Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Địng hướng và giải pháp phát triển kinh tế vùng cửa khẩu Đông Bắc - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.18 KB, 13 trang )

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

III. Vai trị và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) ở Việt Nam ra đời phù hợp với quan điểm đổi
mới mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước trong những
năm trở lại đây. Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên ở Việt Nam là KKTCK Móng Cái
được thành lập ngày 18/9/1996 theo Quyết định 675 /TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Trong thời gian qua, hoạt động của khu KTCK đã đóng một vai trị hết sức
quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh, của vùng khi có KTCK
nói riêng và của cả nước nói chung. Đối với những nước có nền kinh tế hàng hóa
chưa phát triển như Việt Nam thì việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mở rộng
quy mô thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính
cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Ngồi ra việc phát triển khu KTCK sẽ tạo
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng cơng
nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nơng nghiệp trong tổng GDP. Với những đóng
góp không nhỏ đối với phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua các khu
KTCK đã ngày càng khẳng định rõ vai trị và vị trí của mình.
1. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về
quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu
tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngồi vào nội
địa thơng qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu
hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mơ,
sự hấp dẫn của cơ chế chính sách ưu đãi thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu
thông hàng hố cho phù hợp. Bên cạnh đó khi mơ hình khu kinh tế cửa khẩu


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

được phát huy tốt sẽ tạo ra sự lưu thơng hàng hố giữa trong và ngoài nước nhằm
khai thác thị trường rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực cơng


nghiệp, dịch vụ và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hố chậm phát
triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước mắt của
nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa dạng hóa
của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và cũng
chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành một mơ hình phát
triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh tế cửa khẩu tiềm năng của địa
bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà đầu tư trong
nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ. Bên cạnh
đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ
thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu
KTCK cịn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự
phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Hơn nữa cịn đóng góp cho ngân
sách Nhà nước ở cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ
đầu tư cho tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới
thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

đồng bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường,
qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, nhằm

đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần quan trọng trong việc thực hiện
quan điểm phát triển giai đoạn 2001-2002 mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tựchủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển lao
động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, tạo
điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các
ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ trợ phát triển đối với dịch
vụ trong nước thông qua việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước láng giềng;
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, kiểm tra giám sát các hoạt động,
phát hiện và xử lý các vi phạm. Điều đó thể hiện khi mơi trường kinh tế phát
triển thuận lợi khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách
kinh tế đối ngoại củ các quốc gia có đường biên giới chung. Vì vậy những nhu
cầu về kinh tế cả cho sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ
cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận; trong phạm vi rộng nó sẽ trực
tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả nước thơng qua sự ln
chuyển các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

vận động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các chủng loại
hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu KTCK
càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả
nước, khai thác tối đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng.
Ngoài ra đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Đơng Bắc nơi có khu
KTCK nó cịn góp phần đẩy nhanh xu hướng đơ thị hố, hình thành những thị
trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …

3. Đối với q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hố đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc đẩy q trình hiện đại
hố thơng qua việc ứng dụng cơng nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong
hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra những yếu tố để liên kết các
doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngồi nước, góp phần tích cực vào
việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân cơng
lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
4. Đối với phát triển xã hội
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu cũng thực chất
là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển xã hội là
nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK cịn góp phần giải quyết
vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của nhân dân qua việc đào tạo và


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành nhiều trung tâm tạo
việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với
sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã
hội rất hiệu quả, đặc biệt là các vùng biên giới cửa khẩu cịn đang gặp rất nhiều
khó khăn.
5. Đối với an ninh quốc phịng
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm ăn, sinh
sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đơ thị biên giới góp phần làm
tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân
dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu sẽ được thay da đổi thịt tạo thêm lòng
tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngồi ra, các lực

lượng cơng an, hải quan, biên phòng tại khu kinh tế cửa khẩu được tăng cường
năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền
Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt.
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lanh thổ, bố trí
dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội
cho khu vực.
IV. Kinh nghiệm phát triển khu KTCK ở một số nước
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này
đều nhận thấy vai trị to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ
tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mơ hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng
và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về
mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động
của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức
năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về
cơng nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng
đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch
và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đa bắt đầu được khai phát một cách tích cực, khu
vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có khoảng cách xa với các
vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối mở cửa và những biến đổi trong
phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới đã buộc nước này phải điều chỉnh và
hồn thiện chính sách này theo hướng đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa
để phối hợp phát triển với các vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính

sách phát triển mới ra đời: chính sách cải cách mở cửa khơng chỉ dựa vào nguồn
tài chính của chính phủ trung ương mà cịn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa
phương, xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu
vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội dung
khơng giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực.
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu thụ hàng
công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp
Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất khẩu hàng hóa, lao
động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng thiếu hoặc khan hiếm ở


