Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng BIDV Đà Nẵng - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.08 KB, 9 trang )

đổi phù hợp. Ngày 20/06/1998, Chính phủ đã có văn bản số 681/CP-KTN về việc
định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN, theo đó, tiêu chí xác
định DNVVN là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao
động trung bình hàng năm dưới 200 người
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì quy mô hoạt động của các
doanh nghiệp cũng có những bước phát triển vượt bậc. Để hoàn thiện các văn bản
pháp luật về DNVVN, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
23/11/2001 quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN đã có định nghĩa:
“DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người”. Với tiêu chí xác định như trên thì tỷ trọng
DNVVN hiện nay đã tăng lên đáng kể với số lượng trên 100.000 doanh nghiệp,
chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Đa phần các DNVVN hoạt
động trong các lĩnh vực Thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến, xây dựng và
vận tải với mức đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP hằng năm.
2. Ưu thế của DNVVN
2.1. DNVVN năng động, nhạy bén và dể thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Đây là một ưu thế nổi trội của DNVVN. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý
gọn nhẹ, DNVVN dể dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu có hạn trong những
thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác, DNVVN thường có mối liện hệ trực tiếp với
thị trường và người tiêu thụ nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị
trường. Với cơ sở vật chất kỷ thuật không lớn, DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dể
dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả
nặng nề cho xã hội.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.2. DNVVN tạo lập dể dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Để thành lập một DNVVN chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt
bằng sản suất nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn, năng động,
dể quản lý, không cần nhiều vốn như vậy, các DNVVN vừa rất linh hoạt trong việc
học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác
động lên. Mặt khác, do một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập mang tính


gia đình, bè bạn nên mối khi gặp khó khăn, công nhân và chủ DN dể dàng tự hạ
thấp tiền lương, có tinh thần nỗ lực vượt bậc để vượt qua khó khăn. Điều đó làm
cho DNVVN giảm được chi phí cố định, tận dụng lao động để thay thế vốn bằng
tiền
2.3. DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh, hạn chế độc quyền.
Khác với các DN lớn, cần thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của Chính phủ,
sự độc quyền, các DNVVN nhỏ với số lượng đông đảo, thường không có tình
trạng độc quyền. Các DNVVN dể dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So
với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có tình tự chủ cao hơn. Các DNVVN không
ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và vì mưu lợi, DNVVN sẵn sàng khai thác các
cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều đó làm cho nền kinh tế thật sự
sống động và thúc đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng của đất nước. Đây là một
ưu thế quan trọng đối với các DNVVN hiện nay.
2.4. DNVVN có thể phát huy được tiềm lực của từng địa phương.
Thành công của DNVVN là nắm bắt được những điều kiện cụ thể của đất nước về
tài nguyên, lao động. Trong các DN lớn, việc sử dụng nguyên liệu sẵn có tại đia
phương thường gặp khó khăn do trữ lượng thấp, không đảm bảo cho sản xuất lớn.
Ngược lại, các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động tại địa phương
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương, phát huy hết tiềm
lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
2.5. DNVVN góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trên
một quốc gia.
Với sự tạo lập dể dàng, các DNVVN có thể phát triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ
và tạo ra những sản phẩm phong phú và đa dạng, đồng thời tạo ra sự phát triển cân
bằng giữa các vùng trong nước. Đặc biệt các DNVVN có thể hiện diện ở khắp mọi
miền đất nước, kể cả vùng nông thôn và miền núi, những nơi thưa dân, có cơ cấu
kinh tế chưa phát triển và nhờ đó, chúng cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho dân cư
địa phương và những vùng phụ cận.
Thông thường, DNVVN cung ứng sản phẩm tại chỗ với 95% sản phẩm tiêu thụ nội

