nhiều nước. Thái Lan cũng là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Mỹ trên thị
trường loại gạo hạt dài và chất lượng cao, đồng thời cũng cung cấp cho cung gạo
của thế giới gần 1/3 tổng lượng gạo chất lượng thấp. Thị phần của Thái Lan nhìn
chung tương đối ổn định. Giá bán thường cao hơn so với các nước xuất khẩu gạo
khác như Việt Nam hay Pakistan. Giá chuẩn quốc tế cũng thường căn cứ vào giá
gạo của Thái Lan (FOB Băngcốc).
2) Trung Quốc
Không chỉ là một nước sản xuất, tiêu dùng, nhập khẩu gạo lớn trên thế giới,
Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trung Quốc nhập khẩu
gạo chất lượng cao song xuất khẩu gạo có chất lượng bình thường hoặc thấp. Năm
2000, mặc dù có hạn hán, quốc gia này đã vươn lên thứ ba trong số các nước xuất
khẩu gạo với số lượng là 2,95 triệu tấn, chỉ sau Thái Lan và Việt Nam, tăng 9% so
với năm 1999 (2,7 triệu tấn) nhưng giảm so với mức 3,7 triệu tấn năm 1998. Vị trí
này không ổn định trong các năm do sự biến động thất thường giữa cung cầu gạo
của nước này. Dự kiến năm 2001, Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm số lượng xuất khẩu
xuống còn 1,8 triệu tấn. Tuy nhiên, với ưu thế giá gạo rẻ và chất lượng ngày một
được cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, đặc biệt là
tại châu Phi và Nhật Bản.
3) Mỹ
Năm 2000, số lượng xuất khẩu gạo của Mỹ đạt 2,76 triệu tấn, đứng thứ tư
trong số các nước xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, những năm trước đây, Mỹ vẫn đứng
22
thứ hai trên thế giới sau Thái Lan mặc dù chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng số lượng lúa
toàn cầu và xếp thứ 11 về sản xuất gạo.
Là nước xuất khẩu gạo truyền thống với thị trường rộng lớn trên khắp các
châu lục, chất lượng gạo của Mỹ nổi tiếng là cao (loại A), đứng đầu thế giới và có

sức cạnh tranh ưu việt hơn hẳn các loại gạo khác, kể cả của Thái Lan. Trong những
năm đầu thập niên 90, Mỹ cung cấp khoảng 20% thị phần gạo thế giới mà chủ yếu
là các nước Mỹ Latinh (Mêhicô và Braxin). Xuất khẩu gạo của Mỹ có được thành
công nhờ vào hai lợi thế:
+ Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về công nghệ sản xuất, chế biến đến bảo
quản. Mỹ có hệ thống lưu kho dự trữ lớn nên gạo xuất khẩu luôn được đảm bảo về
mặt chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của các nước nhập
khẩu. Mỹ có thể xuất khẩu gạo ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chế biến, ở
mọi chất lượng khác nhau cũng như đáp ứng mọi hình thức bao gói hay chuyên
chở.
+ Thứ hai, sức mạnh kinh tế, chính trị và các mối quan hệ với bạn hàng. Gạo
xuất khẩu của Mỹ được coi là “nông phẩm chính trị” và nằm trong cơ chế bảo hộ
của Nhà Trắng với nhiều chính sách như chính sách trợ cấp thu nhập, chính sách
trợ giá xuất khẩu hay cấp tín dụng xuất khẩu Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách
can thiệp mạnh vào giá gạo, cả trong nước và xuất khẩu. Mỹ đã sử dụng gạo như
một vũ khí để thực hiện mục tiêu đối ngoại của mình trong các quan hệ kinh tế như
việc gây áp lực đối với mở cửa thị trường gạo của Nhật Bản và liên minh châu Âu.
Năm 2001, do những biến cố suy thoái kinh tế, đặc biệt vụ khủng bố ngày 11
tháng 9 và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, dự đoán số lượng xuất khẩu
của Mỹ sẽ giảm xuống còn 2,6 triệu tấn và sẽ gặp khá nhiều khó khăn trong xuất
khẩu mặt hàng này.
4) Pakistan
Là quốc gia nằm trong khu vực Nam Á, với số dân gần 150 triệu người,
Pakistan có truyền thống xuất khẩu gạo từ nhiều thập kỷ nay, với lượng gạo trung
23
bình trong thời gian gần đây là 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của nước này tương đối
ổn định với các loại gạo chất lượng trung bình và khá. Những năm gần đây, xuất
khẩu của Pakistan tăng nhẹ. Cụ thể là năm 1998 số lượng gạo xuất khẩu là 1,8 triệu
tấn, 1999 là 1,85 triệu tấn, 2000 là 2 triệu tấn và dự đoán trong năm 2001 sẽ là 2,25
tấn, chiếm hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.

5) Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia luôn ở trong tình trạng thiếu lương thực. Từ trước đến
nay, Ấn Độ phải nhập khẩu một lượng gạo lớn chất lượng thấp nhưng đồng thời
cũng xuất khẩu gạo Basmati, một loại gạo đặc sản, sang các thị trường châu Á và
châu Phi, đặc biệt là thị trường Trung Đông. Những năm gần đây, số lượng gạo
xuất khẩu của Ấn Độ không ổn định do gặp nhiều thiên tai. Hoạt động xuất khẩu
gạo của Ấn Độ đang có khó khăn vì Bănglađét, thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp
thấp chủ yếu của Ấn Độ, bắt đầu thực hiện thả nổi việc đấu thầu mua gạo từ tháng
1/2000 với điều kiện thanh toán nghiêm ngặt. Cụ thể là số lượng gạo xuất khẩu của
Ấn Độ từ 4,5 triệu tấn năm 1998, chiếm 16,2% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế
giới, năm 1999 còn 2,4 triệu tấn, năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu tấn.
Hiện nay, Bộ Thương mại Ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm AND để
đảm bảo sự thuần chủng cho giống gạo Basmati Ấn Độ và sẽ khuyến khích xuất
khẩu gạo cao cấp này. Bên cạnh đó, Ấn Độ cho phép Tổng công ty lương thực
quyết định giá xuất khẩu song không được thấp hơn giá bán cho người dân Ấn Độ
sống dưới mức nghèo khổ. Các nhà xuất khẩu Ấn Độ cho rằng gạo Ấn Độ có cơ
hội thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu như giá thấp như giá các xuất xứ
khác. Bộ Thương mại Ấn Độ cũng đã xem xét kế hoạch xoá bỏ hạn chế xuất khẩu
đối với các sản phẩm như gạo, lúa mì, đường và hành. Gạo xay xát hiện đang được
tự do xuất khẩu, mặc dù các tư nhân muốn xuất khẩu vẫn buộc phải đăng ký hợp
đồng với Cơ quan phát triển nông nghiệp và xuất khẩu thực phẩm chế biến. Hiện
tại, Ấn Độ đang thu hút các nhà nhập khẩu gạo như Nam Phi, Nigiêria, Arập-Xêút.
Mục tiêu của Ấn Độ trong những năm tới là giảm bớt chi phí của Chính phủ,
24
khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an toàn lương thực, đặc biệt là cố gắng xuất
khẩu 3 triệu tấn gạo vào niên vụ 2000/2001.
1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
1.2.1. Vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân
Việt Nam là một nước đông dân, trong đó gạo là lương thực chính và khó có
thể thay thế. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của sản xuất gạo đối với nền kinh tế

quốc dân. Bên cạnh đó, khi đất nước đã có thể đảm bảo an ninh lương thực, xuất
khẩu gạo trong điều kiện kinh tế hiện nay có ý nghĩa quyết định đối với quá trình
hội nhập của nước ta và được thể hiện trên nhiều khía cạnh, mà chủ yếu là:
1.2.1.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo những
bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy động tối đa mọi
nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có vốn
mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại,
đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực Vốn thường được huy động từ nhiều nguồn
khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay vốn trong dân, xuất khẩu trong đó vốn
thu được từ hoạt động xuất khẩu có tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu, qua đó
đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH đất nước.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch
từ xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ
lực của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ
lâu đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Theo số liệu mới nhất của
Bộ Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989 đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất
khẩu gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD, chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các
nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới
25
khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối với
riêng một mặt hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến
vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho năng suất
cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục
vụ công cuộc đổi mới đất nước.
1.2.1.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản
xuất phát triển

Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản
xuất theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa
tập trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng
bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại
giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế
của từng vùng.
Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi. Hàng loạt
các nghề phụ liên quan đến sản xuất và chế biến gạo như xay sát, bảo quản, đánh
bóng cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối với nền kinh tế dư thừa
lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn và góp phần
cải thiện đời sống nhân dân.
Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu gạo
tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu thụ
được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy mạnh
sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động ngược trở
lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện mở rộng
khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng của một quốc gia như Việt Nam.
Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện cạnh tranh, cọ xát với các
sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn
26
đối với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn kém hơn so với các
nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tồn tại của
gạo Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tổ chức, xem xét lại
khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, hạ giá thành sản phẩm
đồng thời nâng cao chất lượng. Các kênh phân phối cũng phải tổ chức lại một cách
hợp lý, giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận tối đa.
1.2.1.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống của nhân dân
Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những
ngành nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại, dịch vụ bao

gồm các công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu vào cho xuất khẩu.
Các hoạt động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ đạo đúng đắn sẽ tạo ra sự
khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân ở thời vụ thu hoạch, kích thích
nông dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó tác động trở lại đối với sản xuất và
xuất khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất gạo xuất khẩu có thể giải quyết việc làm,
tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động mà những ngành nghề khác có liên quan
cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của nước ta.
Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được cung
cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ ổn
định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu
được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước
không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân,
khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa.
Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế giới.
Dựa vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam, chúng ta cần biết
sản xuất loại gạo nào đạt hiệu quả cao nhất và có khả năng bán với số lượng lớn,
giá cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu
cầu người tiêu dùng và khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu khác để điều
27
chỉnh định hướng xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước
ta.
1.2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua
1.2.2.1. Tình hình chung
Nếu nhìn lại giai đoạn trước đổi mới, khi cả nước ta lâm vào cảnh thiếu đói
triền miên, các gia đình luôn phải tích trữ lương thực, trộn lẫn các loại gạo, sắn,
khoai trong mỗi bữa ăn thì mới thấy được thành công to lớn của ngành lương
thực nước ta trong suốt thời gian qua. Dưới cơ chế tập trung bao cấp, sản xuất nông
nghiệp nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, sản xuất không đủ tiêu dùng, thiếu
lương thực trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Từ khi thực
hiện đổi mới sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới kinh tế nông nghiệp

đến nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá VI, cùng với việc ban hành
một loạt các chính sách kinh tế mới, nông nghiệp nước ta đã có nhiều khởi sắc. Cơ
chế của nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo
hướng CNH-HĐH đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong xuất
khẩu gạo.
Năm 1989 là năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử xuất khẩu gạo của nước
ta, khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3, sau Thái Lan và Mỹ, trong số những nước xuất
khẩu gạo trên thị trường thế giới. Số lượng gạo xuất khẩu tăng dần từ 1,327 triệu
tấn vào năm 1989 lên tới 1,478 triệu tấn năm 1990, giảm nhẹ vào năm 1991 với 1
triệu tấn do những biến động từ thị trường Nga và Đông Âu sau khi CNXH Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Sau năm này, số lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam không ngừng tăng. Năm 1995, Việt Nam xuất khẩu 2,025 triệu tấn
và xếp vào vị trí thứ 4 trong các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sau quyết
định bãi bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, khối lượng gạo xuất khẩu có
xu hướng tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục vươn lên hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo vào
năm 1996 với số lượng hơn 3 triệu tấn, vượt qua Mỹ và chỉ xếp sau Thái Lan, Ấn
28

×