Tải bản đầy đủ (.pdf) (249 trang)

Giáo trình nghiệp vụ thuế ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 249 trang )







Giáo trình
nghiệp vụ
thuế

2
Lịch sử phát triển hệ thống thuế Việt Nam
từ 1945 đến 2004
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập cho đất nớc, thành
lập chính thể dân chủ cộng hoà, Nhà nớc do dân và vì dân đầu tiên ở Đông
Nam á. Trong thời gian gần 60 năm qua, đất nuớc trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử, mỗi giai đoạn có những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội riêng.
Do đó, việc xây dựng và sử dụng hệ thống thuế cũng luôn thay đổi phù hợp với
mỗi giai đoạn lịch sử của đất nớc. Khái quát sự phát triển hệ thống thuế Việt
Nam đợc thể hiện trong các giai đoạn lịch sử sau đây:
1. Hệ thống thuế giai đoạn từ 1945 đến 1954
1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội giai đoạn 1945 đến 1954
Cách mạng tháng Tám thành công cha đợc bao lâu thì thực dân Pháp lại
trở lại xâm lợc nớc ta lần thứ hai. Cuối năm 1946, khi Pháp nổ súng đánh
chiếm Nam Bộ, Chính phủ đã ra lời kêu gọi "Toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến, vừa kháng chiến và kiến quốc". Sau 9 năm trờng kỳ kháng chiến,
tháng 5 năm 1954, chúng ta đã giành thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu,
buộc địch phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Theo đó, đất nớc ta tạm thời chia thành
hai miền: miền Bắc đợc hoàn toàn giải phóng từ sông Bến Hải trở ra; miền Nam
tạm thời do Pháp chiếm đóng, sau hai năm Pháp sẽ rút hết quân và đất nớc sẽ
thống nhất theo điều ớc của Hiệp định.


Trong lúc tình hình quân sự nh nớc sôi lửa bỏng thì tình hình kinh tế lại
vô cùng khó khăn. Hậu quả của 80 năm đô hộ của Pháp đã vơ vét bóc lột nhân
dân ta tới kiệt quệ bằng chính sách thuế khoá nặng nề hà khắc. Thủ đoạn vơ vét
trắng trợn của phát xít Nhật càng làm cho nhân dân ta nghèo đói tận cùng. Khi
nhân dân ta giành đợc chính quyền lại gặp phải thiên tai lớn hạn hán, ngập lụt
vỡ đê, làm cho 6 tỉnh miền Bắc mất mùa là nguyên nhân gây ra nạn đói năm
1945 làm cho trên một triệu ngời bị thiệt mạng.
Tình hình tài chính - tiền tệ hết sức nan giải, Chính phủ ta tiếp quản một
ngân sách trống rỗng chỉ có trên một triệu đồng trong khi khoản nợ của Chính
phủ cũ để lại rất lớn. Cùng một lúc trên thị trờng lu hành 3 loại tiền: tiền Đông
Dơng do Ngân hàng Pháp phát hành dùng chung cho cả 3 Nhà n
ớc Việt, Miên,
Lào; tiền quan kim và tiền quốc tệ do Tởng Giới Thạch đem sang chi dùng cho
đội quân của chúng.
Để đối phó với tình hình trên, Đảng và Nhà nớc đa ra các chủ trơng: diệt
giặc đói; diệt giặc dốt; diệt giặc ngoại xâm; và từng bớc phát hành đồng tiền
Tài chính Việt Nam thay cho đồng Đông Dơng. Thực hiện các chủ trơng này
đã tác động tích cực làm cho nền kinh tế hồi phục và phát triển đáp ứng yêu cầu
của tiền tuyến.
1.2. Quan điểm sử dụng thuế của Nhà nớc giai đoạn 1945 đến 1954
Thuế là nguồn thu chủ yếu đảm bảo nhu cầu của Nhà nớc trong thời gian
này nên Nhà nớc ta chủ trơng:

3
- Giai đoạn đổi mới giành chính quyền Nhà nớc tiến hành bãi bỏ các loại
thuế bất công vô lý của Pháp để giảm gánh nặng thuế khoá cho dân, sửa đổi và
giảm nhẹ một số thuế hợp lý để duy trì nguồn thu, đảm bảo số thu cho Nhà nớc.
Đồng thời, thực hiện vận động quyên góp ủng hộ Nhà nớc để bù số thu.
- Từng bớc ban hành các chính sách thuế riêng của nớc ta. Các chính sách
thuế ban hành phải đảm bảo công bằng dựa trên thu nhập của các tầng lớp dân

c. Thuế phải tác động tích cực khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh,
nhất là sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Thuế là công cụ đấu tranh
kinh tế với địch, giữa vùng tự do và vùng địch tạm chiếm. Thuế là công cụ chủ
yếu huy động nguồn thu cho Nhà nớc đáp ứng nhu cầu cho cuộc kháng chiến.
Việc sử dụng thuế nằm trong tổng thể của chủ trơng chung về tài chính là
"tăng thu, giảm chi, thống nhất quản lý thu chi".
1.3. Các sắc thuế giai đoạn 1945 - 1954
Thời kỳ đổi mới giành đợc chính quyền Nhà nớc bãi bỏ các loại thuế vô
lý của Pháp chỉ giữ lại 2 loại thuế đó là:
- Thuế điền thổ: thu vào đất ruộng và đất vờn nhng giảm bớt mức thu.
- Thuế môn bài: thu vào ngời kinh doanh công thơng nghiệp.
Nhà nớc tạm thời ban hành một số thuế mới để huy động nguồn thu gồm:
- Thuế du hý: đánh vào doanh thu của các loại hoạt động kinh doanh văn
hoá văn nghệ vui chơi theo thuế suất tỷ lệ % trên doanh thu.
- Thuế đặc biệt: đánh vào xe hơi, xe vận tải.
- Thuế sát sinh: xác định theo mức tuyệt đối trên đầu con vật bị giết thịt, đại
gia súc và tiểu gia súc (trâu, bò, ngựa, lợn, dê, cừu ).
- Thuế đảm phụ quốc phòng: thu mức cố định theo đầu ngời nam giới từ 18
tuổi đến 65 tuổi.
- Thuế đánh vào thuốc lá, thuốc lào với thuế suất tính theo tỷ lệ % trên
doanh thu.
Những loại thuế trên đợc giao cho các địa phơng tổ chức thu, nh
ng kết
quả thu không lớn một phần vì kinh tế cha phát triển nên nguồn thu nhỏ, phần
khác do các địa phơng cha tích cực thu vì tâm lý của nhân dân còn nặng nề do
hậu quả của các chính sách thuế của Pháp để lại.
Năm 1946, cả nớc bớc vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhu
cầu chi tiêu cho tiền tuyến ngày càng lớn Nhà nớc đã bãi bỏ một số thuế, sửa
đổi một số thuế và ban hành lại thuế mới gồm các loại thuế sau:
- Thuế điền thổ: sửa đổi từ biểu thuế tuyệt đối sang biểu thuế suất luỹ tiến

từng phần theo sản lợng thu hoạch.
- Thuế môn bài: Phân biệt mức thu tuyệt đối khác nhau theo quy mô kinh
doanh.
- Thuế thuốc lá, thuốc lào: nâng mức thuế suất cao để hạn chế tiêu dùng.
- Thuế quan: đánh vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu qua cửa khẩu, biên
giới và giữ vùng tự do với vùng địch tạm chiếm.

4
- Thuế lãi doanh nghiệp và thuế lợi tức tổng hợp đánh vào thực lãi của các
cơ sở kinh doanh. Hai loại thuế này tuy có ban hành nhng cha áp dụng để thu
vì chiến tranh nên các cơ sở kinh doanh phải sơ tán gặp nhiều khó khăn.
Thời gian thực hiện các loại thuế từ 1946 đến 1950, kết quả đạt đợc rất
thấp vì chiến tranh theo thế "cài răng lợc" vùng tự do bị địch tăng cờng đánh
phá bằng máy bay các cơ sở sản xuất kinh doanh phải phân tán chủ yếu hoạt
động ban đêm. Việc quản lý tài chính thực hiện theo phơng thức "phân tán",
các địa phơng "tự cấp tự túc". Phần lớn các địa phơng cha quan tâm quản lý
thu thuế do yếu tố tâm lý. Các địa phơng vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thu động
viên, quyên góp bằng các phong trào "Tuần lễ vàng"; "Mùa đông binh sỹ"; "Hũ
gạo nuôi quân" Vì vậy, thuế cha phát huy đợc tác dụng.
Năm 1951, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bớc sang giai đoạn tổng
phản công để giành thắng lợi cuối cùng bằng chiến dịch "Điện Biên Phủ" yêu
cầu phải "tập trung nhân tài vật lực cho tiền tuyến", đòi hỏi phải tập trung nguồn
thu cho Chính phủ Trung ơng và thống nhất các chính sách huy động nguồn
thu, Nhà nớc đã quyết định bãi bỏ các thứ thuế hiện hành, thống nhất quản lý
thu chi tài chính về Trung ơng: toàn bộ số thu nộp hết cho Trung ơng, các địa
phơng lập dự toán chi để Trung ơng cấp vốn. Thực hiện quyết định này, Nhà
nớc đã ban hành 7 thứ thuế áp dụng thống nhất cả nớc bắt đầu từ năm 1951
đến 1954 bao gồm:
1. Thuế nông nghiệp: căn cứ tính thuế là hoa lợi bình quân nhân khẩu trong
hộ mức hoa lợi khởi điểm tính thuế là 81kg với biểu thuế suất luỹ tiến từng phần

từ 5% đến 45%.
2. Thuế công thơng nghiệp: thu vào hoạt động kinh doanh công nghiệp,
dịch vụ. Thuế công thơng nghiệp bao gồm 4 thứ thuế:
- Các doanh nghiệp lớn nộp hai thứ thuế: thuế doanh thu đánh theo tỷ lệ %
trên doanh thu; thuế thực lãi thu theo tỷ lệ % vào lãi ròng.
- Các cửa hàng kinh doanh nhỏ hẹp: thuế quán hàng với thuế suất luỹ tiến
theo thu nhập.
- Các cơ sở kinh doanh buôn bán: nộp thuế buôn chuyến thuế suất theo tỷ lệ
trên giá trị của chuyến hàng.
3. Thuế hàng hoá: đánh vào 81 mặt hàng với thuế suất tỷ lệ % cao để hớng
dẫn sản xuất và tiêu dùng, nhằm hạn chế bớt sản xuất, tiêu dùng những loại hàng
hoá này.
4. Thuế sát sinh: thu một mức thu cố định vào từng loại đại gia súc và tiểu
gia súc giết mổ. (trâu, bò, ngựa, lợ, dê cừu).
5. Thuế trớc bạ: đánh vào giá trị của một số tài sản chuyển nhợng theo
danh mục quy định.
6. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu: đánh vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua
biên giới, cửa khẩu, và ranh giới giữa vùng tự do với vùng định tạm chiếm. Thuế
suất tỷ lệ % trên giá trị lô hàng xuất nhập khẩu.
7. Thuế tem: thu vào tem th bu chính. Loại thuế này tuy có ban hành
nhng không áp dụng trong thực tế.