địa mà chủ yếu là tiêu thụ trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành cho xuất khẩu.
Như vậy, các DNVVN vừa thực sự góp phần đắc lực cho sự tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
3. Hạn chế của DNVVN
Bên cạnh những ưu thế kể trên, các DNVVN hiện nay cũng còn tồn tại những hạn
chế vốn có của nó. Những hạn chế chủ yếu của DNVVN bao gồm:
3.1. Khả năng tài chính của DNVVN hạn chế.
Với ưu thế tạo lập dể dàng do chỉ cần một lượng vốn ít, các Doanh nghiệp vừa và
nhỏ gặp phải hạn chế là năng lực tài chính thấp, từ đó dẫn đến một loạt bất lợi cho
DNVVN trong sản xuất kinh doanh.
Trước hết, vốn chủ sở hữu ít nên khả năng vay vốn vủa DNVVN rất hạn chế. Các
DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp cho khoản tiền dự định vay. Tiếp đến, do khả
năng tài chính hạn chế, quy mô kinh doanh không lớn, cũng rất khó khăn và ít có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khả năng huy động được vốn trên thị trường. Chính vì thế, các DNVVN luôn ở
trong tình trạng thiếu vốn. Điều đó khiến cho khả năng thu lợi nhuận của DNVVN
bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh và có yêu cầu mở rộng sản xuất. Với
tình trạng đó, khả năng tự tích lũy của các DNVVN cũng bị hạn chế.
3.2. DNVVN thiếu thông tin, trình độ quản lý, điều hành thường bị hạn chế.
Trong thời đại ngày nay, thông tin cũng là yếu tố một đầu vào vô cùng quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ do khả năng tài chính hạn chế mà DNVVN thường khó
khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất cũng như
công nghệ quản lý tiên tiến Do đó, trình độ quản lý của đội ngũ điều hành trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bị hạn chế.
3.3. DNVVN bị bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, trang bị máy móc thiết bị và
tiêu thụ sản phẩm.
Với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, DNVVN cũng
thường không được hưởng các khoản chiết khấu hay giảm giá do mua với số lượng
ít. Trong trường hợp cần phải nhập máy móc, thiết bị của nước ngoài, DNVVN

thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà thường qua đại lý trong nước
nên giá cả bị đắt hơn. Bên cạnh đó, cũng do khả năng tài chính hạn hẹp nên
DNVVN khó có thể dành ra một khoản tiền đủ lớn để thực hiện chiến lược
marketing, và do đó khïo có khả năng vươn ra thị trường thế giới.
3.4. DNVVN ít có khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi.
Với quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, Doanh
nghiệp vừa và nhỏ khó có thể trả lương cao cho người lao động. Và cùng với sự
thiếu vững chắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, DNVVN vừa khó có khả
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
năng thu hút được những lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và
trong quản lý, điều hành.
3.5. Hoạt động của DNVVN thiếu vững chắc.
Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên khi có biến
động lớn trên thị trường, các DNVVN dể rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, trong
quá trình phát triển của mình, không ít các DNVVN còn nảy sinh một số tiêu cực
ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội như hiện tượng trốn thuế, hiện
tượng chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh
chịu, kể cả một các hành vi phạm pháp như làm dối, làm ẩu không đảm bảo chất
lượng, làm hàng giả, gây ô nhiễm môi trường
4. Vai trò và sự cần thiết tăng cường hoạt động cho vay đối với DNVVN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tuy mỗi nước khác nhau có những đặc điểm, mức độ phát triển khác
nhau; các DNVVN ở các nước cũng có những hạn chế nhất định, song một điều
không thể phủ nhận là các DNVVN trong giai đoạn hiện nay luôn có một vai trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập,
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, mở rộng ngành nghề, tăng kim ngạch xuất khẩu,
góp phần đáng kể vào tăng thu ngân sách hằng năm Chính vì vậy, sự tồn tại và
phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế các nước nói chung hay Việt Nam nói
riêng là một tất yếu khách quan và thật sự cần thiết trong quá trình phát triển của
quốc gia.

Ở nước ta, các DNVVN trong quá trình hoạt động, phát triển đã và đang chiếm giữ
vị trí đặc biệt trong một số ngành. Theo thống kê, tỷ trọng DNVVN trong lĩnh vực
khoa học cộng nghệ chiếm 94,1 %; sửa chửa ô tô, xe máy: 93%; giáo dục đào tạo:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
87,5%; công nghiệp chế biến: 86%; xây dựng: 85,7% và nhiều ngành khác chiếm
tỷ trọng cao. Hàng năm, DNVVN đóng góp khoảng 30% GDP, 30% giá trị sản
lượng (GTSL) công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển
hàng hóa, 100% tổng GTSL hàng hóa ở một số ngành như: giày dép, hàng thủ công
mỹ nghệ Về xã hội, với số lượng trên 100.000 DNVVN (trong tổng số 120.000
của cả nước); đặc biệt với trên 40.000 DNVVN ra đời sau khi có Luật Doanh
nghiệp thì trung bình mỗi DNVVN tạo việc làm cho khoảng 20 lao động, chiếm
49% lực lượng lao động cả nước. Từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp còn 5,8% năm 2002
so với tỷ lệ 7,4% năm 1999. (Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, ngày
1/3/2004)
Như vậy, vai trò trong công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội quốc gia của
các DNVVN là không thể phủ nhận. Song, hiện nay các doanh nghiệp này đang gặp
phải không ít trở ngại, khó khăn làm hạn chế sự phát triển của mình.
Đầu tiên và cũng là lớn nhất là khó khăn về vốn. Mặc dù số lượng DNVVN chiếm
tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song tổng số vốn cho sản xuất,
kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng số vốn của các doanh nghiệp. Số vốn
bình quân của một DNVVN không quá 1 tỷ đồng (Tạp chí Tài Chính Doanh nghiệp,
số 8/2003). Điều này một mặt phản ánh mức độ thu hút, tập trung vốn vào sản xuất,
kinh doanh của các DNVVN còn thấp; mặt khác phản ánh các DNVVN nhìn chung
đều gặp khó khăn, thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động của mình.
Khó khăn về công nghệ, kỷ thuật. Bên cạnh thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản
xuất, các DNVVN còn ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, trang thiết bị do
đó sản phẩm sản xuất ra thường là chất lượng thấp, rất khó cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập khu vực và thế giới.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động. Hiện nay các DNVVN

