KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 1 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
GIAI ĐỌAN TỘT CÙNG CỦA CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
(Theo bản in tiếng Việt của Nhà xuất bản Tiến bộ Mát – xcơ – va 1975)
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Những năm đầu thế kỷ XX khi CNTB độc quyền đã hoàn toàn thay
thế CNTB tự do cạnh tranh , tình hình kinh tế, chính trò của CNTB có nhiều
biến đổi . Sự thống trò và bành trướng của tư bản độc quyền không chỉ
trong hoạt động kinh tế mà bao trùm cả đời sống xã hội - chính trò . Sự
thống trò của độc quyền một mặt làm cho LLSX phát triển nhanh chóng,
với tính chất xã hội hóa ngày càng cao , một mặt khác, của cải và
quyền lực xã hội ngày càng tập trung vào trong tay một nhóm nhỏ tư bản
độc quyền . Tình hình này đẩy CNTB tới cực điểm mâu thuẫn của nó .
QHSX dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất dường như không
còn chứa đựng nổi LLSX đã xã hội hóa cao . Xã hội tư bản đang tiềm ẩn
trong lòng nó những điều kiện ngày càng chín muồi của một cuộc cách
mạng xã hội .
Nhà cách mạng lỗi lạc người Nga V.I.Lenine đã viết tác phẩm “Chủ
nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB” để phản ánh tình hình trên .
Tác phẩm được ông hoàn thành năm 1916 , xuất bản lần đầu tiên ở Mát
– xcơ – va năm 1917 . Tác phẩm đã phân tích toàn bộ đặc điểm kinh te, quy
đònh sự vận động của CNTB trong thời kỳ CNTB độc quyền , phản ánh
trung thực diễn biến lòch sử kinh tế , xã hội, chính trò thời kỳ này và rút ra
những luận điểm nổi tiếng có ý nghóa khoa học và cách mạng sâu sắc
.Có thể nói đây là tác phẩm kế tục bộ “ Tư bản “ của K . Marx trong thời
kỳ CNTB độc quyền .
Tác phẩm bao gồm lời tựa và nội dung 10 vấn đề . Nội dung tác
phẩm được giới thiệu trong tài liệu này theo bản in tiếng việt của Nhà
xuất bản Tiến Bộ Mát-xcơ-va 1975
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 2 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
NỘI DUNG TÁC PHẨM
I - Tập trung sản xuất vào các tổ chức độc quyền
Tổng hợp phân tích số liệu thống kê các nền kinh tế Đức , Mỹ , Anh
, Pháp sau thời kỳ khủng hoảng phá sản năm 1873 .V.I.Lenine chứng minh
sự hình thành , phát triển của các tổ chức độc quyền diễn ra như một tất
yếu , đáp ứng sự đòi hỏi khách quan phát triển LLSX “ Từ chỗ là hiện
tượng nhất thời những Các-ten đã trở thành cơ sở của đời sống kinh tế” (
Trang 32) . Nghiên cứu các tổ chức độc quyền , ông phản ánh 3 hình thức
tổ chức phổ biến ở các nước Tư bản :
- Cartel (Các-ten)
- Syndicate ( Xanh-đi-ca)
- Trust ( Tơ-rớt)
Các-ten , Xanh-đi-ca là những liên minh độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp
đònh giữa các thành viên là những xí nghiệp lớn tham gia liên minh độc
quyền “ Những Các-ten thỏa thuận với nhau về các điều kiện bán hàng ,
về kỳ hạn trả tiền , … chúng chia nhau các khu vực tiêu thụ , chúng quyết
đònh số lượng sản phẩm cần chế tạo , chúng quy đònh giá cả , chia lãi cho
các xí nghiệp” (Trang 33) . Còn Tơ-rớt là “ chế độ liên hiệp hóa, nghóa là
sự tập hợp vào trong tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp
khác nhau , những ngành này hoặc thể hiện những giai đoạn kế tiếp nhau
trong quá trình chế biến nguyên liệu , hoặc có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau”
(Trang 25) . Tập trung sản xuất làm cơ sở kinh tế của sự hình thành độc
quyền và sự thống trò của các tổ chức độc quyền đối với nền kinh tế .
Nhờ sự thống trò này , các tổ chức độc quyền vừa thu lợi nhuận độc
quyền cao , vừa triệt tiêu các xí nghiệp ngoài độc quyền qua việc khống
chế giá cả , tước đoạt nguyên liệu , nhân lực , kỹ thuật … Quá trình hình
thành độc quyền được V.I.Lenine chia làm 3 thời kỳ :
1) Những năm 1860 –1870 : Tự do cạnh tranh phát triển tột điểm . Các
tổ chức độc quyền chỉ là những mầm mống chưa rõ lắm .
2) Sau cuộc khủng hoảng năm 1873 là giai đoạn phát triển rộng rãi
của những Các-ten , những Các-ten đó vẫn là ngoại lệ . Chúng vẫn còn
chưa được vững chắc . Chúng vẫn còn là một hiện tượng nhất thời .