5
Nh vậy, chỉ có 6 loại thuế đợc sử dụng để huy động nguồn thu trong thời
gian từ 1951 đến 1954. Kết quả thu đợc 6 loại thuế mới đã làm cho số thu của
Nhà nớc ngày càng tăng, đảm bảo nhu cầu chi tiêu lớn cho tiền tuyến và xã hội.
1.4. Đánh giá hệ thống thuế giai đoạn 1945 - 1954
Năm năm đầu khi giành đợc chính quyền, Nhà nớc có sửa đổi một số thuế
và ban hành một số sắc thuế. Nhng thực chất chỉ là giải pháp tạm thời xử lý tình
huống. Các loại thuế đa ra cha có cơ sở khoa học, cha phù hợp với điều kiện

kinh tế xã hội, do đó, hiệu quả rất thấp. Bên cạnh đó, tâm lý của các cấp chính
quyền và tâm lý của các tầng lớp dân c đối với thuế của thực dân Pháp còn đang
bị đè nặng đã tác động rất lớn đến việc tổ chức thực hiện các loại thuế. Vì vậy,
thuế hầu nh không phát huy đợc tác dụng.
Năm 1951, Nhà nớc ban hành thống nhất 7 loại thuế áp dụng trong cả nớc
đã đặt nền móng đầu tiên cho hệ thống thuế Việt Nam. Các loại thuế này đã
bớc đầu phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nớc ta nên đã phát huy đợc tác
dụng tích cực trong việc khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đã
huy động nguồn thu đáng kể cho Nhà nớc, đảm bảo nhu cầu của tiền tuyến và
nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nớc.
Tuy nhiên, hệ thống lúc này mới chỉ là bớc đầu sơ khai cha hình thành hệ
thống thuế hoàn chỉnh. Từng sắc thuế, về nội dung, còn quá đơn giản cha đảm
bảo yêu cầu khai thác các nguồn thu.
Thuế mới chỉ dừng lại ở mức các văn bản chính sách hoặc điều lệ nên hiệu
lực pháp lý không cao.
2. Hệ thống thuế giai đoạn 1954 - 1989
2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội giai đoạn 1954 - 1989
Chiến thắng Điện Biên Phủ và kết quả hội nghị Giơ-ne-vơ, miền Bắc đợc
hoàn toàn giải phóng, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ chống lại Mỹ ngụy để giải phóng hoàn toàn đất nớc.
ở miền Bắc đã tiến hành cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, cờng hào
chia ruộng đất cho dân cày và thực hiện ba năm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thơng chiến tranh, xoá sự khác biệt về kinh tế và các chính sách giữa vùng tự do
và vùng giải phóng. Nền kinh tế miền Bắc đã trở lại ổn định, tạo đà cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bắt đầu bằng ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất; cách mạng
khoa học kỹ thuật; cách mạng t tởng văn hoá. Trong giai đoạn này, miền Bắc
phải thực hiện đồng thời 3 nhiệm vụ: tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh
thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và là hậu phơng lớn chi viện
tích cực cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.

Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam đợc giải phóng, hai năm
đầu cả nớc thống nhất về chính quyền nhng hai miền Bắc Nam cha thống
nhất về kinh tế và chính sách. Miền Nam khôi phục kinh tế, khắc phục khó khăn
sau chiến tranh và thực hiện cải tạo t sản, cải tạo tiểu thủ công nghiệp và cải tạo
nông nghiệp.
Sau hai năm cả nớc thống nhất về kinh tế cùng thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ 2 tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của thời kỳ quá độ lên Chủ

6
nghủ nghĩa xã hội. Kinh tế quốc doanh và hợp tác xã bắt đầu phát triển, nhiều cơ
sở công nghiệp quan trọng của đất nớc đợc xây dựng, sản lợng trong nông
nghiệp tăng biểu hiện là phong trào đạt năng suất 5 tấn, 10 tấn/ha. Nhng những
năm 1985 trở đi, nền kinh tế cả nớc lâm vào khó khăn, tốc độ tăng trởng kinh
tế chậm dần, sản lợng sản xuất của nhiều ngành giảm sút, nhiều hợp tác xã
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thơng nghiệp lần lợt bị tan vỡ do năng suất
lao động thấp, đời sống xã viên khó khăn.
Quan hệ quốc tế về kinh tế chuyển sang hợp tác trên tinh thần bình đẳng đôi
bên cùng có lợi, có vay có trả, không còn viện trợ cho không nên nguồn thu
trong nớc không đủ, phải vay nợ nớc ngoài. Ngân sách Nhà nớc ngày càng
bội chi lớn, lạm phát tăng, giá cả leo thang, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn, tình hình xã hội có nhiều phức tạp, tiêu cực nảy sinh.
Cùng lúc đó hàng loạt nớc trong phe Xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị nên đã tác động lớn đến nền kinh tế, chính
trị, xã hội nớc ta. Trớc tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ VI và lần thứ VII đã
định ra đờng lối phát triển kinh tế theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà
nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phát triển đa thành phần kinh tế; mở cửa
hội nhập kinh tế với thế giới. Đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng đã định ra con
đờng đi mới cho kinh tế tài chính nói chung và thuế nói riêng.
2.2. Quan điểm sử dụng thuế giai đoạn 1954 1989
Giai đoạn này có rất nhiều thời kỳ lịch sử với những chủ trơng kinh tế xã

hội khác nhau. Quan điểm chung về sử dụng thuế phục vụ cho việc thực hiện các
chủ trơng kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ. Cụ thể là:
- Sử dụng thuế để đẩy nhanh quá trình khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
- Sử dụng thuế làm công cụ tích cực góp phần thực hiện chủ trơng cải tạo
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa xã hội để hình thành
hai chế độ sở hữu: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
- Sử dụng thuế để kích thích việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội trong khu vực kinh tế tập thể.
- Đối với kinh tế quốc doanh không sử dụng thuế để điều tiết, mà dùng chế
độ huy động khác ngoài thuế, nguồn thu từ kinh tế quốc doanh là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách Nhà nớc.
- Sử dụng thuế để khuyến khích kinh tế tập thể, nhất là sản xuất nông nghiệp
tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ các quan điểm trên nên hệ thống thuế và thu của nớc ta đợc
bổ sung sửa đổi qua từng khoảng thời gian khác nhau.
2.3. Hệ thống thuế giai đoạn 1954 1989
2.3.1. Thuế trong thời gian 3 năm khôi phục kinh tế
Để nhanh chóng hoà nhập giữa hai vùng tự do và vùng mới giải phóng, Nhà
nớc đã quyết định áp dụng thống nhất trên toàn miền Bắc các sắc thuế: thuế
nông nghiệp; thuế doanh thu; thuế thuế lợi tức doanh nghiệp; thuế hàng hoá;
thuế buôn chuyến; thuế sát sinh; thuế kinh doanh nghệ thuật; thuế muối; thuế
rợu; thuế thổ trạch (thu ở thành phố thị xã); thuế xuất, nhập khẩu.

7
Ngoài ra còn áp dụng thuế hàng hoá tồn kho với thuế suất cao để chống đầu
cơ phá giá của t sản thành thị (vùng mới giải phóng).
Trong các sắc thuế đáng lu ý một số sắc thuế có thay đổi lớn:
- Thuế nông nghiệp: phục vụ cho công cuộc cải cách ruộng đất giảm nhẹ
mức đóng góp cho bần, cố, trung, nông, động viên nhiều vào địa chủ, phú nông
kể cả khi họ đã bị đánh đổ. Đối với vùng cha cải cách ruộng đất vẫn áp dụng

biểu thuế đã ban hành, đối với vùng đã cải cách ruộng đất cho áp dụng biểu thuế
mới 22 bậc thuế suất từ 7% đến 35% bậc khởi điểm giảm xuống 61kg (hoa lợi
bình quân nhân khẩu nông nghiệp) để giảm bớt mức đóng góp cho nông dân.
Khi cải cách ruộng đất đã hoàn thành, thu nhập của các hộ nông dân tăng
lên, Nhà nớc tăng thêm mức huy động thuế nông nghiệp vào các hộ nông dân.
Đồng thời, giảm bớt mức đóng góp cho nông dân miền núi có khó khăn và là nơi
căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Từ đó, Nhà nớc thay đổi biểu thuế:
Vùng miền xuôi áp dụng biểu thuế 27 bậc thuế suất từ 7% - 37% khởi điểm
tính thuế là 61kg.
Khu tự trị Việt Bắc biểu thuế 10 bậc thuế suất từ 15% - 35%
Khu tự trị Tây Bắc áp dụng một thuế suất chung là 20%.
Cả hai khu tự trị đều đợc trừ xuất miễn thu 100kg.
- Thuế lợi tức doanh nghiệp thay cho thuế thực lãi: Thuế lợi tức doanh
nghiệp u đãi về thuế cho ngành sản xuất vận tải, kiến trúc hơn các ngành nghề
khác để khuyến khích sản xuất. Thể hiện là Nhà nớc ban hành 2 biểu thuế suất
luỹ tiến từng phần cho 2 loại ngành nghề. (Biểu 1 cho ngành công nghiệp, vận
tải, kiến trúc thuế suất từ 8% - 40%. Biểu 2 cho các ngành nghề khác thuế suất từ
10% - 50%).
- Thuế hàng hoá: mở rộng mặt hàng chịu thuế lên 61 mặt hàng với thuế suất
tỷ lệ thấp nhất 5% cao nhất 50%.
- Thuế thổ trạch là loại thuế mới đánh vào đất và nhà ở các thành phố đô thị,
thuế suất 0,8% giá trị nhà; 1,2% giá trị đất và 15% lợi tức cho thuê nhà.
Trong thời gian 3 năm khôi phục, áp dụng các sắc thuế trên đã góp phần tích
cực khuyến khích sản xuất công thơng nghiệp ở thành thị, nhanh chóng xoá bỏ
sự khác biệt giữa hai vùng. ở nông thôn thuế nông nghiệp đã hỗ trợ tích cực cho
công cuộc cải cách ruộng đất, khuyến khích sản xuất và góp phần cải thiện đời
sống của nông dân.
Các sắc thuế đã huy động đợc nguồn thu khá lớn cho nhà nớc đáp ứng
yêu cầu chi tiêu của nhà nớc. Năm 1956 số thu thuế chiếm trong tổng thu ngân
sách nhà nớc là 74%, năm 1957 là 87%.

