Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tổng quan về Báo cáo tài chính docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.14 KB, 9 trang )

Tổng quan về Báo cáo tài chính

Lý do đơn giản và dễ thấy nhất là để biết trạng thái tài chính của một tổ chức (lợi
nhuận, phi lợi nhuận) nhằm đưa ra các quyết định phù hợp. Ví dụ, bạn định mua
một ngôi nhà chẳng hạn, bạn cần biết bạn hiện đang có bao nhiêu tiền (đã tiết kiệm
đủ bao nhiêu tiền) để mua ngôi nhà đó, thiếu bao nhiêu, phải đi vay bao nhiêu.
Bạn chỉ biết được trạng thái tài chính của bạn, nếu như bạn có một bản tổng hợp
về tình hình tài chính của bạn, tại thời điểm bạn định mua nhà, bản tổng hợp đó
được gọi là báo cáo tài chính
I. Tổng quan về báo cáo tài chính:
I.1. Tại sao cần báo cáo tài chính:
Lý do đơn giản và dễ thấy nhất là để biết trạng thái tài chính của một tổ chức (lợi
nhuận, phi lợi nhuận) nhằm đưa ra các quyết định phù hợp. Ví dụ, bạn định mua
một ngôi nhà chẳng hạn, bạn cần biết bạn hiện đang có bao nhiêu tiền (đã tiết kiệm
đủ bao nhiêu tiền) để mua ngôi nhà đó, thiếu bao nhiêu, phải đi vay bao nhiêu.
Bạn chỉ biết được trạng thái tài chính của bạn, nếu như bạn có một bản tổng hợp
về tình hình tài chính của bạn, tại thời điểm bạn định mua nhà, bản tổng hợp đó
được gọi là báo cáo tài chính. Lý do khác, chỉ thấy một cách gián tiếp là báo cáo
tài chính cho ta biết tình hình hoạt động của tổ chức (ở đây ta quy ước tổ chức là
các đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và phi lợi nhuận), thông qua đó, góp
phần đánh giá năng lực của (a) bộ máy lãnh đạo tổ chức đó, (b) các hoạt động của
tổ chức đó. Ví dụ như báo cáo tài chính của công ty Toyota năm nay cho thấy một
số lãi là 10 tỷ đô, vậy (a) công ty Toyota- như một tập thể hoạt động rất tốt, trơn
tru, từ khâu sản xuất, bán hàng, v.v., và (b) công ty Toyota có một bộ máy lãnh
đạo rất giỏi, có khả năng lãnh đạo công ty tạo ra lợi nhuận lớn, làm giàu cho cổ
đông. Dĩ nhiên, chỉ mình báo cáo tài chính không thôi thì không đủ đánh giá khả
năng lãnh đạo của Ban giám đốc Công ty, vì rằng tiêu thức tài chính chỉ là một
trong số rất nhiều tiêu thức để đánh giá năng lực của Ban lãnh đạo Công ty. Cũng
giống như khi bạn (gái) chọn người yêu chẳng hạn, nếu một gã nào đó nói với bạn
là gã là “triệu phú tiền đô” chẳng hạn thì bạn cũng vẫn phải cẩn thận, cho dù gã
thật sự có nhiều triệu tiền đô thì (a) tiền đó chưa chắc của gã làm ra (mà tiền của ai


