Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bài tập phân tích ngành khai thác dầu khí docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.92 KB, 12 trang )

1

ĐỀ TÀI:
Phân tích môi trường chiến lược của ngành khai thác dầu khí

Giảng viên hướng dẫn : TS. NGUYỄN THANH LIÊM
Lớp : CAO HỌC QTKD 07 – 10
Học viên : ĐỖ THỊ HẰNG
=====================================
1. Các đặc tính nổi trội của ngành khai thác dầu khí
a. Quy mô ngành:
Dầu khí là sản phẩm có tính chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong tăng
ngân sách quốc gia. Đồng thời, dầu khí còn là sản phẩm có tính chất điều tiết các
quan hệ chính trị quốc tế. Tầm quan trọng của dầu khí trong mỗi quốc gia là không
thể phủ nhận được.
Ở Việt Nam ngành công nghiệp dầu khí mặc dù còn nhiều mới mẻ nhưng đã
đóng góp đáng kể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tăng ngân sách quốc gia và
tạo tiền đề quan trọng phát triển công nghiệp hóa dầu.
Hiện nay, sản lượng dầu thô khai thác của Việt Nam đã đứng hàng thứ tư ở
Đông Nam Á. Các nhà chuyên môn đã đánh giá cao về tiềm năng dầu khí ở Việt
Nam.
- Bể sông Hồng có tiềm năng dự báo địa chất khoảng 1 tỷ tấn dầu quy đổi. Mỏ
khí Tiền Hải (trữ lượng 1,8 tỷ m
2
) đã đưa vào khai thác từ năm 1981.
- Bể Cửu Long có tiềm năng dự báo địa chất khoảng 2 tỷ tấn dầu quy đổi.
Hiện nay tại bể này khai thác hai mỏ dầu Bạch Hổ và mỏ Rồng. Sản lượng
khai thác tính tới nay trên 50 triệu tấn dầu thô.
- Bể Nam Côn Sơn có tiềm năng dự báo địa chất khoảng 3 tỷ tấn dầu quy đổi.
Hiện ở đây mỏ dầu Đại Hùng đang được khai thác.
- Bể Thổ Chu – Mã Lai có tiềm năng dự báo địa chất khoảng vài trăm triệu


tấn dầu quy đổi.
2

Tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn
Sơn, Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây đã được xác
định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ
2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và
trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn
sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3. Với các biện pháp
đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm kiếm - thăm dò, khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng
nguồn khí thiên nhiên của nước ta sẽ được phát hiện đến năm 2010.
Hiện nay, ngành Dầu khí nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu mỏ bao
gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái
Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây - lô 06.l. Công tác
phát triển các mỏ Rạng Đông, Ruby và Emeral, Lan Tây - Lan Đỏ, Sư Tử Đen, Sư
Tử Vàng, Hải Thạch, Rồng Đôi, Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi đang được triển
khai tích cực theo chương trình đã đề ra, đảm bảo duy trì và tăng sản lượng khai
thác dầu khí cho những năm tới. Dự kiến, mỏ Sư Tử Đen (lô 15-1) sẽ được đưa vào
khai thác trong quý 4 năm nay.
Những phát hiện về dầu khí mới đây ở thềm lục địa miền Nam nước ta rất
đáng phấn khởi, tăng thêm niềm tin và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư là:
lô 09-2, giếng Cá Ngừ Vàng - IX, kết quả thử vỉa thu được 330 tấn dầu và
170.000m3 khí/ngày. Lô 16-l, giếng Voi Trắng-IX cho kết quả 420 tấn dầu và
22.000m3 khí/ ngày. Lô 15.1, giếng Sư Tử Vàng – 2X cho kết quả 820 tấn dầu và
giếng Sư Tử Đen – 4X cho kết quả 980 tấn dầu/ngày. Triển khai tìm kiếm thăm dò
mở rộng các khu mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng với các giếng R-10, 05- ĐH-10
cho kết quả 650.000m3 khí ngày đêm và dòng dầu 180 tấn/ngày đêm; Giếng R-10
khoan tầng móng đã cho kết quả 500.000 m3 khí/ngày đêm và 160 tấn
Condensate/ngày đêm.
Tính chung, 2 năm đầu thế kỷ mới, ngành Dầu khí nước ta đã thăm dò phát

hiện gia tăng thêm trữ lượng trên 70 triệu tấn dầu thô và hàng chục tỷ m3 khí để
tăng sản lượng khai thác trong những năm tiếp theo.
Năm 2006, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam bố trí kế hoạch khai thác 20,86
triệu tấn dầu thô quy đổi (tăng 1,5 triệu tấn so với mức đã thực hiện trong năm
3