2.3.2. Thuế trong thời gian 3 năm cải tạo x hội chủ nghĩa 1957 - 1960.
Trong thời gian 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, toàn miền Bắc tập trung sức
thực hiện cuộc cách mạng quan hệ sản xuất phát triển kinh tế quốc doanh, đa
ngời làm ăn riêng lẻ thuộc sở hữu t nhân vào các loại hợp tác xã hình thành sở
hữu tập thể về t liệu sản xuất.
Giai đoạn này nhà nớc sử dụng thuế để phục vụ cải tạo, bằng cách sửa đổi
các chính sách thuế theo tinh thần phân biệt đối xử về thuế: đối với hợp tác xã

8
đợc u đãi về thuế, đối với cá thể không đợc u đãi, sử dụng lợi ích kinh tế kết
hợp với tuyên truyền để vận động cá thể vào hợp tác xã. Trong đó, chủ yếu sửa
đổi hai sắc thuế: thuế nông nghiệp và thuế lợi tức doanh nghiệp.
- Thuế nông nghiệp ban hành thêm biểu thuế suất luỹ tiến riêng cho hợp tác
xã, thuế suất từ 7% đến 25% trên hoa lợi bình quân xã viên và hợp tác xã đợc
trích một phần thuế theo tỷ lệ % khác nhau tùy theo quy mô hợp tác xã để đa
vào quỹ tích luỹ xây dựng cơ sở vật chất của hợp tác. Còn cá thể vẫn áp dụng
biểu thuế cũ.
- Thuế lợi tức doanh nghiệp áp dụng biểu thuế cũ nhng đối với hợp tác xã
đợc hởng các u đãi:
+ Giá tính thuế đối với hợp tác xã tính theo giá chỉ đạo thấp hơn giá thị
trờng, cá thể tính theo giá thị trờng.
+ Hợp tác xã tính thuế lợi tức căn cứ vào lợi tức bình quân xã viên, cá thể
không tính bình quân mà tính trên cả tổng lợi tức.
+ Hợp tác xã đợc trừ xuất miễn thu theo số lợng xã viên, cá thể chỉ tính
tối đa 2 xuất vào lợi tức để tính lợi tức tính thuế.
+ Hợp tác xã đợc trích một phần thuế theo tỷ lệ % khác nhau tuỳ theo quy
mô hợp tác xã để đa vào quỹ tích luỹ, cá thể không đợc để lại thuế.
Trong giai đoạn cải tạo thuế vẫn áp dụng chung cả kinh tế quốc doanh, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể nên nguồn thu từ thuế vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thu
ngân sách. Với sự phát triển nhanh và ổn định của kinh tế, nên số thu về thuế

tăng đáng kể nhất là số thu thuế từ kinh tế quốc doanh, năm 1960 so với năm
1959 tăng 30,4%.
2.3.3. Các hình thức thu và thuế trong thời gian thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất, chống chiến phá hoại, đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nớc 1960 - 1989
Thời gian này miền Bắc bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nớc quan niệm các xí nghiệp quốc doanh thuộc
sở hữu toàn dân, nhà n
ớc quản lý toàn diện và tạo điều kiện để kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Do đó, nhà nớc không sử dụng thuế
thu vào kinh tế quốc doanh mà áp dụng các hình thức thu khác. Thuế chỉ còn áp
dụng đối với khu vực kinh tế tập thể và cá thể.
2.3.3.1. Đối với khu vực kinh tế quốc doanh sản xuất kinh doanh trong nớc
và kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Năm 1960, Nhà nớc cho áp dụng thí điểm chế độ thu quốc doanh và chế độ
phân phối trích nộp lợi nhuận ở một số cơ sở kinh doanh. Năm 1965 mở rộng áp
dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh kinh doanh trong nớc. Doanh nghiệp
quốc doanh kinh doanh xuất, nhập khẩu không áp dụng thuế xuất nhập khẩu mà
chuyển sang chế độ thu bù chênh lệch ngoại thơng.
Nh vậy, từ năm 1965 đến 1989 khu vực kinh tế quốc doanh không nộp thuế
mà nộp theo các chế độ trên tuỳ theo tính chất hoạt động cụ thể là:
- Các doanh nghiệp quốc doanh sản xuất áp dụng hai chế độ thu: thu quốc
doanh và trích nộp lợi nhuận.

9
- Các doanh nghiệp quốc doanh thơng nghiệp dịch vụ áp dụng chế độ phân
phối và trích nộp lợi nhuận; không nộp thu quốc doanh.
- Các doanh nghiệp quốc doanh xuất nhập khẩu áp dụng chế độ thu hay bù
chênh lệch ngoại thơng.
Chế độ thu hay bù chênh lệch ngoại thơng đợc áp dụng đến tháng

12/1987 khi Nhà nớc ban hành Luật thuế xuất, nhập khẩu mới.
Nh vậy, trong cả thời gian xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cho đến
1989 các cơ sở kinh tế quốc doanh không thuộc diện điều tiết của thuế.
2.3.3.2. Đối với khu vực kinh tế tập thể, cá thể
Nhà nớc tiếp tục áp dụng các chính sách thuế nhng có bổ sung sửa đổi
cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời gian.
Để phù hợp với tình hình mới của đất nớc từ 1960 đến 1975, Nhà nớc tiếp
tục sửa đổi chính sách thuế, trong đó chủ yếu sửa 4 loại thuế.
- Thuế nông nghiệp: Với tinh thần chung là ổn định mức đóng góp để ổn
định sản xuất nông nghiệp nên Nhà nớc quyết định ổn định nghĩa vụ nộp thuế
trong các năm sau theo mức của năm 1958.
- Bỏ thuế môn bài vì đại bộ phận cơ sở kinh doanh là quốc doanh và hợp tác
xã.
- Thuế doanh nghiệp: phân chia theo 2 ngành: sản xuất, xây dựng, vận tải và
ăn uống, thơng nghiệp, dịch vụ; đồng thời, giảm mức thuế suất để giảm bớt
đóng góp do cơ sở kinh doanh gặp khó khăn vì chiến tranh.
- Thuế lợi tức doanh nghiệp: Tách biểu thuế thành 3 biểu cho 3 ngành: sản
xuất, xây dựng vận tải; phục vụ ăn uống; thơng nghiệp. Ưu đãi thuế suất cho
ngành sản xuất, xây dựng vận tải để kích thích sản xuất, cung ứng sản phẩm cho
xã hội.
Khi đất nớc thống nhất từ 1975 đến 1989
Trong những năm đầu ở miền Nam tạm thời sửa đổi một số loại thuế của
chính quyền Thiệu để tiếp tục thu và sửa đổi một số loại thuế miền Bắc để áp
dụng ở miền Nam.
Năm 1980, hai miền Nam Bắc thực hiện một hệ thống thuế thống nhất dựa
trên hệ thống thuế đã áp dụng ở miền Bắc có sửa đổi cho phù hợp ở cả hai miền.
Từ năm 1983, Nhà nớc thay đổi một số sắc thuế chính.
- Tháng 2/1983, ban hành Pháp lệnh Thuế nông nghiệp thay cho Điều lệ
Thuế nông nghiệp. Nội dung của Thuế nông nghiệp thay đổi cơ bản là không
tính thuế theo hoa lợi bình quân và thuế suất luỹ tiến toàn phần mà chuyển sang

tính thuế cho hai loại cây trồng khác nhau:
+ Đối với cây hàng năm: thuế nông nghiệp căn cứ vào 7 hạng đất từ hạng 1
đến hạng 7. Thuế suất theo định suất thuế cố định bằng thóc tính trên100m
2
cho
từng hạng đất. Biểu thuế chia làm 3 vùng theo 3 biểu: đồng bằng, trung du, miền
núi (theo tỉnh) định suất thuế có u đãi cho trung du, miền núi.
+ Đối với cây lâu năm: tính theo % trên giá trị thu hoạch.

10
Năm 1988, Nhà nớc ban hành Pháp lệnh sửa đổi Thuế nông nghiệp là: Biểu
thuế không phân theo vùng mà phân theo xã: xã đồng bằng, xã trung du, xã miền
núi đảm bảo tính hợp lý và công bằng với đặc điểm địa hình xen kẽ nhau. Cây
lâu năm xác định cụ thể % thuế suất cho 4 nhóm cây: cây công nghiệp lâu năm;
cây ăn quả; cây lấy lá, lấy gỗ; cây dợc liệu và cây lâu năm khác. Mức thuế suất
qui định căn cứ vào hiệu quả của cây trồng.
- Thuế công thơng nghiệp:
Năm 1983, ban hành Pháp lệnh Thuế công thơng nghiệp với các nội dung:
+ Phục hồi lại thuế môn bài áp dụng cho các hộ cá thể vì có nhiều hộ đã bỏ
hợp tác xã ra kinh doanh riêng lẻ.
+ Nâng mức thuế suất của thuế doanh thu để huy động nguồn thu và tăng
cờng quản lý kinh doanh cá thể. Đồng thời, phân chia loại ngành nghề theo thứ
tự: sản xuất, xây dựng, vận tải; ngành phục vụ; ngành thơng nghiệp, ăn uống.
+ Thuế lợi tức doanh nghiệp: thay biểu thuế luỹ tiến từng phần bằng biểu
thuế luỹ tiến toàn phần, đồng thời nâng mức thuế suất của các biểu thuế để huy
động nguồn thu.
+ Thuế hàng hoá: thay đổi một số mặt hàng chịu thuế thành 33 nhóm mặt
hàng bao gồm cả hàng hoá sản xuất trong nớc và hàng hoá nhập khẩu.
- Các loại thuế khác nh thuế sát sinh, thuế buôn chuyến, thuế trớc bạ vẫn
tiếp tục áp dụng.