đó cho gã chẳng hạn), (b) nếu tiền đó do gã làm ra thì chưa chắc đã phải được làm
ra theo một cách chính đáng (ví dụ của Tổng Giám đốc PMU18 minh họa rất rõ
điều này).Một lý do chủ yếu khác nữa là báo cáo tài chính là một công cụ để thực
hiện công tác quản trị doanh nghiệp (corporate governance). Phần này sẽ được
trình bày rõ ở phần Báo cáo tài chính trong công tác Quản trị Doanh nghiệp nói
chung.
I. 2. Người lập báo cáo tài chính:
Ai lập báo cáo tài chính: các bạn kế toán sẽ nói, là kế toán tổng hợp của doanh
nghiệp. Một số các bạn kiểm toán sẽ nói, là các bạn kiểm toán lập (vì nhiều khi đi
tới doanh nghiệp, có ai lập báo cáo tài chính đâu, kiểm toán toàn phải lập hộ). Câu
trả lời của các bạn kế toán là đúng nhưng chưa đủ. Người lập báo cáo tài chính là
ban lãnh đạo công ty. Chịu trách nhiệm về việc lập báo cáo tài chính, hoặc nói sâu
hơn là chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính là Ban
lãnh đạo công ty, mà người chịu trách nhiệm cao nhất là Giám đốc (Tổng Giám
đôc), hoặc người đứng đầu bộ máy điều hành doanh nghiệp (CEO- Chief
Executive Officer). Các bạn kế toán chỉ là những con kiến bé tí teo trong bộ máy
giúp việc của quý ngài Tổng Giám đốc, mặc dù nhiều khi các bạn thấy là báo cáo
do các bạn lập hết, quý ngài chỉ có đặt bút ký mà thôi. Ở đây cần phải nói thêm là
người đứng đầu công ty còn phụ thuộc vào từng mô hình, ví dụ, nếu là mô hình
công ty cổ phần, người đứng đầu công ty không phải là tổng giám đốc (CEO) mà
là chủ tịch hội đồng quản trị (Board of Directors), trong trường hợp này, chủ tịch
hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của các
báo cáo tài chính, mặc dù ông ta không phải là người trực tiếp lập.
I. 3. Người sử dụng báo cáo tài chính
Có rât nhiều người sử dụng báo cáo tài chính. Chia theo sự liên quan của lợi ích ta
có thể chia thành hai loại chính: Cổ đông (hoặc chủ sở hữu của công ty-
Shareholders) và những người có lợi ích liên quan- Stakeholders.Cổ đông (hoặc
chủ sở hữu công ty) hơn ai hết cần biết công ty của họ hoạt động thế nào, hiệu quả
ra sao, qua đó (a) xác đinh được giá trị đầu tư của họ trong doanh nghiệp được
tăng lên như thế nào và (b) liệu thù lao trả cho ban giám đốc doanh nghiệp có

tương xứng với lợi ích mà ban giám đốc mang lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp
hay không. Ở đây ta có một giả định quan trọng là có sự phân tách giữa người chủ
công ty và ban lãnh đạo công ty. Ban lãnh đạo (ban giám đốc) công ty là người
làm thuê cho chủ công ty, nhận được thù lao, và thù lao ấy phụ thuộc vào hiệu quả
của việc lãnh đạo công ty, và hiệu quả của việc lãnh đạo công ty, đối với cổ đông,
được thể hiện chủ yếu bằng các chỉ tiêu tài chính, thể hiện trên các báo cáo tài
chính. Lưu ý là giả định về sự phân tách giưũa chủ công ty và ban lãnh đạo công
ty là rất quan trọng, nó đồng thời dẫn đến rất nhiều hệ quả khác như các quy định
trong khuôn khổ quản trị doanh nghiệp, hoặc các quy định về kiểm toán chẳng
hạn.Những bên có lợi ích liên quan có rất nhiều, ví dụ chủ nợ, ngân hàng, con nợ,
khách hàng (khách hàng hiện tại hoặc tiềm năng), nhà đầu tư (hiện tại và tiềm
năng), người làm công, cơ quan thuế, công chúng và nhiều nhiều đối tượng khác
nữa. Mỗi loại stakeholder, vì lợi ích của mình mà có nhu cầu thông tin (được thể
hiện trên báo cáo tài chính). Ví dụ chủ nợ và nhà cung cấp muốn biết là công ty có
khả năng trả nợ hay không để cho vay tiếp, hay ngừng cho vay, hay đòi luôn lập
tức những khoản thậm chí chưa đến hạn, cơ quan thuế thì muốn biết công ty lãi lời
bao nhiêu để gõ thuế, người làm công muốn biết khả năng tồn tại của công ty được
bao lâu, và thiết thực hơn, khả năng tăng lương được cho anh em là bao nhiêu để
còn hoạch định kế hoạch cá nhân. Còn công chúng thì sao, công chúng muốn biết
công ty đóng góp được gì cho xã hội, cho môi trường, ví dụ, tạo được ra bao nhiêu
công ăn việc làm, nộp được bao nhiêu thuế cho nhà nước, v.v Thậm chí đối thủ
cạnh tranh cũng muốn biết hơn ai hết sô liệu tài chính của công ty để còn xây dựng
chiến lược đối phó.Ở đây, thực ra còn một loại người sử dụng thông tin nữa, rất
quan trọng, là chính bản thân ban lãnh đạo công ty, những người phụ trách việc
báo cáo các thông tin đó. Lãnh đạo doanh nghiệp cần biết thông tin (a) để có quyết
định lãnh đạo điều hành phù hợp, (b) để xem hình ảnh của mình được thể hiện về
mặt tài chính như thế nào trong cách nhìn nhận của những người sử dụng thông
tin. Ở đây cần nói ngay rằng nhu cầu thông tin của ban lãnh đạo doanh nghiệp đối
với các báo cáo quản trị (báo cáo kế toán quản trị) là lớn hơn nhiều, chi tiết hơn
nhiều so với nhu cầu về các thông tin trên các báo cáo tài chính.