2002). Đây là năm đầu tiên nước ta khai thác trên 20 triệu tấn dầu thô quy đổi.
Trong đó có 17,6 triệu tấn dầu thô và 3,7 tỷ m3 khí thiên nhiên.
Trong năm 2008, tổng sản lượng khai thác của Petro Vietnam đạt 22,50 triệu
tấn quy dầu, trong đó gia tăng trữ lượng dầu khí 127 triệu tấn (từ các mỏ trong
nước đạt 30 triệu tấn, từ mỏ nước ngoài đạt 97 triệu tấn).
Trong năm nay, tập đoàn này dự kiến sẽ gia tăng sản lượng khai thác lên 35
- 40 triệu tấn dầu quy đổi với doanh thu dự kiến đạt 212,5 nghìn tỷ đồng, giảm gần
70 nghìn tỷ so với năm 2008.
Dự kiến đến năm 2010, ngành Dầu khí nước ta sẽ khai thác từ trên 45 đến 52
triệu tấn dầu thô quy đổi, nhằm đáp ứng các ngành năng lượng và sản xuất công
nghiệp của cả nước.
b. Phạm vi địa lý
- Hoạt động dầu khí ở một phạm vi rất rộng, diện tích tiến hành thường từ vài
chục đến vài trăm km
2
. Bao gồm hàng loạt các quá trình từ tìm kiếm thăm dò, phát
triển mỏ và khai thác dầu khí tới chế biến và thương mại dầu khí. Ngoài ra, còn
phải tính tới cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các quá trình này.
- Thiệt hại rủi ro trong hoạt động dầu khí thường rất lớn. Canada bỏ ra gần 40
năm thăm dò dầu khí mới phát hiện ra dầu khí thương mại. Ở Việt Nam việc tìm
kiếm thăm dò dầu khí ở vùng trũng sông Hồng và thềm lục địa phía Bắc từ những
thập niên bảy mươi thế kỷ 20 nhưng kết quả cũng cho thấy: chưa phát hiện ra dầu
khí thương mại ở đây.
c. Nhu cầu vốn

Chi phí cho hoạt động dầu khí so với các ngành khai thác khác thường rất lớn.
Để khai thác thường phải khoan nhiều lỗ khoan, phải xây dựng các giàn khoan,
v.v Ví dụ như mỏ Bạch Hổ phải khoan trên 150 giếng khoan, trung bình 1 giếng
khoan sâu trên 4km. Giàn nhẹ cũng từ 25- 30 triệu USD. Giàn nặng tới 40- 50 triệu
USD.
d. Nhịp độ thay đổi công nghệ và cải tiến
Ngành khai thác dầu khí Việt Nam tính đến nay đã trên 30 năm phát triển và
trưởng thành qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau. Những năm trước đây
4

ngành công nghiệp khai thác dầu khí Việt Nam hoạt động trong những điều kiện
hết sức hạn chế: thiếu các phương tiện kỹ thuật hoạt động, thiếu các chuyên gia có
kinh nghiệm trong hoạt động dầu khí.
Cho đến nay, trải qua một phần tư thế kỷ, ngành dầu khí Việt Nam đã có những
bước tiến nhảy vọt, đã tích lũy được vốn, tạo được phương tiện kỹ thuật hoạt động
hiện đại, có đội ngũ cán bộ kỹ thuật lành nghề. Với những yếu tố này ngành khai
thác dầu khí Việt Nam có thể tự đảm đương được các nhiệm vụ trước mắt cũng
như trong tương lai một cách hiệu quả.
2. Phân tích cạnh tranh:
1. Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Dầu khí Việt Nam đang trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư nước
ngoài sôi động: Nhiều tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng
hoạt động tại Việt Nam. Ngoài số hợp đồng thăm dò khai thác được Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam (PetroVietnam) ký với các nhà thầu nước ngoài từ đầu năm đến nay,
hai tập đoàn dầu khí lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam là BP và
ConocoPhillips cũng đang xúc tiến các kế hoạch mở rộng hoạt động.
Ông John C. Mingé, Tổng giám đốc BP Việt Nam, nói với báo giới rằng BP
muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để có thể triển khai hiệu
quả một số dự án mới và mở rộng các dự án hiện hữu trong 10 năm tới. BP tính
toán họ và các đối tác sẽ cần khoảng 2 tỉ Đôla Mỹ, trong đó phần đầu tư của BP

