Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhận diện nhân vật Hoạn Thư trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.12 KB, 8 trang )

Nhận diện nhân vật Hoạn Thư
trong "Đoạn trường tân thanh"
của Nguyễn Du







Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) có sức thu hút đặc biệt đối với giới
nghiên cứu, phê bình văn học trong và ngoài nước. Bởi trong kiệt tác này, Nguyễn
Du đã tái hiện được cả một thế giới với những nhân vật thật hơn cả người thật. Hoạn
Thư là một trong số đó. Sự phức tạp và tính đa diện của nhân vật này có phải là mâu
thuẫn trong thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả? Đã có rất nhiều nhận xét, đánh
giá khác nhau và nhiều khi mâu thuẫn, đối lập nhau về Hoạn Thư. Nhìn chung, những
nghiên cứu này có thể chia làm hai hướng. Thứ nhất, Hoạn Thư được nhìn nhận như
là một nhân vật phản diện và cùng với các nhân vật phản diện khác, Hoạn Thư là
nguyên nhân làm cho Kiều phải gánh chịu bao nỗi bất hạnh. Như vậy thì về cơ bản,
Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh chỉ là một bản sao từ Kim Vân Kiều truyện.
Các tác giả đều thống nhất với nhau rằng, Hoạn Thư là biểu tượng của cái ghen
khủng khiếp, một con người lắm mưu, nhiều kế, một kẻ ác độc đến tàn nhẫn, sẵn sàng
chà đạp lên phẩm giá con người để trả mối tư thù. Ngược lại với cách nhìn trên, có
một số nhà nghiên cứu lại coi Hoạn Thư cũng chỉ là một nhân vật bi kịch, một nạn
nhân trong tác phẩm. Điều này được họ chứng minh khi chỉ ra sự sáng tạo của
Nguyễn Du trong các tình tiết, sự thay đổi tính chất mối quan hệ giữa Hoạn Thư,
Thúy Kiều và Thúc Sinh trong Đoạn trường tân thanh. Đặc biệt, giữa Hoạn Thư và
Thúy Kiều không tồn tại mối quan hệ đối lập mà họ là những người “tri âm, tri kỉ”
của nhau. Như thế, bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một
con người mới. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng xuất sắc của mình trong việc xây
dựng thành công hình tượng nhân vật này. Vậy thì cuối cùng, Hoạn Thư là nhân vật


phản diện hay bi kịch? Và điều đó có ý nghĩa như thế nào khi nghiên cứu Đoạn
trường tân thanh của Nguyễn Du trong tương quan so sánh vớiKim Vân Kiều truyện?
Thiển nghĩ, đó là câu hỏi không dễ trả lời trong một bài viết.
Con người không thể tồn tại tách rời xã hội, nói cách khác con người luôn
phải sống trong một môi trường nhất định và bản chất con người luôn được bộc lộ
thông qua những mối quan hệ trong môi trường ấy. Mác nói: “Con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghĩa là, khi ta muốn tìm hiểu bản chất một con người
cụ thể thì cần phải xem xét đến những mối quan hệ xã hội của con người đó.
Con người trong văn học cũng luôn được đặt trong những mối quan hệ phong
phú, phức tạp và qua đó, nhà văn sẽ xây dựng cho nhân vật của mình những cuộc
đời, số phận và tính cách khác nhau. Trong Đoạn trường tân thanh, bên cạnh Thúy
Kiều, Hoạn Thư là một nhân vật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nghiên
cứu Đông Hồ từng nhận xét, nếu không có Hoạn Thư thì Đoạn trường tân thanh sẽ
“sụt đi hết nửa phần giá trị”. Ông khẳng định Hoạn Thư là “một nhân vật lạ lùng kì
tuyệt phi thường” và “ví phỏng không có vai trò của Hoạn Thư thì quyển Truyện
Kiều là một câu chuyện nhạt quá”
(1)
. Nghiên cứu về thân phận của Hoạn Thư thì
không gì bằng đặt nhân vật này trong mối quan hệ với Kiều và Thúc Sinh.
Để làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư, trước hết Nguyễn Du đã làm thay
đổi tính cách của Thúc Sinh. Sang đến Đoạn trường tân thanh, chàng Thúc không
còn một chút chí khí nào (dù cũng là ít ỏi) như trong Kim Vân Kiều truyện. Một
chàng Thúc có đôi lúc cương cường biến mất để nhường chỗ cho một Thúc Sinh trí
tuệ thấp kém, đớn hèn và bạc nhược. Vì vậy, Hoạn Thư trong Đoạn trường tân
thanh trở nên bản lĩnh, thông minh, sắc sảo, “thiệp thế biết điều” hơn rất nhiều so
với Hoạn Thư trong nguyên tác. Việc lược bớt, đảo và thêm vào một số chi tiết cũng
làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư. Đến Đoạn trường tân thanh, một Hoạn Thư
nanh nọc và tàn ác đã được thay thế bởi một Hoạn Thư vị tha, độ lượng. Với việc
lược đi một số tình tiết biểu hiện sự ghê gớm, tàn độc của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã
chứng tỏ ông rất đề cao tấm lòng liên tài, sự tri ngộ, biết cảm thông, chia sẻ ở nhân