3) Thời kỳ phồn vinh cuối thế kỷ XIX và cuộc khủng hoảng của
những năm 1900 – 1903 Các-ten trở thành một trong những cơ sở của toàn
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 3 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
bộ đời sống kinh tế . Chủ nghóa tư bản đã biến thành Chủ nghóa đế quốc
( Trang 33)
Ông rút ra những nhận xét :
- Sự hình thành và phát triển của các tổ chức độc quyền và sự
thống trò của nó đối với nền kinh tế là đặc điểm hàng đầu của CNTB đế
quốc .
- Các tổ chức độc quyền thay thế cạnh tranh tự do nhưng không thủ
tiêu cạnh tranh tự do mà đẩy cạnh tranh tự do đến một hình thái mới , ít ồn
ào hơn nhưng gay gắt và khốc liệt hơn - cạnh tranh giữa các tổ chức độc
quyền
- Cạnh tranh biến thành độc quyền , kết quả là việc xã hội hóa
sản xuất tiến một bước lớn , trong đó cả quá trình phát minh ra các tiến
bộ kỹ thuật cũng được xã hội hoá , nhờ đó xã hội có khả năng kiểm
soát các tiến bộ kỹ thuật , các nguồn nguyên liệu , thò trường tiêu thu .
Xét về mặt này tập trung sản xuất là một sự tiến bộ của sản xuất xã
hội .
- Với sự thống trò của độc quyền sản xuất trở lên có tổ chức xã
hội rộng lớn hơn nhưng sở hữu lại tập trung vào một số ít tư bản độc
quyền . Sự thống trò của độc quyền đối với xã hội “đã trở thành nặng
nề , rõ rệt, không thể chòu nổi , hơn trước gấp trăm lần” (Trang 39)
II - Ngân hàng và vai trò mới của nó
Giống như trong công nghiệp , quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong
ngân hàng cũng dẫn tới sự ra đời của độc quyền ngân hàng . Sự ra đời
và phát triển của độc quyền ngân hàng , làm thay đổi vai trò của ngân
hàng trong sản xuất xã hội , là một trong những đặc điểm cơ bản của
CNTB độc quyền “ Việc biến đông đảo những kẻ trung gian khiêm tốn
thành một nhóm nhỏ những kẻ độc quyền là một trong những quá trình cơ
bản của sự chuyển biến CNTB thành chủ nghóa đế quốc ” (Trang 49 )
Quá trình hình thành độc quyền Ngân hàng được thực hiện thông qua
“chế độ tham dự” diễn ra ở khắp các nước Tư bản những năm cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bằng chế độ tham dự độc quyền trong ngân hàng
hình thành với tên gọi Công-xoóc-xi-om (Consortium) “Các xí nghiệp lớn
nhất là các ngân hàng , không những chỉ trực tiếp nuốt những xí nghiệp
nhỏ , chúng còn làm cho những xí nghiệp nhỏ này “gắn liền” vào chúng ,
phục tùng chúng , sáp nhập vào tập đoàn chúng , nếu dùng thuật ngữ
chuyên môn thì tức la vào các “Công-xoóc-xi-om” của chúng , bằng cách
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 4 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
“tham dự” vào tư bản của những ngân hàng nhỏ ấy bằng lối mua hay trao
đổi cổ phần , bằng hệ thống quan hệ vay mượn , … Trong đặc điểm này Le-
nine phản ánh một tổ chức độc quyền mới . Công-xoóc-xi-om được ông
mô tả là sự liên kết của các xí nghiệp lớn có liên quan về kinh tế , kỹ
thuật , thậm chí bao gồm cả các Xanh-đi-ca và Tơ-rớt hình thành nên
những tập đoàn độc quyền lớn trong cả lónh vực công nghiệp và ngân
hàng . Chẳng hạn như : “tập đoàn” ngân hàng Đức là một trong những tập
đoàn lớn nhất , nếu không phải là tập đoàn lớn hơn cả trong hết thảy
các tập đoàn ngân hàng lớn … tổng cộng tham gia vào tập đoàn ngân
hàng Đức , trực tiếp hay gián tiếp , toàn bộ hay từng phần , có 87 ngân
hàng (Trang 51 và 53) ; còn ở Mỹ có 2 ngân hàng lớn nhất chi phối là
ngân hàng của tập đoàn Rốc -cơ- phen-lơ và Moóc-gan.