ước tính sẽ chiếm khoảng 1 tỉ Đôla. Nguồn vốn này sẽ được đầu tư vào việc nâng
công suất khai thác mỏ khí Lan Tây & Lan Đỏ (lô 6.1), phát triển thêm mỏ khí Hải
Thạch & Mộc Tinh (lô 5.2 và 5.3) và xây dựng một nhà máy điện tiêu thụ khí tại
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện tại BP đang là nhà thầu điều hành dự án khí Nam Côn Sơn, có tổng vốn
đầu tư 1,3 tỉ Đôla, và nắm 35% cổ phần khai thác tại lô 6.1 của dự án này. Lô 6.1
hiện có công suất khai thác là 3 tỉ mét khối khí/năm. Ông Mingé cho biết BP đang
có kế hoạch đầu tư mở rộng giàn khoan khai thác để nâng công suất khai thác của
lô 6.1 thêm 50% so với công suất thiết kế ban đầu vào giữa năm sau, nhằm tăng
5

sản lượng cung cấp khí thiên nhiên cho các nhà máy điện vào năm 2010. Các đối
tác đầu tư của BP tại lô 6.1 là ONGC (Ấn Độ) với 45% cổ phần và PetroVietnam
với 20% cổ phần.
Ngoài ra, công ty cũng đang trong quá trình thảo luận để sớm triển khai dự
án phát triển lô 5.2 và 5.3, nằm kế bên lô 6.1 với mục tiêu đưa khí vào bờ vào cuối
thập kỷ này (2010). Mặc dù chưa xác định được số tiền đầu tư vào mỏ khí này
nhưng ông Mingé cho biết BP đã đạt được sự nhất trí với các bên liên quan về lộ
trình thực hiện cũng như những thỏa thuận cần được ký kết để có thể triển khai dự
án.
Đầu năm nay, BP, PetroVietnam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN)
và Bộ Công nghiệp (MOI) đã ký một biên bản hợp tác để phát triển một trung tâm
điện lực tại Nhơn Trạch sử dụng khí khai thác từ lô 5.2 và 5.3. Trung tâm điện lực
Nhơn Trạch dự kiến sẽ tiêu thụ 2,5 tỉ mét khối khí/năm và có công suất là 2.640
MW.
Tại đây, BP cũng có kế hoạch xây dựng một nhà máy điện với công suất gần
tương đương với nhà máy điện Phú Mỹ 3 tại Bà Rịa - Vũng Tàu, để tạo thị trường
tiêu thụ khí cho lô 5.2 và 5.3. "Nhơn Trạch là một phần của kế hoạch phát triển thị
trường khí nên chúng tôi coi đây là một cơ hội tốt", ông Mingé nói.
Bên cạnh việc khai thác các mỏ khí và xây dựng nhà máy điện, BP cho biết

họ cũng đang làm việc với các đối tác Việt Nam về khả năng đầu tư vào việc sản
xuất khí hóa lỏng (LPG), một phân khúc thị trường rất có tiềm năng đối với chiến
lược kinh doanh của công ty tại Việt Nam.
Tập đoàn Dầu khí ConocoPhillips (Mỹ), hiện nay đang là một trong những
nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng số vốn giải ngân trong 10
năm qua đã lên tới 1 tỉ Đôla Mỹ, gần đây cũng tuyên bố trong 10 năm tới sẽ đầu tư
tiếp khoảng hơn 1 tỉ Đôla cho các dự án khai thác dầu tại Việt Nam.
ConocoPhillips cho biết trong năm nay, công ty sẽ đầu tư khoảng 115 triệu
Đôla để phát triển lô 15.1 bao gồm các mỏ dầu Sư Tử Đen, Sư Tử Trắng, Sư Tử
6