vật này. Đây là điều khác nhau cơ bản giữa Hoạn Thư trong Đoạn trường tân
thanh và Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều truyện.
Từ việc thay đổi tính cách của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã làm thay đổi số phận
của nhân vật này. Bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một
nhân vật bi kịch và để làm được điều này, Nguyễn Du đã thay đổi tính chất mối
quan hệ giữa Hoạn Thư và Thúc Sinh, Hoạn Thư với Thúy Kiều.
Quan hệ vợ chồng giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư không hề bình thường bởi
trước hết đây là mối quan hệ mang tính đẳng cấp. Thúc Sinh chưa bao giờ là một
người chồng theo đúng nghĩa của nó mà trong tay Hoạn Thư, trước sau anh ta cũng
chỉ là một con rối, một thằng hề mà thôi. Sự đối lập - tương phản về tính cách giữa
vợ chồng Thúc - Hoạn chưa phải là bi kịch lớn nhất của Hoạn Thư mà ở nàng còn
một nỗi đắng cay hơn nhiều: đó là bi kịch của người đàn bà có chồng mà không
được chồng yêu, lại bị chồng lừa dối và phụ bạc.
Dưới ngòi bút Nguyễn Du, cuộc tình Kiều - Thúc càng say đắm, nồng nàn và
đẹp đẽ bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng Thúc - Hoạn lạt lẽo, vô vị bấy nhiêu.
Đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều thể hiện rõ nhất tình cảm hai người dành cho
nhau và đây có thể coi là một trong những đoạn thơ vào loại hay nhất Đoạn trường
tân thanh:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Kiều - Thúc chia tay trong một tâm trạng ngổn ngang, rối bời. Nỗi buồn trong
Kiều da diết mà sâu lắng. Có thể nói, đây là cuộc chia tay đầy nước mắt. Phải về
quê thăm vợ đối với Thúc Sinh là một việc “vạn bất đắc dĩ”. Nếu như Nguyễn Du đã
dành biết bao câu thơ hay để đặc tả mối tình Kiều - Thúc thì tình cảm vợ chồng

Thúc - Hoạn sau bao ngày gặp lại chỉ được ông miêu tả trong một dòng lục bát:
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tình cảm Thúc Sinh dành cho Hoạn Thư chỉ có bấy nhiêu. So với Thúy Kiều,
Hoạn Thư quả thực rất thiệt thòi. Vì thông minh và nhạy cảm, Hoạn Thư lại ý thức
rất rõ điều này và đó trở thành một nỗi đau thường trực trong nàng. Thúc Sinh yêu
Kiều bao nhiêu thì điều đó càng chứng tỏ chàng phụ bạc Hoạn Thư bấy nhiêu. Khi
từ biệt Kiều để về thăm vợ chàng bịn rịn, đau khổ bao nhiêu thì khi chia tay với
Hoạn Thư chàng vui mừng, hạnh phúc bấy nhiêu:
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Trong tâm trạng ấy, khung cảnh thiên nhiên trước mắt Thúc Sinh bỗng trở nên
rất đẹp và nên thơ:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Thật tội nghiệp cho Hoạn Thư!
Như vậy, trong mối tình tay ba Kiều - Thúc - Hoạn, Nguyễn Du dựng nên
nhiều sự đối lập và sự đối lập ấy đã làm tăng tính chất bi kịch ở Hoạn Thư.
Ở đoạn Kiều báo ân, báo oán, bằng cách lược bỏ một số chi tiết trong nguyên
tác, Nguyễn Du đã đẩy bi kịch của Hoạn Thư lên tới đỉnh điểm. Đó là bi kịch của
người đàn bà trong hoạn nạn bị chồng bỏ rơi. Trong Kim Vân Kiều truyện, sau khi
được Kiều báo ân, Thúc Sinh đã chủ động xin Thúy Kiều tha cho vợ mình: “Kính
bẩm phu nhân! Con vợ ngu xuẩn của tôi dù muôn lần chết cũng là đáng tội. Xong
Thúc Thủ này đã được phu nhân ân xá, vậy đối với vợ tôi, cũng xin rộng lòng từ bi,
mở cho một con đường sống”
(2)
.
Khi bị Thúy Kiều căn vặn, Thúc Sinh còn dám nhắc lại ơn cũ của vợ mình
dành cho Thúy Kiều để hi vọng cứu được vợ: “Gác Quan Âm viết kinh, phu nhân
quên rồi à?”