Với sự hình thành và phát triển của độc quyền ngân hàng , giờ đây
mọi giao dòch của các ngành công nghiệp đã quy về một mối , trong sự
kiểm soát , khống chế của ngân hàng độc quyền , tạo ra sự phụ thuộc qua
lại ngày càng lớn giữa ngân hàng với công nghiệp , hình thành quan hệ
mới , sự thâm nhập vào nhau giữa độc quyền công nghiệp với độc quyền
ngân hàng . Quá trình này diễn ra dưới sức mạnh của các tập đoàn ngân
hàng, thông qua việc thanh toán , kiểm soát mọi hoạt động của khách
hàng, giờ đây là những độc quyền công nghiệp. Dẫn đến sự lệ thuộc
ngày càng tăng của công nghiệp vào ngân hàng , và sự liên hiệp tất yếu
diễn ra “sự hợp nhất giữa những ngân hàng này với những doang nghiệp
kia bằng cách mua cổ phần , bằng cách đưa các giám đốc ngân hàng vào
các hội đồng giám sát ( hay các ban quản trò) của các doang nghiệp công
thương nghiệp và ngược lại” ( trang 67). Sự liên hiệp giữa tư bản độc quyền
ngân hàng với tư bản độc quyền công nghiệp dẫn đến hình thành tư bản
tài chính kiểm soát cả công nghiệp và ngân hàng, kiểm soát đại bộ phận
kinh tế xã hội
Với quyền lực kiểm soát và không chế hoạt động kinh tế, các thế
lực tư bản tài chính nhờ đó khống chế lónh vực xã hội và chính trò thông
qua sự liên hiệp về con người với chính phủ; cử người tham gia vào chính
phủ. Thực chất là sự củng cố quyền lực của tư bản độc quyền, bằng việc
thâm nhập vào bộ máy nhà nước, nắm quyền lực nhà nước phục vụ cho
tư bản độc quyền mà đứng đầu là các tập đoàn tư bản tài chính.
Đặc điểm trên đây cho thấy ngân hàng trong thời kì độc quyền đã
trở thành những cơ quan thực sự có “tính chất vạn năng” trong đời sống kinh
tế, xã hội của các nước tư bản làm thay đổi đời sống xã hội được Lê-
nin đánh giá “thế kỉ XX đánh dấu một bước ngoặt từ CNTB cũ sang CNTB
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 5 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
mới, từ sự thống trò của tư bản nói chung sang sự thống trò của tư bản tài
chính” ( Trang 77)
III - Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Phần này tác giả mô tả quyền lực của tư bản độc quyền, thông qua
sự lộng hành, sự thống trò của tư bản tài chính mà đứng đầu là bọn đầu
sỏ tài chính, đối với xã hội.
Cơ chế quyền lực của tư bản tài chính là chế độ tham dự vào công ty
mẹ thông qua số cổ phiếu khống chế , khi đã kiểm soát công ty mẹ, cơ chế
này cho phép tư bản tài chính chi phối công ty con và công ty cháu; với
lượng tư bản một triệu, tư bản tài chính có thể chi phối hàng chục triệu
của xã hội. Từ quyền lực kinh tế tư bản tài chính tiến hành các hoạt động
tước đoạt của cải xã hội, khống chỉ bằng quyền lực hợp pháp mà cả
bằng những hoạt động gian lận, phi pháp, không chỉ trong thời kì phồn vinh
mà ngay trong suy thoái, khủng hoảng. Trước hết phải nói đến gian lận
trong hoạt động kế toán ở các tập đoàn độc quyền, các bảng cân đối tài
sản thường là: “giống những bản thoát tích thời trung cổ, trong đó trước
hết người ta phải cạo lớp chữ rõ đi đã, rồi mới có thể tìm thấy những
chữ nói lên nội dung thật sự của tài liệu” ( Trang 84 Lê-nin giải thích
thoái tích là bảng giấy da trên đó người ta đã xoá lớp chữ gốc, để viết
đè lên một lớp chữ mới). Sau đó là tước đoạt tài sản xã hội nhanh
chóng, bằng việc mua rẻ các xí nghiệp trong thời kì suy thoái, khủng hoảng,
những xí nghiệp vượt qua thời kì tiêu điều để bắt đầu phục hồi, cải tổ lại
rơi vào chế độ tham dự cho sự cải tổ và phục hồi đó, hay sáng lập công ty
mới, tư bản tiếp tục được thâu tóm ngày càng lớn vào tay các tập đoàn
độc quyền. Đứng đầu các tập đoàn độc quyền ấy là các trùm tài phiệt.
Hơn thế nữa là việc giới tư bản tài chính, mua chuộc lũng đoạn nhà
nước, trong việc nắm độc quyền khai thác cơ sở hạ tầng , điều phối quy
hoạch, đầu cơ nâng giá đất đai, thu những khoản lợi khổng lồ. Tuy nhiên
hoạt động mang lại lợi nhuận lớn hơn hết là độc quyền phát hành chứng
khoán công nghiệp, làm trung gian phát hành công trái cho nước ngoài vay,
đã biến tư bản tài chính thành những kẻ thực lợi, tách khỏi quá trình sản
xuất đứng ngoài sản xuất ăn bám xã hội trên phạm vi quốc tế . Lê-nin
kết luận “Chủ nghóa đế quốc hay sự thống trò của tư bản tài chính là giai
đoạn tột cùng của CNTB, khi mà sự tách rời ấy đạt tới một quy mô rất
lớn . Ưu thế của tư bản tài chính đối với tất cả các hình thức khác của tư
bản, có nghóa là bọn thực lợi và bọn đầu sỏ tài chính giữ đòa vò thống trò,
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 6 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
có nghóa là một số ít quốc gia có sức mạnh tài chính tách khỏi tất cả
các quốc gia khác” ( Trang 100)
Sự thống trò và lộng hành của tư bản tài chính, không chỉ ở kinh tế
mà thâm nhập vào mọi lónh vực của đời sống xã hội. Vì thế thời đại tư
bản độc quyền chính là thời đại thống trò của tư bản tài chính “Bọn đầu
sỏ tài chính hoàn toàn thống trò, chúng thống trò cả báo chí và cả chính
phủ” ( Trang 92)
IV - Xuất khẩu tư bản
Gắn với tư bản tài chính là xuất khẩu tư bản - đem tư bản ra nước
ngoài đầu tư nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao “điển hình của CNTB mới
nhất, trong đó các tổ chức độc quyền thống trò là việc xuất khẩu tư bản”.