Năm 1987 nhà nớc tiếp tục ban hành pháp lệnh sửa đổi Thuế công thơng
nghiệp. Tinh thần cơ bản của Pháp lệnh là:
- Thuế hàng hoá: Giảm thuế suất của một số mặt hàng trong nớc, mở rộng
mặt hàng nhập khẩu vào diện đánh thuế để khuyến khích sản xuất và bảo hộ sản
xuất trong nớc. Thuế hàng hoá thu vào cả các cơ sở nhận gia công tiêu thụ cho
kinh tế quốc doanh để chống thất thu.
- Thuế lợi tức doanh nghiệp: Giảm bớt mức động viên để tăng khả năng tích
luỹ của cơ sở sản xuất kinh doanh qua việc thay biểu luỹ tiến toàn phần bằng
biểu luỹ tiến từng phần.
- Thuế sát sinh: Thu cả vào cơ sở quốc doanh giết mổ gia súc để chống thất
thu.
Năm 1989, Nhà nớc ban hành tiếp Pháp lệnh Sửa đổi thuế công thơng
nghiệp. Trọng tâm của việc sửa đổi là:
- Thuế hàng hoá: giảm nhóm hàng từ 33 nhóm xuống 22 nhóm và điều
chỉnh tăng hoặc giảm thuế suất của một số mặt hàng.
- Thuế doanh thu: giảm thuế suất để khuyến khích kinh doanh.
- Thuế lợi tức doanh nghiệp: bỏ mức miễn thu thay bằng khởi điểm đánh
thuế.
- Thuế xuất nhập khẩu: Tháng 12/1987, Quốc hội ban hành Luật thuế xuất
nhập khẩu là luật thuế đầu tiên của nớc ta thay cho chế độ thu bù chênh lệch
ngoại thơng nhằm mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, tăng cờng kiểm tra,
kiểm soát lập lại kỷ cơng trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu, khuyến
khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nớc. Đồng thời,

11
làm tăng nguồn thu cho Nhà nớc, nhất là nguồn thu bằng ngoại tệ và thực hiện
chính sách kinh tế đối ngoại. Năm 1989, Nhà nớc ban hành Pháp lệnh sửa đổi
và ra Nghị định chi tiết về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với tinh thần cơ bản là
tăng cờng bảo hộ nền kinh tế.
Đối với hàng xuất khẩu: Rút bớt nhóm mặt hàng đánh thuế từ 30 nhóm

xuống còn 12 nhóm. Điều chỉnh lại thuế suất theo chính sách mặt hàng cần
khuyến khích hay cần hạn chế xuất khẩu.
Đối với hàng nhập khẩu: Bỏ thuế hàng hoá thu vào hàng nhập khẩu, sử dụng
mức thuế suất để điều chỉnh theo chính sách mặt hàng. Thuế suất u đãi 0% đối
với hàng nhập là máy móc thiết bị, nguyên liệu và hàng tiêu dùng thiết yếu trong
nớc cha sản xuất đợc, thuế suất cao đối với hàng hoá trong nớc đã sản xuất
đợc hoặc hàng hoá cần hạn chế nhập.
Trong suốt 30 năm, các sắc thuế của nớc ta liên lục bổ sung sửa đổi để phù
hợp với tình hình kinh tế xã hội, nhng tổng hợp lại hệ thống thuế nớc ta có các
sắc thuế sau: thuế nông nghiệp; thuế doanh thu; thuế buôn chuyến; thuế lợi tức
doanh nghiệp; thuế hàng hoá; thuế sát sinh; thuế môn bài; thuế trớc bạ; thuế
xuất khẩu, nhập khẩu.
Trong đó, thuế xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng cho xuất, nhập khẩu quốc
doanh. Còn tất cả các sắc thuế khác, phạm vi áp dụng chỉ cho kinh tế tập thể và
kinh tế cá thể.
2.4. Đánh giá kết quả thực hiện hệ thống thuế giai đoạn 1954 -1989
Trong hơn 30 năm từ 1954 đến 1989 nhà nớc đã rất nhiều lần bổ sung sửa
đổi các chính sách thuế cho phù hợp với tình hình kinh tế chính trị xã hội, những
thay đổi đó đã đem lại những thành công nhất định, đó là:
- Các chính sách thuế đã góp phần tích cực thúc đẩy nhanh quá trình khôi
phục kinh tế của miền Bắc sau chiến tranh chống Pháp và ở miền Nam sau chiến
tranh chống Mỹ.
- Các chính sách thuế đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo đờng lối của Đảng.
- Các chính sách thuế đã tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế ở miền
Bắc, góp phần chi viện tích cực cho miền Nam.
- Các chính sách thuế đã huy động đợc số thu đáng kể cho ngân sách Nhà
nớc.
Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá các chính sách thuế và hệ thống thuế trong
thời gian này có rất nhiều vấn đề tồn tại lớn, đó là:

- Quan điểm coi nhẹ vai trò của thuế và thu hẹp phạm vi điều chỉnh của thuế
(giới hạn đối với kinh tế tập thể và cá thể) đã làm cho tác dụng của thuế bị lu mờ
trong đời sống xã hội.
- Hệ thống thuế không hoàn chỉnh, cha phù hợp với yếu tố kinh tế xã hội.
- Từng chính sách thuế sửa đổi quá nhiều lần, chạy theo các yêu cầu cụ thể
đã làm cho các chính sách thuế trở nên chắp vá, chủ quan, áp đặt. Do vây, thuế
đã gây cản trở lớn đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội.

12
- Các chính sách thuế phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế quá lớn
làm mất đi tính công bằng bình đẳng giữa các đối tợng nộp thuế.
- Tính pháp lý của thuế thấp nên hiệu lực quản lý yếu, hiệu quả của thuế
kém.
- Khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế không
thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế mà áp dụng các chế độ thu mang tính bao cấp
100%. Do vậy, khu vực kinh tế quốc doanh hoàn toàn ỷ lại vào Nhà nớc, hiệu
quả kinh doanh thấp.
Những tồn tại của thuế và chế độ thu quốc doanh, phân phối và trích nộp lợi
nhuận, thu hay bù chênh lệch ngoại thơng đã tác động tiêu cực đến kinh tế.
Cùng với các chính sách khác tác động xấu dẫn đến hậu quả: kinh tế lâm vào
khủng hoảng trì trệ, đời sống gặp khó khăn, giá cả leo thang, giá trị đồng tiền
giảm sút, bội chi ngân sách ngày càng trầm trọng.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thứ VII đã định ra hớng đi
mới, mở ra cơ hội mới cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nớc theo kịp và
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời, cũng đặt ra những quan điểm,
những yêu cầu và những thử thách mới cho lĩnh vực tài chính và thuế.
3. Hệ thống thuế trong giai đoạn cải cách thuế bớc I
(1990 - 1998)
3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội trong giai đoạn cải cách thuế bớc I
Đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng thực sự đã làm cho nền kinh tế đất nớc

có bớc chuyển mình rất lớn. Kinh tế quốc doanh không còn đợc sự bao cấp
của Nhà nớc, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải tự hạch toán, tự chủ bằng vốn
về sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Đồng thời, chịu áp lực
của sức cạnh tranh trong kinh tế thị trờng. Thời gian đầu có nhiều cơ sở kinh tế
quốc doanh bỡ ngỡ trớc kinh tế thị trờng, lúng túng trong sản xuất kinh doanh
nên làm ăn bị thua lỗ. Nhng các doanh nghiệp quốc doanh đã dần làm quen và
tiến đến trụ vững trong cơ chế kinh tế mới.
Thành phần kinh tế t bản t nhân, kinh tế cá thể bắt đầu phát triển, tham
gia hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trên thị tr
ờng.
Chủ trơng mở cửa kinh tế thu hút vốn đầu t nớc ngoài dới mọi hình
thức đã kêu gọi đợc nhiều công ty nớc ngoài đầu t vào Việt Nam bằng hình
thức đầu t trực tiếp, làm cho thị trờng kinh doanh trở nên sôi động. Điều đó đã
tác động đến hoạt động kinh tế theo xu hớng tăng trởng nhanh.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nớc để điều hành kinh
tế thị trờng mới bớc đầu đợc triển khai xây dựng và áp dụng dần, do đó, còn
thiếu hoàn chỉnh và cha đồng bộ, dẫn đến có cản trở nhất định đến hoạt động
kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn thu của Nhà nớc bằng nhiều hình thức
không mang tính thống nhất, thuế chỉ là khoản thu thứ yếu, điều này hoàn toàn
không phù hợp với những biến đổi về kinh tế xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu mới, Đảng và Nhà nớc quyết định phải nhanh chóng
thực hiện cải cách thuế bớc I để thống nhất chính sách thu trong cả nớc.


13
3.2. Quan điểm sử dụng thuế trong cải cách thuế bớc I (1990 - 1998)
Trong bối cảnh mới của đất nớc, Nhà nớc quyết định thực hiện cuộc cải
cách thuế lần I, xây dựng và ban hành hệ thống thuế thống nhất cả nớc thay thế
cho các hình thức thu trớc. Thuế phải trở thành công cụ quan trọng để quản lý
kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nớc. Cụ thể là:

- Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu cho Nhà nớc khi chuyển sang cơ
chế kinh tế thị trờng. Nhà nớc luôn coi nguồn thu trong nớc là chủ yếu. Do
đó, phải sử dụng thuế làm công cụ huy động nguồn thu trong nớc cho ngân
sách, từ tất cả các thành phần kinh tế, các cơ sở kinh doanh.
- Thuế phải trở thành công cụ quản lý kinh tế của Nhà nớc. Cơ chế kinh tế
thị trờng các nhà sản xuất kinh doanh chịu sự chi phối của các nhân tố thị
trờng và lợi ích riêng t sẽ làm cho nền kinh tế không ổn định và không cân
đối. Với quan điểm định hớng kinh tế theo chủ nghiã xã hội, Nhà nớc phải
điều hành kinh tế bằng hệ thống luật pháp, trong đó thuế là một công cụ quan
trọng để quản lý, điều tiết và điều chỉnh kinh tế.
- Thuế phải có tính pháp lý cao để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thuế.
Để cho thuế trở thành công cụ quản lý kinh tế thì các sắc thuế phải đạt đợc
chuẩn mực về nội dung vừa có tính pháp cao vừa mang tính thực tiễn, đơn giản
thuận tiện trong thực thi. Do đó, thuế phải đợc nghiên cứu thấu đáo và quy
chuẩn thành luật của Nhà nớc.
- Thuế phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Với quan điểm phát triển đa thành phần kinh tế trong sự cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh, đòi hỏi phải có sự bình đẳng giữa các nhà kinh doanh về mặt
luật pháp để hình thành các "luật chơi" trong kinh doanh. Thuế vừa đảm bảo
công bằng về nghĩa vụ đóng thuế, vừa là công cụ kiểm tra, kiểm soát việc chấp
hành các luật khác trong kinh doanh.
3.3. Hệ thống thuế giai đoạn cải cách bớc I (1990 - 1998)
Bắt đầu từ 1990, ở nớc ta cải cách thuế bớc I đã đ
ợc tiến hành. Kết quả
là hệ thống thuế thống nhất bao gồm 9 luật thuế và pháp lệnh thuế đã đợc áp
dụng cho các thành phần kinh tế nh sau:
- Luật thuế doanh thu.
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Luật thuế lợi tức.

- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Pháp lệnh thuế tài nguyên.
- Pháp lệnh thuế nhà đất.
- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao.
Ngoài ra, còn áp dụng một số loại lệ phí là: lệ phí trớc bạ, lệ phí giao
thông, lệ phí chứng th và các loại lệ phí khác.

14
Những thay đổi cơ bản của từng sắc thuế trong hệ thống thuế mới so với
thuế giai đoạn trớc là:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp khác với pháp lệnh thuế nông nghiệp năm
1988 ở việc thay đổi căn cứ phân hạng đất là căn cứ vào 5 yếu tố: độ phì, vị trí
đất, địa hình cao thấp, điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện tới tiêu, cho điểm
từng yếu tố, tính tổng tổng điểm để phân hạng theo thang điểm phân hạng. Định
suất thuế tính cho 1 ha (không quy định cho 100 m
2
nh trớc).
- Thuế doanh thu: mở rộng đối tợng nộp thuế mọi ngành nghề, mọi quy
mô, mọi thành phần kinh tế, trừ hoạt động xuất nhập khẩu. Thuế suất quy định
theo ngành nghề và mặt hàng.
- Thuế lợi tức: thay thuế suất luỹ tiến từng phần bằng thuế suất tỷ lệ theo
ngành nghề và xác định các khoản chi phí đợc trừ, tính thuế lợi tức bổ sung và
thuế chuyển lợi nhuận ra nớc ngoài.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: rút bớt nhóm hàng đánh thuế từ 22 nhóm của thuế
hàng hoá còn 4 nhóm hàng của thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Đối với thuế nhà đất: do điều kiện kinh tế xã hội cha cho phép nên cha
áp dụng phần thuế đánh vào nhà ở, chỉ áp dụng đánh thuế vào đất ở, đất xây
dựng công trình.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất: trớc đây Hiến pháp và Luật đất đai

khẳng định, đất thuộc sở hữu Nhà nớc, nghiêm cấm việc mua bán đất. Nhng
do thực tế đời sống xã hội và nhu cầu sử dụng đất đã hình thành thị trờng ngầm
mua bán đất. Khi chuyển sang cơ chế thị trờng hoạt động mua bán đất càng
phát triển. Nhà nớc sửa đổi Luật đất đai: đất thuộc sở hữu Nhà nớc, Nhà nớc
giao quyền sử dụng đất cho các tổ chức và hộ gia đình. Các tổ chức và hộ gia
đình đợc quyền chuyển nhợng và thừa kế quyền sử dụng đất. Để quản lý hoạt
động chuyển nhợng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật và khai thác nguồn
thu về thuế, Nhà nớc ban hành Pháp lệnh thuế chuyển quyền sử dụng đất có
hiệu lực thi hành từ năm 1994.
3.4. Đánh giá kết quả thực hiện cải cách thuế bớc I (1990 - 1998)
Qua thời gian ngắn áp dụng các sắc thuế mới kết quả đạt đợc tơng đối khả
quan và đã thể hiện đợc các quan điểm sử dụng thuế.
- Thuế trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nớc: tỷ trọng thuế
trong tổng thu ngân sách tăng từ 75% năm 1990 lên gần 90% năm 1998. Từ đó
thuế đã góp phần tích cực đảm bảo cân đối thu chi ngân sách, góp phần giảm bội
chi và giảm lạm phát.
- Thuế góp phần quản lý và điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh;
khuyến khích tăng đầu t trong nớc, kích thích thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Thuế góp phần khuyến khích mở rộng giao lu hàng hoá và ổn định giá cả.
- Thuế đã giảm bớt sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.
Hệ thống thuế mới có tiến bộ, song cũng còn nhiều hạn chế cần đợc xem
xét hoàn thiện, đó là:
(1) Hệ thống thuế cha bao quát hết các nguồn thu đã và sẽ phát sinh trong
nền kinh tế thị trờng nên hạn chế khả năng khai thác nguồn thu của thuế.

15
(2) Một số sắc thuế vẫn bị đánh trùng làm cho số thuế cha phản ánh đúng
đắn hoạt động kinh tế. Một số sắc thuế khác có mức thuế suất cao do thu gộp
nhiều sắc thuế, gây tâm lý thuế nặng.

(3) Chính sách thuế còn phức tạp trong cách xác định đối tợng chịu thuế,
đối tợng không chịu thuế, đối tợng nộp thuế, đối tợng không nộp thuế và áp
dụng nhiều trờng hợp miễn, giảm thuế.
(4) Một số sắc thuế còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
cha đảm bảo công bằng, cha điều tiết đúng mức đối với sản xuất tiêu dùng
(5) Các sắc thuế của nớc ta còn nhiều nội dung cha phù hợp với bối cảnh
hội nhập kinh tế trong khu vực và quốc tế, cha phù hợp với thông lệ quốc tế.
4. Hệ thống thuế giai đoạn cải cách thuế bớc II (1999 - 2004)
4.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội trong giai đoạn 1999 - 2004
Sau 10 năm thực hiện đờng lối đổi mới quản lý kinh tế, nền kinh tế đã có
nhiều thay đổi cơ bản. Kinh tế quốc doanh đang đi vào phát triển ổn định. Các cơ
sở kinh tế tập thể dần dần đứng vững trong thị trờng. Kinh tế cá thể phát triển
mạnh, các loại hình kinh doanh mới ra đời nh công ty t nhân, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn. Bên cạnh đó, có nhiều công ty liên doanh với nớc
ngoài, công ty có vốn đầu t nớc ngoài đã đi vào hoạt động.
Nớc ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với các nớc trên tinh thần hội nhập,
khi gia nhập khối ASEAN, APEC, nhiều chính sách kinh tế phải thay đổi cho
phù hợp. Trong điều kiện đó, nền kinh tế nớc ta lại đang đơng đầu với những
khó khăn mới, tốc độ tăng trởng kinh tế có chiều hớng chậm lại, mức tăng
GDP thấp.
Trớc tình hình kinh tế xã hội nêu trên, Đảng và Nhà nớc chủ trơng thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc tạo ra sự chuyển biến lớn của kinh
tế, khuyến khích thoả đáng tích luỹ đầu t tăng trởng kinh tế cả nớc và từng cơ
sở sản xuất kinh doanh. Sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đảm
bảo chặt chẽ và thông thoáng để thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Mở rộng quan hệ
làm ăn kinh tế với các nớc và các khối kinh tế trên thế giới theo tinh thần hợp
tác đôi bên cùng có lợi.
Cải cách thuế bớc II đợc đặt ra là đòi hỏi tất yếu và cấp bách để phù hợp
với tình hình kinh tế xã hội đó.
4.2. Quan điểm sử dụng thuế trong giai đoạn cải cách thuế bớc II

(1999 - 2004)
- Cải cách hệ thống thuế trên cơ sở mở rộng diện thu thuế, điều chỉnh thuế
suất của từng sắc thuế và cả hệ thống thuế có loại tăng có loại giảm nhng phải
đảm bảo ổn định tỷ lệ động viên cho Nhà nớc trong khoảng từ 19% - 20% GDP
để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho Nhà n
ớc.
- Cải cách thuế phải tiến hành dần từng bớc trên cơ sở rà soát lại hệ thống
thuế hiện hành, xem xét lại từng sắc thuế để xác định thứ tự u tiên hoàn thiện,
tránh gây ra những xáo trộn trong đời sống kinh tế xã hội. Trớc mắt, thay đổi
hai loại thuế chính, đó là, thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng, thay
thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp.

16
- Cải cách hệ thống thuế làm cho các sắc thuế đơn giản, ít thuế suất, tránh
đánh trùng, loại trừ dần chính sách miễn, giảm đối tợng chính sách xã hội,
giảm bớt các miễn, giảm khác.
- Cải cách thuế phải làm cho các chính sách thuế phù hợp với các thông lệ
quốc tế về thuế, làm cho thuế nớc ta hoà nhập đợc với thuế thế giới.
- Cải cách hệ thống thuế tạo ra chuyển biến mới về quy trình quản lý thuế
tiến tới các đối tợng nộp thuế tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế, nâng cao ý
thức tự giác và trách nhiệm pháp lý của các đối tợng nộp thuế. Phát huy cao vai
trò kiểm tra, thanh tra của ngành Thuế và các cơ quan chức năng.
4.3. Hệ thống thuế trong giai đoạn cải cách thuế bớc II (1999 - 2004)
Cải cách thuế bớc II đã ban hành một số thuế mới thay thế cho một số thuế
đã lạc hậu và có nhiều nhợc điểm của cải cách thuế bớc I. Đồng thời, sửa đổi
các loại thuế còn lại để hình thành hệ thống thuế hoàn chỉnh hơn, tiên tiến hơn.
Cụ thể, hệ thống thuế trong cải cách bớc II gồm các loại thuế sau:
- Ban hành Luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu áp dụng từ ngày
1/1/1999.
- Ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức áp

dụng từ 1/1/1999.
- Ban hành Luật sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Ban hành các văn bản sửa đổi Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu
nhập cao.
- Ban hành các văn bản sửa đổi thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Ban hành Luật sửa đổi thuế xuất, nhập khẩu phù hợp với lộ trình cắt giảm
thuế xuất, nhập khẩu khi Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) và các khối kinh tế khác.
- Các loại thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế tài nguyên tiếp
tục áp dụng và nghiên cứu để tiến hành sửa đổi.
Giai đoạn cải cách thuế bớc II đến năm 2004 mới chỉ là thời kỳ đầu còn
phải tiếp tục thực hiện trong những năm sau. Nhng có thể sơ bộ đánh giá trên
những nét lớn là:
- Hệ thống thuế đã có những tiến bộ, tiếp cận đợc tính tiên tiến hiện đại
của thuế thế giới, nhất là khi áp dụng thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế xuất nhập khẩu.
- Thuế đã dần dần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và tạo
sự thông thoáng cho các nhà đầu t trong nớc và n
ớc ngoài.
- Thuế đã tác động tích cực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thực hiện cạnh
tranh lành mạnh trong nền kinh tế.
- Thuế đã tăng cờng huy động nguồn thu cho ngân sách cao hơn thời gian
trớc.