Vàng và Sư Tử Nâu. Hiện tại mỏ Sư Tử Đen có công suất khai thác 70.000 thùng
dầu/ngày và là mỏ dầu có công suất khai thác lớn thứ ba tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, ConocoPhillips nắm giữ 23,25% cổ phần khai thác tại lô
15.1; 36% tại lô 15.2; 70% tại lô 133 và 134; 50% tại lô 5.3 và 16,33% tại dự án
đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn. Đại diện của ConocoPhillips tại Việt Nam cho
biết khoản đầu tư trong 10 năm tới của tập đoàn này tại Việt Nam sẽ tập trung vào
các dự án phát triển mỏ mà công ty có cổ phần khai thác.
Như vậy riêng vốn của hai tập đoàn dầu khí lớn là BP và ConocoPhillips đầu
tư vào Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí dự tính sẽ đạt hơn 2 tỉ Đôla trong vòng 10
năm tới. Các chuyên gia kinh tế nước ngoài dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí, một lĩnh vực sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài hơn cả, sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Doanh thu từ ngành này
hiện đang chiếm trên 25% tổng thu ngân sách của Việt Nam.
Hiện tại có khoảng 29 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực tại Việt Nam, bao
gồm ba hợp đồng mới được ký kết cho bốn lô thuộc bể Phú Khánh trong nửa đầu
năm nay, với sự góp mặt của hầu hết các tập đoàn dầu khí đứng đầu trên thế giới.
Như vậy có thể thấy rằng, ngoài lợi ích do các nhà đầu tư nước ngoài đem
lại cho ngành khai thác dầu khí Việt Nam, thì lực lượng cạnh trang ngày càng
mạnh, đe dọa và lấn ướt các công ty khai thác của Việt Nam.

3. Vị trí nhóm chiến lược
Ngành khai thác dầu khí Việt Nam đẩy mạnh việc tìm kiếm, thăm dò, gia
tăng trữ lượng xác minh ở mức 70-80 triệu tấn quy dầu, khai thác và sử dụng hợp
lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước, thúc đẩy các hoạt
động khai thác dầu khí ở nước ngoài và sớm đưa các phát hiện dầu khí mới vào
khai thác. Phấn đấu năm 2009-2010 tổng sản lượng khai thác dầu khí đạt 48,36
triệu tấn quy dầu, trong đó khai thác dầu thô (cả trong và ngoài nước) là 32,36 triệu
tấn, khai thác khí 16 tỷ m 3 .
7

Chú trọng vận hành an toàn các hoạt động sản xuất công nghiệp khí, điện,
xúc tiến đầu tư các dự án điện mới phù hợp với Quy hoạch điện VI, phấn đấu đến
hết năm 2010 đạt tổng công suất lắp đặt là 2.500 MW điện, chiếm 10% và đến
2015 chiếm 30% tổng sản lượng điện toàn quốc. Về công nghiệp chế biến dầu khí,
triển khai đúng tiến độ các dự án đầu tư nhà máy lọc dầu và hóa dầu trong nước
như Lọc dầu Dung Quất (công suất 6,5 triệu tấn/năm, vận hành từ tháng 2/2009),
Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Lọc dầu Long Sơn (hoàn thành giai đoạn đầu vào năm
2013),…
Như vậy, trong cả giai đoạn 2006-2010, một số chỉ tiêu cơ bản phát triển của
PVN được điều chỉnh tăng lên, như tổng doanh thu đạt từ 1.130.015-1.244.803 tỷ
đồng (kế hoạch cũ là 669.300 tỷ đồng), sản lượng điện sản xuất đạt 26,91 tỷ Kwh
(kế hoạch cũ 15 tỷ KWh); tốc độ phát triển dịch vụ dầu khí trung bình đạt
20%/năm; bổ sung một số dự án đầu tư trọng điểm như Dự án khai thác dầu khí ở
Venezuela, liên doanh tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí với Zarubernhep và
Gasprom ở Liên bang Nga, Tổ hợp hóa dầu miền Nam. Các chỉ tiêu điều chỉnh
giảm là sản lượng khai thác dầu khí và sản lượng urê sản xuất, tiến độ vận hành
một số dự án khí và đạm,…
PVN cho biết, trong 3 năm đầu 2006-2008, một số chỉ tiêu phát triển chính
của Tập đoàn đã đạt mức của toàn giai đoạn, về đích trước 2 năm. Ước đến hết
năm 2008, doanh thu đạt 689.000 tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch 5 năm 2006 -2010,