( Trang 103) Xuất khẩu tư bản ra nước ngoài bắt đầu vào cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX , là một tất yếu kinh tế nảy sinh khi các tập đoàn tư bản
độc quyền đã hoàn thành việc kiểm soát nền kinh tế , nẩy sinh hiện tượng
tư bản thừa tương đối, đòi hỏi nơi đầu tư có lợi nhất. Một mặt khác, thời
kì này toàn thế giới đang bò cuốn hút vào quỹ đạo phát triển tư bản chủ
nghóa do thương mại quốc te, giao thông vận tải phát triển.
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu, với
những nước có nhiều thuộc đòa “ là hình thức xuất khẩu tư bản trực tiếp
thu lợi nhuận từ thò trường, nguyên vật liệu, công nhân rẻ mạt…Còn với
các nước khác là thu lợi từ xuất khẩu tư bản cho vay dưới mọi hình thức
và luôn đi kèm với những hợp đồng cho vay và những điều kiện nào đó”
“Một khoản nhượng bộ trong hiệp ước thương mại, một trạm cung cấp than
đá , việc xây dựng hải cảng , một tô nhượng béo bở hay một món đặt
mua đại bác ( Trang 109) ,và hơn thế nữa là những điều kiện chính trò. Xuất
khẩu tư bản làm cho “TBCN phát triển rộng và sâu thêm trên toàn thế
giới ( Trang 108), nó kích thích xuất khẩu hàng hoá mở rộng phân công lao
động phát triển thò trường…mang lại quyền lực kiểm soát thế giới, cho các
tập đoàn tư bản độc quyền , như vậy “ có thể nói rằng tư bản tài chính
bủa lưới của mình lên đầu tất cả các nước trên thế giới” ( Trang 111) hay
“ nói theo nghóa bóng thì các nước xuất khẩu tư bản đã chia nhau thế giới” (
Trang 112) Đầu thế kỷ XX việc phân chia thế giới giữa các tập đoàn tư
bản độc quyền đã hoàn thành, thế giới chia thành một bên là những
nứơc chủ đầu tư, chủ nợ, những nước thực lợi còn một bên là những
nước con nợ, do đó xuất khẩu tư bản là phương thức phát triển của độc
quyền. Tư bản độc quyền bóc lột toàn thế giới.
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 7 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
V-Việc phân chia thế giới giữa các liên minh của bọn
tư bản
Cùng với quá trình hình thành liên minh độc quyền trong từng quốc
gia là sự hình thành các liên minh độc quyền quốc tế do sự phát triển
đồng thời của thò trường TBCN ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Liên
minh độc quyền quốc tế là “sự thoả thuận quốc tế, hình thành Cac-ten
quốc tế” ( Trang 114)
Cac-ten quốc tế phản ánh mức độ mới của tập trung tư bản và tập
trung sản xuất với quy mô quốc tế . Điển hình là ngành công nghiệp điện,
ngành tiêu biểu cho kỹ thuật tiên tiến nhất của CNTB cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, ngành này do hai công ty điện khí của Đức và Mỹ khống
chế toàn thế giới. Ở Đức khởi đầu năm 1900 ngành điện có 8 tập đoàn
gồm 27 công ty điện, mỗi tập đoàn có 2 đến 11 ngân hàng làm hậu
thuẫn, đến 1907 tất cả các tập đoàn đó hợp nhất lại thành tổng công ty
điện khí Đức (AEG ). Ở Mỹ quá trình diễn ra tương tự , tất cả các công ty
được tập trung lại hình thành tổng công ty điện khí Mỹ ( GEC) . Hai công ty
khổng lồ cạnh tranh, chiếm hữu ngành điện thế giới. Lê-nin dẫn lời một
tác giả tư sản lúc bấy giờ mô tả “ Trên trái đất này không có một
công ty điện nào khác lại hoàn toàn độc lập với hai công ty ấy” ( B 115,
117) Với quy mô to lớn việc cạnh tranh giữa hai công ty chỉ có thể đi đến
kết quả là sự thỏa hiệp phân chia quyền “ cai quản” ngành điện thế giới.