17
Chơng 2
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
1. Giới thiệu chung về thuế xuất khẩu, nhập khẩu (thuế
XNK)

1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế XNK
Thuế XNK là sắc thuế đánh vào hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong
quan hệ thơng mại quốc tế.
Thuế XNK có nguồn gốc từ lâu đời và đợc sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Việc ban hành thuế XNK xuất phát từ các lý do sau:
- Thuế XNK là công cụ quan trọng của nhà nớc để kiểm soát hoạt động
ngoại thơng.
Hoạt động ngoại thơng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế nội địa. Nó mang lại cho đất nớc nhiều nguồn lợi lớn về vốn, kỹ thuật, công
nghệ, hàng hoá, góp phần giải quyết các vấn đề của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên,
hoạt động ngoại thơng mở rộng, nếu không đợc kiểm soát sẽ dẫn đến những
tác hại đối với kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nh: sự phụ thuộc về kinh tế,
chính trị với nớc ngoài; phong tục, tập quán, lối sống của quốc gia bị ảnh
hởngVì vậy, các quốc gia đều sử dụng thuế XNK nh một công cụ quan
trọng để kiểm soát hoạt động ngoại thơng, quản lý các mặt hàng XNK, khuyến
khích XNK những hàng hoá có lợi và hạn chế XNK những hàng hoá có hại cho
quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nớc.
- Thuế XNK là công cụ bảo hộ sản xuất trong nớc.
Hoạt động ngoại thơng phát triển có thể gây ra những tác động tiêu cực
đối với sản xuất nội địa, đặc biệt đối với những nền kinh tế chậm phát triển cha
đủ sức cạnh tranh với kinh tế nớc ngoài. Vì vậy, ở các quốc gia kinh tế chậm
phát triển, thuế XNK là một trong những công cụ của nhà nớc để bảo hộ sản
xuất trong nớc. Để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, tăng cờng khả năng trên
thị trờng quốc tế, các quốc gia thờng không đánh thuế xuất khẩu, hoặc thu với
thuế suất rất thấp với mục tiêu quản lý là chủ yếu. Đối với thuế nhập khẩu, đợc
các quốc gia sử dụng rất linh hoạt tuỳ theo tính chất, mục đích của hàng hoá
nhập khẩu và phù hợp với trình độ kinh tế của từng nớc trong từng thời kỳ.
- Thuế XNK là nguồn thu của ngân sách nhà nớc.

ở các nớc đang phát triển, nhu cầu tiêu dùng tăng trong khi sản xuất nội

địa cha đáp ứng đợc, bên cạnh đó, khả năng tài chính của nhà nớc lại eo hẹp.
Do đó, đối với các nớc đang phát triển, mục tiêu động viên số thu cho ngân
sách nhà nớc của thuế XNK đựơc coi trọng. Để đạt đợc mục tiêu này, các
quốc gia thờng mở rộng hoạt động ngoại thơng, đánh thuế nhập khẩu vào
hàng hoá tiêu dùng trong nớc cha sản xuất đợc, hoặc đánh thuế xuất khẩu
vào những hàng hoá mà trên thế giới có nhu cầu tiêu dùng cao với các mức thuế
suất động viên hợp lý.

18
Là công cụ quan trọng của nhà nớc trong chính sách ngoại thơng, thuế
XNK có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế XNK là loại thuế gián thu. Nhà nớc sử dụng thuế XNK để
điều chỉnh hoạt động ngoại thơng thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả
của hàng hoá XNK. Vì vậy, thuế XNK là một yếu tố cấu thành trong giá của
hàng hoá XNK. Ngời nộp thuế là ngời thực hiện hoạt động XNK hàng hoá,
ngời chịu thuế là ngời tiêu dùng cuối cùng. Việc tăng, giảm thuế suất thuế
XNK sẽ tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá XNK, từ đó ảnh hởng tới nhu cầu
và việc lựa chọn hàng hoá của ngời tiêu dùng, buộc các nhà sản xuất và nhập
khẩu hàng hoá phải điều chỉnh sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp.
Thứ hai, thuế XNK là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thơng. Hoạt
động ngoại thơng giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân, tuy nhiên hoạt động này đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà
nớc. Thuế XNK là một công cụ quan trọng của nhà nớc nhằm kiểm soát hoạt
động ngoại thơng thông qua việc kiểm soát giá cả và chủng loại hàng hoá
XNK. Việc đánh thuế XNK thờng căn cứ vào giá trị và chủng loại hàng hoá
XNK. Giá trị của hàng hoá đợc xác định làm căn cứ tính thuế XNK là giá trị
cuối cùng của hàng hoá tại cửa khẩu xuất (đối với thuế xuất khẩu) và giá trị của
hàng hoá tại cửa tại cửa khẩu nhập đầu tiên (đối với thuế nhập khẩu). Giá trị tính
thuế XNK phải phản ánh khách quan, trung thực giá trị giao dịch thực tế của
hàng hoá XNK.

Thứ ba, thuế XNK chịu ảnh hởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế nh: sự
biến động kinh tế thế giới, xu hớng thơng mại quốc tếThuế XNK điều chỉnh
vào hoạt động XNK hàng hoá của một quốc gia. Sự biến động của kinh tế thế
giới, xu hớng thơng mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới
hàng hoá XNK của các quốc gia, nhất là trong xu thế tự do hoá thơng mại, mở
cửa và hội nhập kinh tế nh hiện nay. Từ đó, các yếu tố quốc tế sẽ ảnh hởng
trực tiếp tới chính sách thuế XNK từng quốc gia. Để đạt đợc những mục tiêu
đặt ra, đòi hỏi chính sách thuế XNK phải có tính linh hoạt cao, có sự thay đổi
phù hợp tuỳ theo sự biến động của kinh tế thế giới và thơng mại quốc tế, ngoài
ra chính sách thuế XNK còn phải đảm bảo phù hợp với hiệp định, cam kết quốc
tế mà mỗi quốc gia ký kết, tham gia.
1.2. Nguyên tắc thiết lập thuế XNK.
Khi thiết lập chính sách thuế XNK cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Thuế XNK chỉ đánh vào hàng hoá thực sự xuất khẩu, nhập khẩu.
Là công cụ quản lý của nhà nớc đối với hoạt động ngoại thơng, nhng cũng
phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lu, trao đổi hàng hoá trong
quan hệ thơng mại quốc tế theo khuôn khổ qui định của pháp luật, thuế XNK
chỉ điều chỉnh vào hàng hoá thực sự xuất khẩu, nhập khẩu. Hàng hoá xuất khẩu
thực sự là hàng hoá đợc sản xuất trong nớc và tiêu dùng ở nớc ngoài. Hàng
hoá nhập khẩu thực sự là hàng hoá đợc sản xuất ở nớc ngoài và tiêu dùng ở thị
trờng nội địa. Vì vậy, các nớc thờng không đánh thuế XNK vào hàng quá
cảnh, mợn đờng qua cửa khẩu, biên giới quốc gia; hàng hoá đa từ nớc ngoài

19
vào khu chế xuất, từ khu chế xuất ra nớc ngoài; hàng hoá từ nớc ngoài vào kho
bảo thuế; hoặc qui định các trờng hợp miễn thuế, hoàn thuế XNK cho hàng hoá
không thực sự xuất khẩu hoặc nhập khẩu nh hàng tạm nhập - tái xuất, hàng tạm
xuất - tái nhập
- Phải phân biệt theo khu vực thị trờng và các cam kết song phơng, đa
phơng

Thuế XNK điều chỉnh vào hoạt động XNK hàng hoá giữa các quốc gia. Để
tạo thuận lợi cho việc di chuyển hàng hoá trong quan hệ thơng mại quốc tế, các
nớc có thể đặt ra các quy tắc nhất định đối với hàng hoá XNK và việc đánh thuế
vào những hàng hoá này. Đặc biệt, trong điều kiện tự do hoá thơng mại nh
hiện nay, các quốc gia cùng chung lợi ích có thể ký kết với nhau các hiệp định
song phơng hoặc đa phơng thực hiện u đãi đối với hàng hoá NK. Các quốc
gia khi tham gia ký kết hiệp định phải từ bỏ tính chủ quyền trong đánh thuế
XNK, mà phải tuân thủ các hiệp định thuế đã đợc ký kết. Vì vậy, khi thiết lập
chính sách thuế XNK phải đảm bảo sự phù hợp giữa chính sách thuế XNK với
các thông lệ thơng mại và cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia đã ký kết, tham
gia. Theo đó, với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ khu vực thị trờng phổ thông
(không có cam kết) thì áp dụng thuế suất phổ thông; đối với khu vực thị trờng
có cam kết đối xử tối huệ quốc thì áp dụng thuế suất u đãi; đối với khu vực thị
trờng có cam kết u đãi đặc biệt thì áp dụng thuế suất u đãi đặc biệt.
- Căn cứ vào lợi thế so sánh thơng mại và yêu cầu bảo hộ của từng loại
hàng hoá và khu vực thị trờng để thiết lập biểu thuế phù hợp.
Một trong những mục tiêu khi xây dựng chính sách thuế XNK mà các quốc
gia hớng tới là bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nớc. Tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế xã hội của từng quốc gia mà mục tiêu trên có thể nhấn mạnh hoặc
giảm bớt. Căn cứ vào lợi thế so sánh th
ơng mại của các mặt hàng sản xuất trong
nớc, chính sách thuế XNK sẽ xây dựng biểu thuế phù hợp. Thông thờng những
mặt hàng có lợi thế so sánh tơng đối thấp, tính cạnh tranh kém, nhà nớc sẽ xây
dựng biểu thuế nhập khẩu cao nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc và ngợc lại.
Biểu thuế nhập khẩu phải chi tiết, cụ thể với từng nhóm mặt hàng, cũng nh tính
năng và công dụng của nó. Sự cụ thể chi tiết của biểu thuế một mặt góp phần
tăng cờng sự quản lý của nhà nớc đối với hoạt động XNK, đồng thời nó cũng
tạo ra những kẽ hở để các đối tợng lợi dụng tránh thuế, gây khó khăn cho công
tác quản lý. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao dung hoà đợc giữa mục tiêu bảo hộ
sản xuất trong nớc và mục tiêu đơn giản hoá, tiết kiệm chi phí quản lý. Bên

cạnh đó, chính sách thuế XNK phải có tính linh hoạt cao. Tuỳ theo sự biến động
của thị trờng trong nớc và quốc tế, thuế suất thuế XNK thờng xuyên đợc
điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế và điều kiện kinh tế - xã
hội trong nớc và thế giới trong từng thời kỳ.
- Tuân thủ các quy định và thông lệ quốc tế về phân loại mã hàng hoá XNK
và giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá, các quốc gia cần tuân
thủ các quy định chung liên quan đến hoạt động ngoại thơng. Trong đó, đánh
thuế bao nhiêu vào hàng hoá nào có liên quan chặt chẽ đến việc phân loại hàng