nộp NSNN 273.000 tỷ đồng, bằng 134% kế hoạch 5 năm, kim ngạch xuất khẩu đạt
gần 29 tỷ USD, bằng 137% kế hoạch 5 năm.
Một số mục tiêu chiến lược đã hoàn thành vượt mức kế hoạch, như hoạt
động tìm kiếm, thăm dò dầu khí, gia tăng trữ lượng, việc kêu gọi đầu tư nước ngoài
vào tìm kiếm, thăm dò dầu khí trong nước và triển khai tìm kiếm dự án đầu tư
thăm dò dầu khí tại nước ngoài đạt kết quả cao hơn dự kiến. Tiến độ đầu tư các dự
án công nghiệp khí – điện về cơ bản được đảm bảo, nhiều công trình như hệ thống
ống dẫn khí Rạng Đông – Bạch Hổ, Nam Côn Sơn, PM3 Cà Màu, Nhà máy điện
Cà Mau 1 và 2, Nhơn Trạch 1,… được hoàn thành, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
8

cao. Công nghiệp chế biến dầu khí, phát triển dịch vụ dầu khí cũng đạt những dấu
ấn tiêu biểu như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Đạm Phú Mỹ,…
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, sự phát triển của ngành
Dầu khí cũng đang đứng trước những thách thức, khó khăn không nhỏ. Đặc biệt là
sản lượng khai thác chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra cho giai đoạn, tiến độ đầu tư
một số dự án đường ống dẫn khí, nhà máy đạm, đóng tàu bị chậm.
4. Trạng thái của ngành:
Với tiền thân là Tổng cục Dầu khí (thành lập ngày 3-9-1975) rồi Tổng công ty
Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam, sau đó là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) được hình thành theo quyết định số
198/2006/QĐ-TTg ngày 29-8-2006 của Thủ tướng Chính phủ.
Trải qua các thời kỳ, PetroVietnam luôn là đơn vị tiêu biểu toàn quốc về các
mặt: năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội, đóng góp vào sự phát triển của
đất nước. Năm 1986, Tập đoàn đã khai thác dòng dầu thô đầu tiên của Việt Nam,
mở ra thời kỳ tươi sáng về mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Liên tục 1991 đến nay, PetroVietnam luôn đóng góp khoảng 20% GDP, góp
khoảng 30% vào ngân sách Nhà nước. Năm 2008, doanh thu toàn Tập đoàn đạt
280,05 nghìn tỷ đồng, bằng 149,6% kế hoạch, tăng 31,2% so với năm 2007. Tập
đoàn nộp ngân sách nhà nước đạt 121,80 nghìn tỷ đồng, bằng 181,4% kế hoạch

năm 2008, tăng 41,7% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 11,15 tỷ USD,
bằng 146,7% kế hoạch năm 2008, tăng 26,7% so với năm 2007 (lần đầu tiên đạt
mức trên 10 tỷ USD), chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Việt Nam
được ghi nhận là nước đứng thứ 3 Đông Nam Á về khai thác dầu thô.
Tại thời điểm khó khăn kinh tế như hiện nay, dầu khí được xem như yếu tố
trọng yếu góp phần giữ vững an ninh năng lượng để giữ ổn định kinh tế-xã hội đất
nước. Sự xuất hiện, duy trì hoạt động trên biển, đảo của các cán bộ, công nhân
ngành dầu khí cũng góp phần bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Tháng 2-2009 tới đây, một mốc son sẽ được ghi vào hành trình phát triển của
Tập đoàn, ngành dầu khí cũng như đối với đất nước Việt Nam ta. Đó là sự kiện
Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ cho sản phẩm đầu tiên, và cũng theo kế hoạch, nhà
9