Năm 1907 hai công ty đã ký kết hiệp đònh phân chia ngành điện thế giới,
tổng công ty điện khí Đức được các nước Đức, o, Đan Mạch, Nga, Hà
Lan, Thụy Só, Thổ Nhó Kỳ…Tổng công ty điện khí Mỹ được Mỹ và Canada
và cạnh tranh chấm dứt. Sự phân chia thế giới như vậy được gọi chung là
sự phân chia thế giới về kinh tế , nó diễn ra ở tất cả các ngành công
nghiệp và không loại trừ những thay đổi và dẫn đến đấu tranh phân chia
lại. Chẳng hạn trong ngành dầu hỏa giữa một bên là Tơ – rốt dầu lửa của
Mỹ của Roc-co-phen-lo và một bên là Tơ – rốt dầu lửa Nga của Rot- Sin –
do và No- benV. Cuộc đấu tranh phân chia thế giới về khai thác và phân
phối dầu lửa lôi kéo không chỉ những ngành có liên quan , nhu ngân
hàng , điện học mà cả bộ máy của nhà nước, nó cho thấy quy mô cạnh
tranh và đối đầu , không còn thuần túy là tư bản độc quyền mà đã trở
thành cạnh tranh giữa các cường quốc tư bản độc quyền. Những cuộc đấu
tranh như thế thường kết thúc bằng hiệp đònh phân chia, phản ánh tương quan
lực lượng của các tổ chức độc quyền và khi tương quan đó thay đổi, hiệp
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 8 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
đònh liên minh độc quyền quốc tế bò phá vỡ, lại tiếp tục cuộc đấu tranh
phân chia mới. Trong cuộc đấu tranh này một trong những nước tư bản độc
quyền hàng đầu bấy giờ là Đức đã tham dự gần 100 Cac –ten quốc tế “
Thời đại CNTB hiện đại chỉ cho ta rằng, giữa các liên minh của bọn tư bản,
những quan hệ nhất đònh đã được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới
về kinh tế ( Trang 127 – 128 )
VI -Việc phân chia thế giới giữa các cường quốc lớn
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng
sự phân chia thế giới về lãnh thổ. “ Chỉ có việc chiếm được thuộc đòa
mới hoàn toàn đảm bảo cho các tổ chức độc quyền đối phó có hiệu
quả với mọi trường hợp bất trắc , trong cuộc đấu tranh với đối thủ của
mình” ( Trang 140)
Các cường đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc đòa, bởi thuộc đòa là nơi
đảm bảo nguồn nguyên liệu và thò trường thường xuyên , là nơi an toàn
trong cạnh tranh và đảm bảo thực hiện tốt những mục đích về kinh tế , chính
trò và quân sự , chính vì vậy “CNTB phát triển càng cao, nguyên liệu càng
thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìn kiếm các nguồn nguyên
liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc đòa
càng quyết liệt hơn” ( Trang 140 –141) Và chỉ trên thò trường thuộc đòa, các
tổ chức độc quyền mới dễ dàng loại trừ những kẻ cạnh tranh bằng những
thủ đoạn độc quyền, mới dễ dàng nắm được nơi cung cấp hàng hóa.
Ngoài ra xâm chiếm thuộc đòa còn là biện pháp tối ưu giải tỏa những “
bực tức, căm hờn” từ mâu thuẫn giai cấp ở các nước tư bản độc quyền
Thời kì 1884 đến 1900 là thời kì mãnh liệt nhất của các cường quốc
tư bản. Trong xâm chiếm thuộc đòa, và đấu tranh giữa các cường quốc trong
giành giật thuộc đòa. Nó phản ánh sự phân chia thế giới giữa các cường
quốc tư bản. Nó biến CNTB độc quyền thành chủ nghóa đế quốc , nó biến
thế giới thành những nước xâm chiếm thuộc đòa và những nước thuộc đòa
và phụ thuộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các cường quốc tư bản đã
phân chia xong lãnh thổ thế giới.