20
hoá và xác định trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu. Khi thiết lập thuế
XNK cần tuân thủ nguyên tắc này để đảm bảo sự hài hoà trong chính sách thuế
giữa các quốc gia.
1.3. Quá trình hình thành, phát triển thuế XNK ở Việt Nam và trên thế
giới
Thuế XNK (hay còn gọi là thuế quan) có lịch sử phát triển từ lâu đời. Nó ra
đời từ thời cổ đại, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Trong lịch sử phát triển,
luôn tồn tại hai trờng phái về việc sử dụng thuế XNK. Các nớc có nền kinh tế
thị trờng phát triển, có nhu cầu xuất khẩu t bản và hàng hoá lớn thì muốn xoá
bỏ hàng rào thuế quan để củng cố và tăng cờng bành trớng kinh tế. Ngợc lai,
các nớc kinh tế kém phát triển, không muốn bị lệ thuộc hoặc bị thống trị bởi
các thế lực kinh tế bên ngoài thì muốn duy trì và củng cố hàng rào thuế quan để
bảo hộ sản xuất trong nớc. Hai quan điểm về sử dụng thuế XNK đã đợc thể
hiện rõ nét thông qua tiến trình phát triển kinh tế thế giới.
Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa t bản, đợc khuyến khích bởi các học
thuyết kinh tế thuộc trào lu tự do hoá kinh tế, ngời ta cho rằng thuế XNK là
một cản trở lớn cho quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, giai cấp t sản đấu tranh
đòi xoá bỏ hàng rào thuế XNK trong buôn bán giao dịch quốc tế. Quan điểm này
đặc biệt thịnh hành ở Anh, nơi chủ nghĩa t bản phát triển sớm nhất. Kết quả của

cuộc đấu tranh này đã dẫn đến việc ký kết hiệp định Cobden giữa Anh và Pháp
vào năm 1860. Nội dung chủ yếu của Hiệp định này là xoá bỏ thuế XNK đối với
việc trao đổi hàng hoá giữa hai nớc. Trong khi đó, ở các nớc có nền kinh tế
kém phát triển lại có xu hớng dùng thuế XNK để bảo hộ sản xuất trong nớc.
Bớc vào giai đoạn chủ nghĩa t bản độc quyền, hầu hết các nớc đế quốc
đều sử dụng thuế XNK là công cụ quan trọng trong chính sách ngoại thơng để
giành u thế buôn bán trên thị trờng quốc tế. Mục đích sử dụng thuế XNK của
các nớc đế quốc trong giai đoạn này là hỗ trợ cho các ngành độc quyền trong
nớc phát triển. Đây là công cụ bảo hộ chính vào trớc năm 1930 và từng là cơ
sở cho quá trình công nghiệp hoá, thay thế hàng nhập khẩu mà Đức và Mỹ theo
đuổi vào thế kỷ 19. Thuế nhập khẩu cao tạo điều kiện cho các nhà độc quyền
thâu tóm thị trờng nội địa, nâng giá nhằm trang trải cho các khoản lỗ xuất khẩu
do bán dới giá thành để chiếm u thế cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ I, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế 1929-
1933, đã làm cho nền kinh tế của các nớc tham chiến mất cân đối nghiêm
trọng, mối liên kết thơng mại quốc tế tan rã. Trong hoàn cảnh đó, các nớc t
bản phát triển tiếp tục sử dụng thuế XNK làm công cụ điều chỉnh chính sách
ngoại thơng. Bên cạnh đó, họ còn gia tăng sử dụng các công cụ phi thuế quan
trong hoạt động ngoại thơng nh: hạn ngạch XNK, hạn mức ngoại tệ trong
thanh toán.
Sau chiến tranh thế giới thứ II nhu cầu phục hồi kinh tế ở các nớc tham
chiến trở nên cấp bách và hoạt động ngoại thơng trở thành nhân tố quan trọng
cho việc phục hồi kinh tế. Sự ổn định trong buôn bán quốc tế và sự ra đời của hệ
thống tiền tệ thế giới đã thúc đẩy các nớc t bản phát triển dần dần xoá bỏ các
biện pháp quản lý hành chính trong hoạt động ngoại thơng. Hiệp định chung về

21
thơng mại và thuế quan (GATT) giữa các nớc t bản phát triển đã ra đời vào
tháng 10/1947 (có hiệu lực thi hành từ tháng 01/1948). Với các nớc tham gia
hiệp định này, thuế XNK đợc giảm xuống hoặc xoá bỏ. Tuy nhiên, trong

GATT, việc cắt giảm thuế XNK mới đợc áp dụng đối với hàng hoá công
nghiệp, đối với hàng hoá nông nghiệp vẫn sử dụng thuế XNK để bảo hộ.
Trái với xu thế tự do hoá thơng mại ở các nớc t bản phát triển, sau chiến
tranh thế giới thứ II, các nớc có nền kinh tế đang phát triển vẫn coi trọng thuế
XNK. Lý do chính là kinh tế các nớc này còn non kém, không có khả năng
cạnh tranh. Mặt khác, nguồn tài chính của nhà nớc còn hạn hẹp cần phải tranh
thủ mọi nguồn thu để phát triển kinh tế.
Ngày nay, với lý thuyết lợi thế so sánh trong hoạt động ngoại thơng, các
nớc phát triển cũng nh đang phát triển đều bị cuốn theo trào lu mở cửa, hội
nhập, tự do hoá thơng mại. Giữa các nớc có trình độ phát triển kinh tế tơng
đồng hoặc có chung lợi ích hình thành nên những khu vực kinh tế phi thuế quan
hoặc hạn chế thuế quan. Trong hoàn cảnh đó, buộc tất cả các nớc đều phải xem
xét lại chính sách sử dụng thuế XNK sao cho phù hợp với diễn biến và trình độ
phát triển của kinh tế thế giới.
Tóm lại, với những nét khái quát về tình hình sử dụng thuế XNK trong quá
trình phát triển kinh tế thế giới, cho phép chúng ta rút ra kết luận cơ bản:
- Tuỳ theo tình hình kinh tế mỗi nớc, khu vực và thế giới việc sử dụng thuế
XNK trong chính sách ngoại thơng ở mỗi nớc, trong từng thời kỳ có khác
nhau.
- Việc sử dụng thuế XNK trong chính sách ngoại thơng của mỗi nớc luôn
đặt trên thế so sánh, một bên là bảo hộ và một bên là tự do hoá thơng mại. Khi
nền kinh tế có khả năng cạnh tranh lớn thì vai trò bảo hộ của thuế không đợc
coi trọng.
ở Việt Nam, thuế XNK phát triển qua nhiều giai đoạn:
Năm 1946, sau khi giành đợc độc lập và tiến hành kháng chiến chống thực
dân Pháp, Nhà nớc đã ban hành thuế quan đánh vào hoạt động kinh doanh xuất
khẩu qua cửa khẩu, biên giới và việc trao đổi hàng hoá giữa vùng tự do và vùng
tạm chiếm. Thuế suất đợc qui định theo tỷ lệ % tính trên giá trị lô hàng XNK.
Giai đoạn từ 1965 - 1988, đây là thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nhà nớc thực
hiện độc quyền ngoại thơng nên chỉ có các tổ chức kinh tế nhà nớc mới đợc

phép trao đổi hàng hoá với nớc ngoài thông qua các tổ chức XNK. Thị trờng
ngoại thơng rất hẹp, chủ yếu đợc thực hiện trong phạm vi các nớc xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, Nhà nớc thực hiện chế độ thu bù trừ chênh lệch ngoại thơng và
thu kết hối ngoại tệ từ 5% đến 20% đối với hàng hoá XNK mậu dịch. Đối với
hàng hoá XNK phi mậu dịch thì thực hiện chế độ thuế hàng hoá XNK phi mậu
dịch. Nhiệm vụ chủ yếu của chế độ thu bù chênh lệch ngoại thơng là nhà nớc
đảm bảo về mặt tài chính cho các tổ chức XNK, nó cha đặt ra mục tiêu thu
ngân sách nhà nớc và quản lý hoạt động ngoại thơng.
Việc chuyển sang cơ chế thị trờng, cùng với chủ trơng mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại đã làm cho hoạt động ngoại thơng ở nớc ta có điều kiện phát