máy này sẽ được khánh thành vào quý III-2009. Nhờ sự ra đời của nhà máy, ngay
trong năm 2009 này, Việt Nam sẽ tự sản xuất khoảng 3 đến 3,5 triệu tấn xăng dầu,
đáp ứng khoảng 20% nhu cầu nội địa. Trong chiến lược phát triển của Tập đoàn,
đến năm 2013, khi tiếp tục có nhà máy lọc dầu Nghi Sơn được đưa vào sử dụng thì
sẽ sản xuất được 26 triệu tấn xăng dầu/năm, đáp ứng được phần lớn nhu cầu nội
địa.
Bên cạnh việc mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác ở trong nước nhằm gia
tăng trữ lượng dầu khí, ngọn lửa hồng của PetroVietnam đang lan xa và bừng cháy
ở những miền đất mới. Ngoài những “trái ngọt” tại In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, I-
rắc, Mông Cổ , Tập đoàn đang tích cực xúc tiến các cơ hội đầu tư tại châu Phi,
Nam Mỹ, Trung Đông, Đông Nam Á và các nước thuộc Liên Xô cũ.
Thời gian qua, khi nền kinh tế đất nước gặp khó khăn từ việc thiếu điện, phân
bón thì các công trình của Tập đoàn như Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Nhà máy Điện Cà
Mau 1 và 2; Nhà máy Điện Nhơn Trạch đã đi vào hoạt động là minh chứng hùng
hồn cho nỗ lực của Tập đoàn trong việc sản xuất những mặt hàng chiến lược cho
đất nước. Ngay trong những tháng mùa khô tới đây, các nhà máy điện của
PetroVietnam tại Cà Mau và Đồng Nai có thể cung cấp cho nền kinh tế hơn 10 tỷ

kWh điện/năm, chiếm 15% tổng sản lượng điện toàn quốc. Các nhà máy điện của
PetroVietnam phấn đấu để sản xuất ra 30% tổng sản lượng điện của toàn quốc
trong tương lai gần.
Tóm lại, ngành dầu khí Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ,
nhờ những tiền đề vững chắc có được trong thời gian qua.
5. Phân tích các đối thủ
Trong thực tế sản lượng dầu ở VN đã bắt đầu giảm: năm 2005, sản lượng dầu thô
của VN bình quân khoảng 370.000 thùng/ngày, thấp hơn so với năm 2004 (vốn là
403.000 thùng/ngày) gần 10%. Việc giảm sản lượng dầu năm 2004-2005 là do
giảm sản xuất tại mỏ Bạch Hổ (nguồn: Bộ Năng lượng Hoa Kỳ EIA/DOE) bởi
phần lớn sản lượng dầu thô của VN là từ mỏ Bạch Hổ.
Điều này đã được dự báo từ lâu. “Theo dự báo của các chuyên gia dầu khí, từ nay
đến năm 2005 sản lượng dầu thô của VN có thể đạt 16 triệu tấn/năm, sau đó sẽ
10

giảm rất nhanh nếu không tìm kiếm thêm được những nguồn dầu mới. Các chuyên
gia cũng cho rằng khả năng phát hiện những mỏ dầu lớn như Bạch Hổ ở VN là rất
thấp và chỉ có thể còn những mỏ nhỏ, trữ lượng ít” (nguồn: TTXVN 16-3-2001).
Theo Petro Vietnam, tính đến tháng 1-2000, trữ lượng dầu và khí của VN là 2,7 tỉ
thùng và 12.800 tỉ bộ khối (Tcf), đứng ở vị trí 35 và 42 trong số các quốc gia trên
thế giới. Số liệu này khác với số liệu của Oil and Gas Journal, theo đó VN có 600
triệu thùng dầu dự trữ. Nếu căn cứ trên hai con số này, sẽ thấy số ngày còn dầu để
khai thác, theo tốc độ hiện nay:
- 2,7 tỉ thùng: 0,370 triệu thùng/ngày = 7.297 ngày (tức khoảng > 20 năm).
- 600 triệu thùng: 0,370 triệu thùng/ngày = 1.621 ngày (tức khoảng 4,5 năm).
Tất nhiên, có những lý do giải thích việc sản lượng “khựng lại”. Từ 20 năm qua,
Vietsovpetro (VSP) - một liên doanh giữa Petro Vietnam và Zarubezhneft (Nga) -
đã không ngừng khai thác mỏ Bạch Hổ. Đã có một giai đoạn do những yếu tố lịch
sử, các hoạt động thăm dò đã chỉ trong tay một, hai công ty như trong thời kỳ
1981-1988: “Đây là khoảng thời gian dài vắng bóng các công ty dầu khí nước