Thuộc đòa của các cường quốc lớn đến : 1914
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 9 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
( Tính theo triệu km
2
và triệu người )
NƯƠ
ÙC
Thuộc đòa
triệu km
2
triêu
người
Chính quốc
triệu km
2
triệu
người
Tổng cộng
triệu kmv
2
triệu
người
ANH
NGA
PHÁ
P
ĐỨC
MỸ
NHA
ÄT
33,5 393,5
17,4 33,2
10,6 55,5
2,9 12,3
0,3 9,7
0,3 19,2
0,3 46,5
5,4 136,2
0.5 39,6
0.5 64,9
9,4 97,0
0,4 53,0
33,8 440,0
22,8 169,4
11,1 95,1
3,4 77,2
9,7 106,7
0,7 72,2
TỔN
G
65,0 523,4 16,5 437,2 81,5 960,6
Thuộc đòa của các cường quốc khác :(Bỉ , Hà lan…) …………… 9,9…………… 45,3
Nửa thuộc đòa:(Ba tư ,Trung quốc , Thổ nhó kỳ … )……………14,5………… 361,2
Các nước khác : ………………………………………………… 28,0 ………… 289,9
Toàn bộ trái đất : ……………………………………………… 133,9 ………… 1657,0
( trang 137 )
Bảng trên cho thấy kết quả của sự phân chia lãnh thổ từ sự phát
triển không đều là tư bản Anh chiếm được nhiều thuộc đòa nhất sau đó đến
Nga và Pháp. Số dân thuộc đòa của Anh chiếm nhiều hơn 12 lần số dân
thuộc đòa của Nga và bằng 7 lần của Pháp, số dân thuộc đòa của Pháp lại
nhiều hơn số dân thuộc đòa của ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại. Sự phân
chia lãnh thổ từ sự phát triển không đều của CNTB tất yếu dẫn đến cuộc
đấu tranh để phân chia lại đất đai thế giới đã chia xong, dẫn đến chiến tranh
thế giới.
VII -Chủ nghóa đế quốc giai đoạn đặc biệt của CNTB
Phần này Lê- nin khái quát những quan điểm của ông về CNTB độc
quyền .Như trên đã xác đònh CNTB độc quyền và đặc điểm kinh tế cơ bản
của nó là độc quyền thay thế cho cạnh tranh tự do, các tổ chức độc quyền
mà trên hết là các tư bản tài chính, thống trò xã hội từ kinh tế đến chính
trò, rồi mở rộng sự thống trò ra toàn thế giới qua xuất khẩu tư bản , cạnh
tranh giữa các cường quốc tư bản độc quyền trong xuất khẩu tư bản ra
nứơc ngoài dẫn tới sự phân chia thế giới về kinh tế và lãnh thổ. Do sự
phát triển không đều, tương quan lực lượng biến đổi, các cường quốc tư
bản độc quyền đấu tranh quyết liệt với nhau , phân chia lại thế giới đã chia
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 10 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
xong, vì vậy chiến tranh thế giới là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
CNTB độc quyền.
Gắn với xâm lược thế giới về kinh tế và lãnh thổ CNTB là chủ
nghóa thực dân đế quốc; chủ nghóa đế quốc là giai đoạn phát triển cao của
CNTB , mà trong đó “ những đặc tính cơ bản của CNTB đã bắt đầu biến
thành điều trái ngược với những đặc tính đó” ( Trang 150) Theo Lê- nin;
cạnh tranh tự do là đặc tính cơ bản của CNTB, của nền sản xuất hàng hóa
nói chung, độc quyền là cái trực tiếp trái ngược với cạnh tranh tự do .
Cạnh tranh tự do chuyển hóa thành độc quyền cũng đồng thời là tao ra
nền sản xuất lớn, loại bỏ sản xuất nhỏ, thay thế sản xuất lớn bằng sản
xuất lớn hơn, đưa đến tập trung sản xuất và tập trung tư bản, hình thành các
tổ chức độc quyền. Sự dung hợp giữa độc quyền công nghiệp và độc
quyền ngân hàng hình thành tư bản tài chính. Bằng chế độ tham dự tư bản
tài chính lộng hành, thao túng kinh tế xã hội và chính trò ở các nước tư
bản. Độc quyền thay thế cạnh tranh tự do nhưng không thủ tiêu cạnh tranh tự
do. Độc quyền tồn tại bên trên cạnh tranh tự do , cùng với cạnh tranh tự do,
do đó mà “ gây ra một số mâu thuẫn, va chạm và xung khắc đặc biệt gay
gắt và kòch kiệt. Độc quyền là bước quá độ từ CNTB lên một chế độ
cao hơn ( Trang 151) Làm rõ hơn về chủ nghóa đế quốc, Lê nin khái quát 5
đặc điểm kinh tế của nó:
1 – Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới một mức độ phát triển cao, tạo
ra những tổ chức độc quyền, có vai trò quyết đònh trong đời sống kinh tế .
2 – Sự hợp nhất tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp và trên cơ sở “
tư bản tài chính đó” xuất hiện bọn đầu sỏ tài chính.
3 – Việc xuất khẩu tư bản có một ý nghóa quan trọng đặc biệt .
4 – Sự hình thành những liên minh độc quyền quốc tế của bọn tư bản chia
nhau thế giới .
5 – Việc các cường quốc tư bản lớn nhất chia xong đất đai thế giới.
Qua đây Lê - nin rút ra vai trò lòch sử của chủ nghóa đế quốc là “giai đoạn
phát triển đặc biệt của CNTB” Tính chất đặc biệt của chủ nghóa đế quốc
ở chỗ trong bản thân nó có sự xung đột, đã “đặc biệt gay gắt”.