I.4. Nguyên tắc lập các báo cáo tài chính
Còn nhớ thời học kế toán đại cương, khi yêu cầu đối với kế toán là phải cung cấp
thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ. Tuy nhiên, yêu cầu đối với báo cáo tài chính
có lẽ hơi khác so với yếu cầu đối với kế toán, nghĩa là theo VAS 21 (Tên của
VAS)__ thì Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu sau:
1. Báo cáo tài chính phải trình bày một cách trung thực và hợp lý tình hình tài
chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh và các luồng tiền của doanh
nghiệp.
2. Các báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn
mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên quan hiện hành.Các yêu cầu
nêu trên được trích từ VAS 21- Trình bày báo cáo tài chính, ở đây có một số phân
tích sau:
Thứ nhất: thế nào là trung thực và hợp lý: VAS 21 chỉ nói rằng là báo cáo tài
chính cần trình bày một cách trung thưc và hợp lý, và chỉ ra rằng muốn trình bày
trung thực và hợp lý thì phải tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam
mà không đưa ra định nghĩa thế nào là trung thực và hợp lý. IAS1 (bản sửa đổi)
nói rõ hơn một chút là trình bày trung thực và hợp lý là thể hiện một cách trung
thực (faithful representation) các nghiệp vụ, sự kiện tuân thủ các định nghĩa và
điều kiện ghi nhận trong khuôn khổ của các chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế,
và cũng giống như VAS, không đưa ra định nghĩa thế nào là trung thực và hợp lý
(true and fair). Vậy thì thế nào là trung thực và hợp lý?Trung thực là không phải…
không trung thực (nghe có vẻ buồn cười) nhưng đúng là như vậy, nghĩa là trung
thực là phản ánh đúng bản chất các giao dịch, sự kiện và nghiệp vụ (chứ không
phải là phản ánh sai), và hợp lý ở đây là phản ánh một cách công bằng, khách
quan, không có thành kiến, định kiến, thiên vị. Thực ra không có định nghĩa chặt
chẽ thế nào là trung thực và hợp lý, vì thế, khi người ta nói trung thực và hợp lý,
nghĩa là người ta nói phải tuân thủ với các chuẩn mực và chế độ, vì chuẩn mực và
chế độ là để nhằm có các trình bày… một cách trung thực và hợp lý! Hoặc chúng
ta có thể hiểu một cách khác, tức là trung thực và hợp lý là không có các sai khác
một cách trọng yếu. Và ở đây, may mắn thay, chúng ta có định nghĩa về tính trọng