ngoài hoạt động trên thềm lục địa VN” (nguồn: Petro Vietnam).
Giai đoạn tiếp theo lạc quan hơn: “Sau 13 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài
năm 1987 và bảy năm thực hiện Luật dầu khí (sửa đổi vào năm 2000), VN đã thu
hút được 3 tỉ USD đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí (chủ yếu cho
công tác tìm kiếm thăm dò) ” (nguồn đã dẫn).
Kết quả là: “Năm 2002, các mỏ Cá Ngừ Vàng (Golden Tuna) và Voi Trắng (White
Elephant) được loan báo, trong đó riêng Cá Ngừ Vàng có trữ lượng 250 triệu
thùng. Tháng 4-2003, Petro Vietnam phát hiện tại mỏ Đại Hùng một khả năng sản
xuất khoảng 6.300 thùng/ngày. Đầu năm 2004, một phát hiện khác tại lô số 15-1
mỏ Sư Tử Trắng (White Lion) với khoảng 8.682 thùng/ngày, có thể đưa vào sản
xuất năm 2008. Tháng 7-2004, VSP phát hiện thêm dầu tại mỏ Rồng.
Ba tháng sau, một liên doanh gồm American Technologies, Petronas, Singapore
Petroleum và Petro Vietnam loan báo phát hiện một mỏ dầu có trữ lượng 100 triệu
thùng tại bờ biển phía Bắc. Cũng tháng 10-2004, các hãng dầu Nhật Bản Nippon
Oil Exploration, Idemitsu Kosan và Teikoku Oil (30 percent) loan báo kế hoạch
góp vốn vào các lô 05.1b và 05.1c tại bồn trũng Nam Côn Sơn.
Hai tháng sau, Hãng dầu Korean National Oil Corporation (KNOC) của Hàn Quốc
cùng các công ty dầu khác cũng của Hàn Quốc quyết định đầu tư 300 triệu USD
cho việc triển khai tại lô 11-2. Tháng 10-2005, Hãng dầu ONGC của Ấn Độ được
11

cấp giấy phép tại lô 127 ở bồn trũng Phú Khánh cùng lúc với Hãng dầu
ChevronTexaco của Mỹ tại lô 122 ở đây (nguồn: EIA/DOE).
Các nỗ lực thăm dò trên cho thấy có nhiều triển vọng tăng trữ lượng dầu, do những
nỗ lực “đa phương hóa” trong lĩnh vực kinh tế quan trọng này. Nếu so với trước
(chỉ một liên doanh dầu khí) tình hình sau khi có Luật dầu khí sửa đổi đã “đa diện”
hơn với phần lớn là các hợp đồng chia sản phẩm (PSC), bên cạnh một số ít hợp
đồng điều hành chung (JOC) và hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
UNDP và WB (ESMAP) thông qua “Chương trình hỗ trợ quản lý lĩnh vực năng
lượng” đã khuyến cáo: hình thức hợp đồng thường được sử dụng nhất với các nhà