Thông qua việc phê phán quan điểm về chủ nghóa đế quốc của Cau -
xky, Lê - nin đã đưa ra nhiều luận chứng, nhiều số liệu, từ chính các tác
giả tư sản để chứng minh rằng với sự phát triển của độc quyền, sự bành
trướng của chủ nghóa thực dân xâm lược đã mang lại sự tập trung sản xuất,
tập trung tư bản ngày càng lớn vào tay một số đế quốc. Nhờ đó, những
nước này có quyền vơ vét, bóc lột toàn thế giới . Thời đại tư bản độc
quyền đã sinh ra những nước chủ nợ và những nước con nợ, phải phục
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 11 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
tùng chủ nợ về mọi phương diện. Sự phát triển không đều, trong quá trình
tranh giành, xâm chiếm thuộc đòa bóc lột thế giới, đã đẩy mâu thuẫn
giữa các cường quốc tư bản độc quyền tới cực điểm mà ngoài chiến tranh
ra, còn phương sách nào khác để khắc phục tình trạng không cân đối giữ
một bên là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tích lũy tư bản và
một bên là sự phân chia thuộc đòa và các khu vực ảnh hưởng cho tư bản
tài chính được chăng ? Lê-nin khẳng đònh như vậy và chiến tranh là điều tất
yếu gắn với chủ nghóa đế quốc như thực tế đã diễn ra
VIII -Tính ăn bám và thối nát của CNTB
Cơ sở kinh tế của chủ nghóa đế quốc là độc quyền kinh tế , từ mục
đích kinh tế của nó sinh ra xu hướng kìm hãm tiếøn bộ kỹ thua . Tổ chức
độc quyền không cầøn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vẫn thu được lợi nhuận
độc quyền cao, vì thế người ta “mua các bằng phát minh nhét vào ngăn
kéo”. Tuy vậy trong thời kì này vẫn tồn tại một xu hướng ngược lại là khả
năng giảm bớt chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận do việc áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, những xu hướng kìm hãm vẫn tác động trong từng lúc, từng
ngành trong một số nứơc nào đó và có thể chiếm ưu thế trong những thời
gian nhất đònh.
Chủ nghóa đế quốc gắn với tư bản tài chính, sự phát triển của tầng
lớp tư bản này tạo ra những người hoàn toàn tách khỏi sản xuất xã hội “
nghóa là những kẻ hoàn toàn không tham gia một doanh nghiệp nào cả,
những kẻ chuyên nghề ăn không ngồi rồi” Bằng chế độ tham dự, chi phối
sản xuất, xã hội qua độc quyền tài chính, giới tư bản tài chính bây giờ
chỉ đơn thuần tham dự vốn thu lợi nhuận, toàn bộ việc điều hành sản xuất
kinh doanh chuyển sang một tầng lớp làm thuê mới, những nhà quản trò
doanh nghiệp. Tư bản tài chính trở thành những kẻ hoàn toàn ăn bám xã
hội.
Xuất khẩu tư bản một trong những cơ sở kinh tế căn bản nhất của
chủ nghóa đế quốc, làm gia tăng sự tách rời của tầng lớp những kẻ thực
lợi đối với sản xuất qua việc bành trướng tính chất ăn bám này lên tầm
quốc gia. Hình thành những quốc gia thực lợi, giàu có nhờ ăn bám, bóc
lột hệ thống thuộc đòa. Ở nước Anh, nước điển hình có nền ngoại thương
và thương mại thuộc đòa nổi tiếng thời bấy giờ, nhưng thu nhập từ ngành
này không thể so sánh được với thu nhập từ thực lợi “ Số thu nhập của
những người thực lợi lớn hơn gấp 5 lần số thu nhập do ngoại thương mang la,
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 12 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
trong một nước thương mại phát triển nhất thế giới. Đó là thực chất của
chủ nghóa đế quốc và của tính ắn bám của nó. ( Trang 173 )
Tính ăn bám thối nát của chủ nghóa đế quốc, không chỉ ở việc hình
thành các nước thực lợi, ăn bám vào các nước thuộc đòa và phụ thuộc.
Tạo thành hai cực những nước chủ nợ và con nợ, mà còn ở việc lập ra
quân đội thuộc đòa, dùng quân đội thuộc đòa xâm chiếm thuộc đòa, dùng
người thuộc đòa bắn giết người thuộc đòa. Sử dụng bộ máy thống trò của
nứơc thuộc đòa thống trò và khai thác thuộc đòa làm giàu cho giai cấp cầm
quyền ở các nước tư bản độc quyền.
Bóc lột và áp bức giai cấp của tư bản độc quyền, không loại trừ
chính các nứơc tư bản và vì thế mua chuộc giai cấp vô sản, xoa dòu mâu
thuẫn tại chính quốc, là một phương sách để duy trì quyền thống trò từ bên
trong. Nó tạo ra sự khác biệt nào đó giữa giai cấp vô sản ở chính quốc
và thuộc đòa, ở nước này so với nước khác, tạo ra sự di chuyển lao động
từ nước này sang nứơc khác nhằm phân hóa, chia rẽ giai cấp công công
nhân. Kết quả đạt được là sự phân hóa ngày càng sâu sắc trong phong
trào công nhân. Tầng lớp công nhân được ưu đãi dần dần trở thành
những kẻ cơ hội sẵn sàng chống lại giai cấp, đứng ra bảo vệ quyền lợi cho
giai cấp tư bản độc quyền. Vì vậy phân hóa, mua chuộc giai cấp của tư bản
độc quyền tạo ra chủ nghóa cơ hội đủ mọi màu sắc, chống laiï phong trào
công nhân quốc tế, là một đặc trưng của ăn bám và thối nát.