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Trung Quốc) cũng là một trong số những chính sách mới kể trên. Tư tưởng chủ
đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp
tác kinh tế trực tiếp với các nước láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức
và nhiều con đường, tuỳ điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó.
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan của quá trình
hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường biên giới với nhau.
Đây cũng là một trong những hình thức thương mại truyền thống của Trung
Quốc. Là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động thương mại quốc tế của Trung
Quốc, KTBM đóng một vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của các khu vực biên giới nói riêng cũng như tăng cường và mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế nói chung.
Q trình phát triển kinh tế biên mậu của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và xúc
tiến hoạt động biên mậu (HĐBM). Dựa vào lợi thế có đường biên giới trải dài và
tiếp giáp với nhiều quốc gia, HĐBM của Trung Quốc có một lịch sử phát triển
lâu đời. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC) được thành lập.

Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô
(cũ), Việt Nam, Triều Tiên, ấn Độ và các quốc gia có chung đường biên khác từ
những năm đầu của thập kỷ 50. Tuy nhiên, trong thập kỷ 60 và 70, hoạt động này
đã bị tạm ngưng một thời gian do một số vấn đề trong và ngoài nước. Đến đầu
thập kỷ 80, cùng với sự cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng như việc nối


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

lại quan hệ chính trị với các quốc gia có chung đường biên. HĐBM lại được tiếp
tục và chuyển sang giai đoạn phát triển mới:
- Giai đoạn khôi phục và mở rộng (1982-1991)
Năm 1982, các tỉnh biên giới phía Bắc Trung Quốc đã nối lại quan hệ thương
mại với vùng miền Đông Liên xơ (cũ). Năm 1988, Chính phủ Trung Quốc đã ban
hành một số chính sách ưu đãi đối với HĐBM. Nhờ đó tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động thương mại các tỉnh biên giới của Trung Quốc, làm cho phạm vi và
quy mô của HĐBM đa được mở rộng đáng kể trong giai đoạn này.
- Giai đoạn phát triển (1992-1995):
Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh việc trao đổi
hàng hóa với Liên Xơ (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993, lầm đầu tiên kim
ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức trao đổi hàng) đạt mức
cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn của thị trường cùng với việc
xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất lượng đã buộc Chính phủ Trung
Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn định lại trật tự trong HĐBM vào năm
1994.
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay)
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ Trung Quốc đ•
ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào năm 1996. Nhờ việc
ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối với HĐBM. Trong thời gian
điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm sút nhưng sau đó được phục hồi từ

năm 1999 và duy trì được mức độ tăng trưởng ổn định sau năm 2000.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc
biến động theo mơ hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim ngạch xuất nhập
khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ USD, chiếm tới 2,63%
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Tuy trong thời gian sau đó
(1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm 1999, kim ngạch xuất nhập khẩu
qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng
trưởng này tiếp tục được duy trì đều đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn
35% so với năm 2002). chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước. Các hàng hóa xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc
là các sản phẩm nông sản như: gạo. rau, hoa quả, các sản phẩm dệt may, sản
phẩm công nghiệp nhẹ ,… trong khi Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu
thô như gỗ, thép, bột giấy, khống sản, các kim loại khơng chứa sắt, phân bón …
Các hình thức trao đổi trng hoạt động KTBM của Trung Quốc rất phong phú và
đa dạng, và phụ thuộc vào đặcđiểm kinh tế - xã hội của các quốc gia có chung
đường biên giới. Nhìn chung, theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, hai hình
thức chủ yếu trong trao đổi KTBM là:
- Hình thức trao đổi hàng hóa của dân cư vùng biên giới: Hình thức trao đổi này
được chính phủ quy định trong phạm vi 20km tính từ đường biên giới với một
giá trị hạn mức trao đổi tối đa. Hình thức này được sử dụng phổ biến, thuận tiện
với nhiều ưu đai về thuế quan nhằm hỗ trợ cho các tỉnh biên giới phát triển cũng
như tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