(3)
.

Như thế, dù sao chàng Thúc trong Kim Vân Kiều truyện vẫn còn nhớ
đến tình nghĩa vợ chồng, đến trách nhiệm làm chồng của mình. Lời nói của Thúc
Sinh vẫn còn hàm chứa tình cảm đối với Hoạn Thư.
Trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã dựng nên một chàng Thúc
khúm núm, sợ hãi đến thảm hại khi được Kiều đền ơn:
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Khi nghe Kiều nói sẽ trị tội vợ mình:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thúc Sinh chẳng những không dám mở mồm xin cho vợ một câu mà chỉ còn
biết sợ hãi: “Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm”. Hoạn Thư phải một mình đối
phó với Kiều. Hành động này của Thúc Sinh chứng tỏ chàng không những là người
hèn kém, nhu nhược mà còn là kẻ bạc tình, bạc nghĩa. Thúc đã bỏ rơi Hoạn vào lúc
gian nguy nhất của cuộc đời nàng. Hoạn Thư có chồng mà cũng như không. Ông tơ
đã xe duyên cho nàng cùng chàng Thúc cũng là bắt nàng phải gánh chịu một số
phận nghiệt ngã. Có người chồng như Thúc quả là điều đau đớn đối với Hoạn Thư.
Bằng cách xây dựng lại mối quan hệ vợ chồng Thúc - Hoạn trong Đoạn trường tân
thanh, Nguyễn Du đã chứng tỏ Hoạn Thư là một nhân vật bi kịch. Trong Đoạn
trường tân thanh, Nguyễn Du từng viết:
Đau đớn thay, phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đó chính là lời khẳng định, sự tổng kết đầy đau xót của Nguyễn Du về số
phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Với hình tượng nhân vật Hoạn Thư trong tác
phẩm của mình, Nguyễn Du đã chứng minh quy luật ấy là đúng với bất kì ai. Hoạn

Thư là người rất hiểu Kiều, thông cảm cho hoàn cảnh của Kiều song không thể đối
xử khác với Kiều. Nhà nghiên cứu Đông Hồ từng khẳng định trong Đoạn trường tân
thanh, nhân vật tri kỉ nhất của Kiều chính là Hoạn Thư. Kim Trọng, Thúc Sinh và
Từ Hải chỉ là những người tương đắc với Thúy Kiều còn người tri kỉ thực sự với
Kiều chỉ có mình Hoạn Thư. Hoạn Thư và Thúy Kiều chính là “hai người bạn tri kỉ”
trong Truyện Kiều. Họ rất thông cảm và chia sẻ với nhau vì đều là những người đàn
bà chịu kiếp chồng chung. Xét riêng về mặt này thì cả hai đều là nạn nhân. Và trong
vai trò của người vợ cả, Hoạn Thư thực sự thấu hiểu tình cảnh ấy. Chính vì vậy,
nàng luôn dành cho Kiều những tình cảm tốt đẹp và cách đối xử tốt nhất có thể.
Từ chỗ tri kỉ, Hoạn Thư đã có sự tri ngộ, gia ân với nàng Kiều. Hiểu rõ một
người, trong lòng lại chất chứa đầy sự cảm thông và yêu mến người ấy mà vẫn phải
hành xử với nhau như kẻ thù. Tri ngộ, gia ân nhưng bề ngoài phải tỏ ra lạnh lùng và
tàn nhẫn, Hoạn Thư không được sống đúng là mình, luôn phải kìm nén, phải giết
chết những tình cảm thật trong lòng mình. Đó chính là bi kịch của Hoạn Thư trong
mối quan hệ với Thúy Kiều. Trong những giờ phút được sống thật với mình, sống
đúng là mình với Kiều, ta thấy giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều quả có mối tri ngộ.
Nếu như sự sáng tạo của các tác giả trung đại thường tập trung ở những tình
tiết thì việc Kiều tha bổng cho Hoạn Thư trong đoạn báo ân, báo oán mà không hề
đánh đập, khảo tra tiếp tục khẳng định điều đó. Đây không phải một kết thúc bất
ngờ mà là kết quả của sự tri kỉ, tri ngộ giữa hai người. Theo dõi mối quan hệ Hoạn
Thư - Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm và xâu chuỗi lại, ta thấy nhận xét trên
không phải là thiếu căn cứ. Nguyễn Du đã chuẩn bị rất kĩ cho kết cục này. Từ đoạn
để cho Hoạn Thư xuất hiện trong suy nghĩ của Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy Kiều
rất hiểu Hoạn Thư. Tình tiết Hoạn Thư để cho Kiều ở nhà Hoạn bà rồi sau đó mới
mang Kiều về làm người hầu cũng chứng tỏ Hoạn Thư rất hiểu Kiều. Rồi sau đó,
Kiều luôn được Hoạn Thư gia ân trong nhiều tình tiết như không bắt Kiều hầu ngủ,
cho Kiều ra Quan Âm các, không truy nã khi Kiều bỏ trốn… Ngay trong đoạn
Kiều hầu rượu, hầu đàn thì rõ ràng, mục đích của việc đánh ghen là nhằm vào Thúc
Sinh chứ không phải là nhằm vào Thúy Kiều. Vì vậy, cách hành xử của Hoạn Thư
với Kiều mang đầy sự bao dung, độ lượng chứ không tàn độc như nguyên mẫu