yếu. Một khoản mục được coi là trọng yếu nếu việc thêm vào, hoặc bớt đi khoản
mục đó, sẽ dẫn tới một sự hiểu khác đối với chủ thể được báo cáo. Lấy ví dụ nôm
na thế này, giả sử tôi có một phát biểu rất trung thực và hợp lý là chị Nguyễn Tú
Anh rất xinh đẹp. Nghĩa là phát biểu của tôi phải không sai, nghĩa là đúng chị ấy
xinh đẹp (theo như các thông lệ được thừa nhận rộng rãi, tức là cao 1m70, kích
thước 3 vòng là 90- 60 – 90, là có da trắng như tuyết, môi đỏ như son, tóc đen như
gỗ mun chẳng hạn) và người được phát biểu (là tôi) không có định kiến gì với chị
Tú Anh (nghĩa là tôi không yêu cũng không ghét gì chị ta cả). Đấy là cách hiểu thứ
nhất. Cách hiểu thứ hai là không có các sai khác trọng yếu so với các thông lệ. Giả
sử thế này, có một sai khác là chị Tú Anh nặng những 90 kg, giả sử không có
thông tin này, mọi người sẽ hình dung là chị Tú Anh là người xinh đẹp, mảnh mai,
nhưng có thông tin này mọi người có thể sẽ không nghĩ như vậy nữa. Vậy là thông
tin chị Tú Anh nặng những 90 kg là thông tin mang tính trọng yếu. Nếu như trong
phát biểu của tôi mà tôi nói chị Tú Anh xinh đẹp mà tôi không hề đả động tới các
sai khác mang tính trọng yếu như trên thì phát biểu của tôi là không trung thực và
hợp lý. Lủng củng thế đây, hy vọng là chị Tú Anh không dung quyền của SMOD
để xóa đoạn này đi nhé!.
Thứ hai, tại sao lại là trung thực và hợp lý chứ không phải là chính xác, đầy đủ:
Phải là trung thực và hợp lý chứ không phải là chính xác và đầy đủ vì xin thưa
rằng kế toán không thể nào trình bày chính xác 100% các số liệu được. Mới nghe
thì có vẻ hơi lạ, nhưng thực tế là như vậy. Lấy ví dụ đơn giản thế này, cuối năm
bạn phải trích trước chi phí điện, nước cho tháng 12 mặc dù bạn chưa nhận được
hóa đơn của tháng 12, bạn sẽ trích trước bao nhiêu? Giả sử bạn trích trước là 10
triệu, nhưng hóa đơn thực sự là 10 triệu không trăm nghìn năm trăm đồng, bạn
cũng là không phản ánh chính xác nghiệp vụ này rồi. Có rất nhiều ví dụ đại loại
như vậy, mà ví dụ lớn nhất là báo cáo tài chính được soạn lập trên giả định doanh
nghiệp hoạt động liên tục, bạn có thể chắc chắn bao nhiêu phần trăm là doanh
nghiệp của bạn sẽ tiếp tục hoạt động sang năm (hoặc ngắn hơn, ngay ngày mai).
Bạn không thể chắc chắn 100% được, bạn cứ nhìn vào vụ sóng thần tại Indonesia,
vụ động đất ở Pakistan, bạn sẽ thấy rõ điều đó, hôm nay khách sạn đang hoạt động

tốt, đông khách, tối nay có một trận động đất dữ dội, mặt đất nứt toác ra, khách
sạn của bạn bị nuốt chửng, ngày mai bạn đến nơi làm thì thấy khách sạn đã biến
mất…giả định của bạn đã không đúng, hoặc đúng hơn, bạn đã không đúng 100%
với giả định đó, và đo đó không thể có trường hợp kế toán báo cáo chính xác và
đầy đủ được mà chỉ có trung thực và hợp lý mà thôi. Nói thêm là VAS 21 nói là
trung thực và hợp lý nhưng IAS 1 chỉ nói là fair presentation (trình bày một cách
hợp lý mà thôi). Thế nghĩa là hợp lý đã bao gồm cả trung thực rồi (chẳng lẽ có
trường hợp hợp lý một cách không trung thực- Dĩ nhiên là có “lời nói dối chân
thật- true lies” của Arnie- nhưng trong kế toán thì làm gì có cái lý nào phi logic
như vậy nhỉ).
Thứ ba là có nhất thiết cần tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các
quy đinh có liên quan trong mọi trường hợp hay không, chỗ này có điểm khác biệt
tương đối giữa VAS 21 và IAS 1.

×