- Hình thức thương mại tiểu ngạch: Là hoạt động buôn bán giữa các doanh
nghiệp Trung Quốc với các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh các nước có
chung đường biên giới tại khu vực cửa khẩu. Hình thức này được tập trung quản
lý thống nhất và chịu sự điều chỉnh của các chính sách thương mại.
2. Thái Lan
Thái Lan có đường biên giới khá dài, các hoạt động trao đổi kinh tế - thương mại
cửa khẩu biên giới khá sôi động trong thời gian qua với các nước láng giềng là
Campuchia, Myanmar, Lào, Malaysia. Có thể thấy rằng, thơng qua việc khai thác
lợi thế thương mại cửa khẩu biên giới, hàng hóa của Thái Lan đã xâm nhập rất
mạnh sang các nước láng giềng. Nhìn chung, các hoạt động này được thực hiện
dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại chính thức và thương mại phi chính
thức. Thương mại biên giới chính thức là các hoạt động biên giới theo các quy
định của luật pháp (các quy chế, hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai
chính phủ ký kết). Các hoạt động này thường phải chịu những khoản thuế quan
nhất định, được ghi chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền
về xuất nhập khẩu.
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao lưu thương mại
qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các thủ tục hải quan,
thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương mại, hay trốn thuế hải
quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc trốn tránh các thủ tục hải
quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ dàng nhờ các điều kiện thuận
lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân chúng ở hai bên đường biên.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan là các hàng
tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy và phụ tùng.
Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các hàng lương thực

thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện gia dụng, rượu mùi,
thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính, hiện nay kim ngạch
thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến trên 1,0 lần so với thương
mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đơi thương mại chính thức giữa
Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa
được bn bán theo con đường phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm
được chế tạo từ những nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường
biên giới với Thái Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …).

Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và phong phú,
với sự thơng thống và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan. Nhờ có sự ưu đãi
hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã càng tạo ra sự hấp dẫn
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và du lịch đang trong đà tăng
trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc gia trongviệc phát triển quan hệ
thương mại biên giới, theo hướng khai thác tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã
hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm các mơ hình kinh tế linh hoạt hơn với các
chính sách cởi mở nhằm tăng cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước,
mở rộng và phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình
thành một số vùng kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

hơn để lôi kéo các khu vực lân cận cùng phát triển thơng qua sự phát triển có tính
chất lan toả.
3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này
đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ
tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mơ hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng

và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mơ
hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả tồn diện về
mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động
của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức
năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về
cơng nghiệp, nơng nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng
đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch
và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử dụng thành
công. ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế độ thuế giữa Mỹ
và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa biên giới hai nước,
khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi cho mình. Hơn nữa, trong
quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp xây dựng hàng loạt các xí nghiệp
gia cơng, chế tác theo hình thức liên doanh trên tuyến biên giới. Một số nước
khác cũng sử dụng hình thức này, như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị
trường tự do được xây dựng, trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

và mậu dịch, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại qua cửa khẩu
biên giới.
Đối với các nước Tây Âu, có đặc điểm về lãnh thổ là các nước tiếp giáp nhau có
khoảng cách qua lại gần. Trên cơ sở những chính sách chung của khối EEC,
nhiều quốc gia đã xây dựng những chính sách nhằm phối hợpchặt chẽ hơn về
kinh tế và thương mại. Năm 1992, theo thống kê của Cộng đồng chung châu Âu,
kim ngạch buôn bán biên giới tăng 550 tỉ mác Đức so với năm 1980. Nước Pháp,
một nền kinh tế phát triển mạnh ở châu Âu cũng chủ trương khai thác những thế
mạnh trên các tuyến biên giới trong trao đổi kinh tế - thương mại. Pháp đã xây
dựng nhiều khu kinh tế mở ở biên giới phía Đơng, biến khu vực này trở thành

trung tâm kinh tế phát triển.
Phần II Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
I. Tổng quan chung về vùng Đông Bắc
1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.1 Vị trí địa lý, địa hình khí hậu :
Vùng Đơng Bắc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng, Tây Bắc, biển Đông và
Trung Quốc. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi trong việc đẩy mạnh giao lưu
kinh tế giữa các vùng và đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc. Việc tiếp giáp
với Đồng Bằng Sơng Hồng và có một lãnh thổ gắn với vùng phát triển kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ với những trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã
cho thấy tiềm năng rất lớn của vùng sau này. Dự báo đến năm 2010 dân số Trung
Quốc vào khoảng 1,3 tỷ người sẽ có nhiều khả năng trở thành cường quốc kinh tế
của thế giới. Khu vực Đông, Đông Nam Trung Quốc đang phát triển vào loại



×