đầu tư nước ngoài là hình thức PSC, hợp đồng chia sản phẩm. VN nên sử dụng các
hợp đồng PSC này như là loại hợp đồng chủ yếu, thay vì các hợp đồng liên doanh
hay các loại thỏa thuận khác. Bởi lẽ như đánh giá của ESMAP: “Tiềm năng dầu và
khí thềm lục địa của VN vẫn còn chưa được thăm dò nhiều lắm so với các nước
láng giềng Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Thái Lan”.
Theo các tác giả chương trình này, có thể sử dụng những đòn bẩy kinh tế cần thiết
trong các trường hợp trữ lượng dầu ít để, thay vì xếp xó các mỏ dầu nhỏ, vẫn có
thể đưa vào khai thác được: “Chính sách tô nhượng không linh hoạt của VN có thể
làm nản lòng việc triển khai các mỏ dầu nhỏ. VN nên tỏ ra “nhạy cảm” hơn đối với
giá cả và sản xuất sao cho các mỏ nhỏ này có thể trở nên kinh tế hơn ”.
Theo tác giả của “Ảnh hưởng của giá dầu thô lên các dự án thăm dò và khai thác
dầu khí ở vùng biển nước cạn VN”, giá dầu thô ở mức xa trên con số trung bình 20
USD/thùng vừa khuyến khích các công ty đang khai thác tăng sản lượng, vừa nâng
cao hiệu quả đầu tư cho các công ty thăm dò. Nói cách khác, nếu như giá dầu ở
mức 20 USD/thùng như trước kia, thì khai thác cầm chắc là lỗ huống hồ là thăm
dò.
Song, khi giá dầu liên tục trên ngưỡng 60 USD/thùng, thậm chí có lúc vượt cả
ngưỡng 75 USD/thùng, thì đây chính là thời cơ để có những quyết định khuyến
khích các công ty mạnh dạn đầu tư thăm dò ở những vùng có tiềm năng thấp để có
thể đi đến kết quả là: “Nhiều mỏ dầu mới được triển khai trong những năm tới sẽ
làm tăng sản lượng dầu hỏa của VN. Một giếng dầu mới ở lô 15-1 Sư Tử Trắng với
sản lượng 8.682 thùng/ngày được dự trù cho năm 2008” (nguồn: EIA/DOE).


12

6. Triển vọng ngành và tính hấp dẫn
Trên cơ sở báo cáo của Tập đoàn dầu khí Quốc gia nêu rõ: Mặc dù gặp nhiều
khó khăn nhưng trong năm 2008, Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam đã chấp
hành nghiêm túc và thực hiện có kết quả các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước

giao, trở thành tập đoàn kinh tế lớn nhất hiện nay cả về vốn chủ sở hữu, doanh thu
và lợi nhuận. Riêng trong lĩnh vực nộp ngân sách của ngành dầu khí đã chiếm tới
31% tổng thu ngân sách nhà nước và kim ngạch xuất khẩu chiếm 18% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước với hơn 11 tỷ USD. 2008 cũng là năm Tập đoàn phát
triển mạnh cả trong và ngoài nước, nhất là trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, góp
phần gia tăng trữ lượng dầu khí; khả năng khai thác, chế biến và dịch vụ ngày càng
phát triển; các dự án trọng điểm đưa vào vận hành an toàn.
Tuy nhiên, vẫn còn những mặt còn hạn chế của Tập đoàn dầu khí Quốc gia
Việt Nam cần tập trung khắc phục như xây dựng kế hoạch khai thác phải sát hơn;
quyết liệt kiểm soát tiến độ, chất lượng các công trình trọng điểm; rà soát và kiểm
soát từng lĩnh vực và tất cả các dự án đầu tư kinh doanh đảm bảo hiệu quả, đồng
thời tăng cường quản lý và kiểm soát chặt các công ty thành viên.
Quy hoạch phát triển ngành dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến năm
2025 với tinh thần quyết tâm phát triển đồng bộ ngành dầu khí từ thăm dò, khai
thác, chế biến, vận chuyển, tàng trữ, phân phối gắn với khả năng dịch vụ dầu khí
để khai thác hiệu quả nguồn dầu khí trong nước, đồng thời mở rộng thăm dò, khai
thác ra bên ngoài, góp phần quan trọng đảm bảo cân đối năng lượng cho đất nước.
Muốn như vậy, phải xây dựng Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam trở thành tập
đoàn mạnh, đa ngành, trong đó quan trọng nhất là dầu khí.


×