IX- Phê phán chủ nghóa đế quốc
Thông qua phân tích những luận điểm tư sản, luận điểm cơ hội chủ
nghóa, trong nhận đònh về chủ nghóa đế quốc, Lê - nin đã làm rõ quan điểm
của chủ nghóa Mác trong phê phán chủ nghóa đế quốc, ông khẳng đònh:
Cạnh tranh tự do TBCN dẫn đến độc quyền tới sự thống trò của tư bản
tài chính và xuất khẩu tư bản, từ đây phân chia thế giới về kinh tế và
lãnh thổ là điều tất yếu. Chiến tranh xâm lược thuộc đòa, chiến tranh thế
giới là điều không thể tránh khỏi trong sự phát triển của CNTB ở giai
đoạn độc quyền, chủ nghóa tư bản độc quyền vì thế là chủ nghóa đế quốc.
Chủ nghóa đế quốc có vai trò to lớn trong thúc đẩy, tập trung sản
xuất, tập trung tư bản, không chỉ quy mô quốc gia mà cả quy mô quốc tế ,
nó làm cho sản xuất ngày càng xã hội hóa, tuy nhiên một mặt khác, nó
làm cho mâu thuẫn vốn có và khủng hoảng của CNTB ngày càng trở
nên gay gắt. Bởi mức độ tập trung sản xuất ngày càng lớn, không còn
chứa đựng nổi trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghóa, với sở hữu tư
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân
- 13 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
nhân tư bản chủ nghóa ngày càng thu hẹp, vào một nhóm nhỏ tư bản tài
chính, Chủ nghóa đế quốc dẫn tới mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không
chỉ ở các nước thuộc đòa và phụ thuộc mà ngay tại các nước tư bản độc
quyền. Thêm vào đó là tình trạng căng thẳng tột độ giữa các cường quốc
tư bản, trong cạnh tranh xâm chiếm thuộc đòa, và mưu đồ chia lại đất đai thế
giới đã chia xong.
Những luận điểm trên là sự phê phán trung thực, vạch ra những mâu
thuẫn nội tại của chủ nghóa đế quốc , là cơ sở để hoạch đònh đường lối
đấu tranh cách mạng trong phong trào công nhân, chống lại giai cấp tư sản,
chống lại các xu hướng cải lương, cơ hội trong phong trào công nhân.
X- Vò trí của chủ nghóa đế quốc trong lòch sử
Phần này Lê-nin hệ thống hóa toàn bộ sự phân tích của mình về
chủ nghóa đế quốc xuất phát từ cạnh tranh tự do đến tập trung sản xuất
cao, hình thành độc quyền đến xuất hiện của tư bản tài chính. Kiểm soát
toàn bộ nền kinh tế , chi phối chính trò xã hội. Xuất khẩu tư bản ra nước
ngoài, rồi xâm chiếm thò trường, phân chia thế giới về kinh tế và lãnh
thổ hình thành hệ thống thuộc đòa của CNTB, tạo ra thế giới với một bên
là chủ nghóa thực dân- nước chủ nợ, và một bên là những thuộc đòa-
nước con nợ. Vì thế chủ nghóa tư bản độc quyền là chủ nghóa đế quốc,
chủ nghóa đế quốc là giai đoạn phát triển đặc biệt của CNTB, giai đoạn
quá độ sang một xã hội mới. Luận chứng vấn đề này ông muốn khẳng
đònh vai trò lòch sử của CNTB khi bản thân nó đã trở thành vật cản trong
tiến trình vận động phát triển của xã hội loài người. Ông nêu tính chất
ăn bám và thối nát của chủ nghóa đế quốc thể hiện ở xu hướng kìm
hãm tiến bộ kỹ thuật; Ở sự gia tăng nhanh chóng tầng lớp thực lợi và
các quốc gia thực lợi, tách rời sản xuất ăn bám vào hệ thống thuộc đòa
và phụ thuộc; Ở chính sách mua chuộc tầng lớp cơ hội trong phong trào
công nhân , chống lại giai cấp công nhân xây dựng quân đội thuộc đòa,
làm chiến tranh xâm chiếm thuộc đòa; Ở tính chất căng thẳng tột độ trong
cạnh tranh giữa các nước tư bản độc quyền đấu tranh phân chia lãnh thổ
thế giới. Ông viết : phải coi chủ nghóa đế quốc là chủ nghóa tư bản quá
độ, hay nói đúng hơn chủ nghóa tư bản đang hấp hối. ( Trang 219 )