22
triển: thành phần tham gia, thị trờng, mặt hàng đòi hỏi phải có sự can thiệp
của nhà nớc bằng các chính sách công cụ tài chính, trong đó có thuế
XNKLuật thuế XNK mậu dịch đợc quốc hội khoá 8 thông qua vào tháng 12
năm 1987, có hiệu lực thi hành từ năm 1988. Từ năm 1989 nớc ta đã bãi bỏ
thuế hàng hoá nhập khẩu mậu dịch, chỉ còn thu vào hoạt động XNK theo 2 biểu
thuế riêng biệt: thuế XNK hàng mậu dịch và thuế XNK hàng phi mậu dịch. Mục
tiêu của thuế XNK trong thời kỳ này là khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu để bảo hộ sản xuất trong nớc: thuế xuất khẩu đã giảm bớt nhóm mặt hàng
đánh thuế, điều chỉnh thuế suất theo từng nhóm mặt hàng cần khuyến khích hay
hạn chế xuất khẩu; thuế nhập khẩu đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu trong
nớc đã sản xuất đợc, hàng cần hạn chế nhập; không đánh thuế nhập khẩu đối
với hàng là vật t, nguyên liệu nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất trong nớc.
Ngày 26/12/1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá 8, Luật thuế XNK mới đã
đợc thông qua, thống nhất chính sách thuế đối với mọi hình thức XNK. Từ đó
đến nay, Luật thuế XNK đã đợc sửa đổi, bổ sung hai lần vào các ngày 5/7/1993
và 25/5/1998. Trong bối cảnh hoạt động kinh tế đối ngoại mở rộng, hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực, mục tiêu của chính sách thuế XNK trong giai đoạn
này là thực hiện bảo hộ sản xuất trong nớc một cách có hiệu quả, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng đẩy mạnh xuất khẩu; đảm bảo mức động
viên hợp lý cho ngân sách nhà nớc phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế
ở Việt Nam; chính sách thuế XNK phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt
giảm thuế quan mà Việt Nam ký kết, tham gia.
2. Nội dung cơ bản của Luật thuế XNK hiện hành ở Việt Nam
Các văn bản pháp luật chính về thuế XNK hiện hành bao gồm:
- Luật thuế XNK ngày 26/12/1991 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế XNK ngày 5/7/1993, ngày 20/5/1998.
- Nghị định số 54/CP ngày 28/8/1993, Nghị định số 94/1998/NĐ-CP
ngày17/11/1998 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật thuế XNK và các
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế XNK, Nghị định số
60/2002/NĐ- CP ngày 6/6/2002 của Chính phủ qui định về việc xác định trị giá
tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện
Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại.
- Thông t 87/2004/TT- BTC ngày 31/8/2004 hớng dẫn thi hành các Nghị
định 54 và 94 quy định chi tiết thi hành Luật thuế XNK.
2.1. Phạm vi áp dụng
2.1.1. Đối tợng chịu thuế
Theo qui định hiện hành, đối tợng chịu thuế XNK là tất cả hàng hoá đợc
phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu hoặc biên giới Việt Nam.
Nh vậy, đối tợng chịu thuế xuất nhập khẩu phải thoả mãn hai điều kiện:
(1) là các hàng hoá đợc cơ quan chức năng của nhà nớc cho phép xuất khẩu,
nhập khẩu; (2) những hàng hoá này thực tế có XNK.
2.1.2. Đối tợng không chịu thuế

23
Theo nguyên tắc, thuế XNK chỉ đánh vào hàng hoá thực sự XNK. Vì vậy,
các trờng hợp hàng hoá nớc ngoài chỉ đi qua cửa khẩu, biên giới, lãnh thổ Việt
Nam nhng không tiêu dùng tại Việt Nam. Theo qui định, hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu không thuộc diện chịu thuế XNK sau khi làm thủ tục hải quan gồm:

- Hàng quá cảnh hoặc mợn đờng qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
- Hàng kinh doanh theo phơng thức chuyển khẩu, dới các hình thức:
+ Hàng đợc vận chuyển thẳng từ nớc xuất khẩu đến nớc nhập khẩu
không qua cửa khẩu Việt Nam.
+ Hàng đợc vận chuyển từ nớc xuất khẩu đến nớc nhập khẩu có qua cửa
khẩu Việt Nam nhng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm
thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
+ Hàng hoá đợc vận chuyển từ nớc xuất khẩu đến nớc nhập khẩu có qua
cửa khẩu Việt Nam và đa vào kho ngoại quan, không làm thủ tục nhập khẩu
vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
- Hàng hoá từ nớc ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế
xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan; hàng hoá từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế
xuất xuất khẩu, kho bảo thuế, kho ngoại quan xuất khẩu ra nớc ngoài; hoặc
hàng hoá đa từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại
quan này sang khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại
quan khác trong lãnh thổ Việt Nam; hàng hoá XNK ra vào các khu vực đợc
phép miễn thuế theo qui định của Chính phủ.
- Hàng viện trợ nhân đạo.
2.1.3. Đối tợng nộp thuế
Đối tợng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân XNK hàng hoá hoặc nhận uỷ
thác XNK hàng hoá thuộc đối t
ợng chịu thuế XNK.
2.2. Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế XNK là số lợng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; giá tính
thuế đơn vị từng mặt hàng và thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu từng mặt
hàng. Từ những căn cứ đó, thuế XNK đợc xác định nh sau:

Thuế XK, NK
phải nộp
=

Số luợng
hng hoá
XK, NK
x
Giá tính thuế
đơn vị từng mặt
hng
x
Thuế suất thuế
XK, NK từng mặt
hng

2.2.1. Số lợng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
Số lợng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu làm căn cứ tính thuế là số lợng
từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu. Số lợng này đợc xác định dựa vào
tờ khai hải quan của các tổ chức, cá nhân có hàng hoá xuất nhập khẩu.
2.2.2. Giá tính thuế

24
2.2.2.1. Trờng hợp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán
hàng hoá
Đối với hàng xuất khẩu: Giá tính thuế là giá bán hàng tại cửa khẩu xuất
(giá FOB - Free on board), không bao gồm phí vận tải và bảo hiểm quốc tế.
Đối với hàng nhập khẩu: Giá tính thuế đợc quy định trong từng trờng
hợp cụ thể nh sau:
(1) Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá thuộc đối tợng
áp dụng xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc
của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại.
a. Đối tợng áp dụng


Hàng hoá nhập khẩu có hợp đồng thơng mại đợc xác định trị giá tính thuế
theo Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại bao gồm:
- Hàng hoá nhập khẩu của các doanh nghiệp, các bên hợp doanh thuộc đối
tợng điều chỉnh của Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
- Hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ các nớc, vùng lãnh thổ, khối liên minh
quốc gia mà Việt Nam đã ký kết thực hiện xác định trị giá tính thuế theo nguyên
tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại,
và các hàng hoá nhập khẩu khác theo quyết định của Thủ tớng Chính phủ.
b. Trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu

Trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là trị giá của hàng hoá dùng để tính
thuế nhập khẩu, đợc xác định tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên.
Thời điểm xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là ngày ngời khai hải
quan đăng ký tờ khai hàng nhập khẩu. Ngời khai hải quan tự xác định trị giá
tính thuế theo mẫu qui định và nộp cho cơ quan hải quan cùng với tờ khai hàng
nhập khẩu. Trờng hợp cơ quan hải quan xác định trị giá tính thuế thì cơ quan
hải quan phải thông báo cho ngời khai hải quan biết kết quả xác định trị giá
tính thuế trong thời hạn làm thủ tục hải quan theo qui định của pháp luật.
c. Phơng pháp xác định trị giá tính thuế

Trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu đợc xác định bằng cách áp dụng
một trong các phơng pháp sau (trừ các phơng pháp tạm thời cha áp dụng):
- Phơng pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu.
- Phơng pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt.
- Phơng pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tơng tự.
- Phơng pháp trị giá khấu trừ.
- Phơng pháp trị giá tính toán.
- Phơng pháp khác.
Nguyên tắc áp dụng các phơng pháp trên là áp dụng tuần tự từ phơng
pháp thứ nhất đến các phơng pháp tiếp theo; chỉ xác định giá tính thuế bằng


25
phơng pháp tiếp theo nếu không đủ điều kiện để xác định trị giá tính thuế theo
phơng pháp trớc.
i) Phơng pháp trị giá giao dịch

Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu trớc hết phải đợc xác định theo
phơng pháp trị giá giao dịch nếu hội đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, ngời mua có đủ quyền định đoạt, quyền sử dụng hàng hoá sau
khi nhập khẩu.
Thứ hai, việc bán hàng hay giá cả hàng hoá không phụ thuộc vào một số
điều kiện dẫn đến việc không xác định đợc trị giá của những hàng hoá cần xác
định trị giá tính thuế.
Thứ ba, trờng hợp việc mua, bán hàng hoá hay giá cả của hàng hoá phụ
thuộc vào một hay một số điều kiện nhng ngời mua có tài liệu khách quan hợp
lệ để xác định mức độ ảnh hởng bằng tiền của sự phụ thuộc đó thì vẫn xem là
đáp ứng điều kiện này. Khi xác định trị giá tính thuế phải cộng khoản tiền đợc
giảm do ảnh hởng của sự phụ thuộc đó vào trị giá giao dịch.
Thứ t, sau khi bán lại hàng hoá, chuyển nhợng hoặc sử dụng hàng hoá
nhập khẩu, ngời mua không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ số tiền thu
đợc do việc định đoạt hàng hoá nhập khẩu mang lại (không kể khoản phải cộng
điều chỉnh đợc qui định).
Thứ năm, ngời mua và ngời bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu
có thì mối quan hệ đặc biệt đó không ảnh hởng đến trị giá giao dịch.
Nếu đủ các điều kiện trên, trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu đợc
xác định nh sau:

Trị giá tính
thuế
=

Trị giá giao
dịch
+
Các khoản điều
chỉnh tăng
-
Các khoản điều
chỉnh giảm
Trong đó:
- Trị giá giao dịch là tổng số tiền ngời mua đã trả hay sẽ phải trả trực tiếp
hoặc gián tiếp cho ngời bán để mua hàng hoá nhập khẩu, bao gồm các khoản
sau:
+ Giá mua ghi trên hoá đơn thơng mại.
+ Các khoản ngời mua phải trả nhng cha tính vào giá mua ghi trên hoá
đơn thơng mại, bao gồm tiền trả trớc, tiền ứng trớc, tiền đặt cọc cho việc sản
xuất, mua bán, vận tải, bảo hiểm hàng hoá; các khoản thanh toán gián tiếp cho
ngời bán.
- Các khoản điều chỉnh tăng:
Chỉ điều chỉnh khi có các điều kiện sau: các khoản này do ngời mua thanh
toán và cha đợc tính vào tổng số tiền ngời mua đã trả hay sẽ phải trả; các
khoản phải cộng liên quan trực tiếp đến hàng hoá nhập khẩu.

×