trong Kim Vân Kiều truyện. Để cho Kiều tha Hoạn Thư cũng là gián tiếp thừa nhận
sự gia ân mà trước đây Hoạn Thư đã dành cho Kiều. Việc Kiều tri ân đối với Hoạn
Thư là điều hoàn toàn đúng và hợp lôgic bởi nàng đã hiểu sự tri ngộ, gia ân của
Hoạn Thư với mình. Hầu như tất cả các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh dính
dáng đến Thúy Kiều đều bị định mệnh của nàng làm cho bị “vạ lây”. Hoạn Thư
cũng vậy. Tuy nhiên, nếu như các quan hệ khác của Kiều đều kết thúc trong bi kịch
(kể cả quan hệ của nàng với Kim Trọng) thì quan hệ Hoạn Thư - Thúy Kiều lại
được giải quyết một cách tốt đẹp. Bởi dù sao, Hoạn Thư và Kiều đều là “phận đàn
bà” có chung một “lời bạc mệnh” và đáng quý hơn là cả hai người đều thấu hiểu
điều đó. Nguyên nhân chính dẫn đến cách ứng xử trên của Kiều không phải là tài
biện hộ của Hoạn Thư mà do tấm lòng liên tài, sự xót thương cho những kẻ đồng
cảnh ngộ nơi nàng. Toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyễn Du đến từng chi tiết ở trên sẽ
trở nên vô nghĩa nếu Kiều trong Đoạn trường tân thanh cũng hành động như Kiều
trong Kim Vân Kiều truyện. Kết thúc mối quan hệ giữa hai kẻ “tình địch” như vậy,
Nguyễn Du đã đạt được nhiều mục đích mà quan trọng nhất là đã xây dựng được
một mối dây liên hệ giữa hai con người tưởng như “không đội trời chung” để từ đó
khắc sâu bi kịch của họ, đặc biệt là bi kịch của Hoạn Thư.
Dựa vào một nguyên mẫu trong nguyên tác, với một ý đồ sáng tạo mới,
Nguyễn Du đã làm thay đổi bản chất của nhân vật Hoạn Thư - đặc biệt ở phương
diện tính cách và số phận nhân vật. Từ một điểm nhìn trần thuật mới, ông đã thực
hiện một cuộc “lột xác” cho Hoạn Thư. Đúng như Trần Đình Sử nhận xét: “Nhân
vật vay mượn có thể được miêu tả theo những trọng tâm, điểm nhấn khác và trở
thành nhân vật khác”
(4)
. Hoạn Thư từ một con người đạo lí, một nhân vật hành động
đã trở thành nhân vật tâm trạng với đời sống nội tâm phong phú, đa dạng.
Trong Đoạn trường tân thanh, ta bắt gặp một Hoạn Thư tỉnh táo, lí trí hơn song
luôn giằng xé với những trăn trở, đớn đau. Ở Hoạn Thư luôn có sự tồn tại, đấu tranh
của con người giai cấp và con người cá nhân. Càng thông minh bao nhiêu, càng sắc
sảo bao nhiêu thì số phận của nàng lại càng đắng cay và nghiệt ngã bấy nhiêu. Nàng

vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân.
Bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Du đã xây dựng một nhân vật
Hoạn Thư khác hẳn so với nguyên tác. Từ một nhân vật đơn nhất và phản diện trong
nguyên tác, bằng cách miêu tả con người nội tâm nhiều chiều và thêm, cắt bỏ và
lược đi một số chi tiết, Nguyễn Du đã biến Hoạn Thư trở thành một nhân vật đa
diện với một số phận bi kịch trong Đoạn trường tân thanh. Chỉ riêng điều này cũng
giúp ta có thể khẳng định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du. Cùng với những
thành công khác của Đoạn trường tân thanh, nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp
phần đưa tác phẩm lên hàng kiệt tác

×