đa phần thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, hội đủ năng lực để chỉ đạo
sản xuất, kinh doanh theo chiến lược mong muốn, do vậy không đủ sức chèo lái để
doanh nghiệp hoạt động khi gặp khó khăn trong sản xuất như: biến động thị trường,
giá cả, tỷ giá, lãi suất, nợ, xuất nhập khẩu và các mối quan hệ khác.
Trình độ tay nghề của người lao động trong các DNVVN hiện rất thấp. Số lao động
có tay nghề giản đơn, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng 60-70%. Đây thực
sự là một khó khăn lớn đối với việc phát triển của các DNVVN. Ngoài ra, các
DNVVN hiện nay còn gặp phải một số khó khăn khác như: thiếu mặt bằng sản xuất,
kinh doanh ổn định, lâu dài; thiếu thông tin, các phương tiện xử lý thông tin, Đó
là chưa kể đến một số khó khăn về cơ chế như: sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh,
sự phân biệt đối xử
Thực trạng thiếu vốn kinh doanh trên buộc các DNVVN phải có được nguồn tài trợ
để vượt qua những khó khăn và phát triển. Tuy nhiên, đối với các DNVVN, đặc biệt
là các DNNQD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường phi tài
chính hay dựa vào họ hàng, bạn bè ít tiếp cận được các nguốn tín dụng chính thức
thông qua các TCTD. Tuy nhiên, việc huy động từ bạn bè mặc dù lãi suất thấp, có
thể bằng không nhưng lượng huy động lại ít, không thường xuyên, liên tục; qua các
tổ chức phi tài chính thì lãi suất rất cao (có thể 3%-6%/tháng), phải có tài sản cầm
cố, thế chấp đảm bảo nhưng cũng chỉ được vay một tỷ lệ nhỏ trên giá trị tài sản đó.
Việc huy động từ kênh Ngân hàng và các TCTD là hình thức tối ưu hơn cả với
chính sách lãi suất thỏa thuận, hợp lý, ổn định cao, khối lượng vay lớn
Như vậy, với tất cả những thực trạng, khó khăn trên đòi hỏi cần có nhiều hơn những
chính sách, cơ chế tài chính phù hợp của Nhà nước để hỗ trợ phát triển các Doanh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nghiệp vừa và nhỏ; đặc biệt là những chính sách thật sự thông thoáng về tài chính -
tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, các Tổ chức tín dụng nói riêng trong việc cấp tín
dụng cho các DNVVN để một mặt các Tổ chức tín dụng có thể đa dạng hóa lĩnh
vực, dịch vụ kinh doanh, tăng doanh số cho vay, phân tán rủi ro trong kinh doanh,
nâng cao kết quả, hiệu quả kinh doanh Mặt khác các DNVVN có cơ hội vượt lên
những hạn chế, khó khăn, có điều kiện phát huy tốt nhất những ưu thế vốn có, từ đó

khẳng định được vai trò to lớn của mình trong sự tăng trưởng phát triển chung của
nền kinh tế, góp phần vào sự thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
CHƯƠNG II:PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN ĐÀ NẴNG.
A. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG.
I. VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐT & PT ĐÀ NẴNG.
Chi nhánh NH ĐT&PT ĐN trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tỉnh
Quảng Nam Đà Nẵng cũ.
Hoạt động chủ yếu trong thời gian này là huy động vốn, cho vay trên địa bàn dân
cư, cho các tổ chức kinh tế theo kế hoạch tín dụng của NHNN Thành phố Đà Nẵng
giao cho việc hạch toán báp sổ.
Dần dần, cùng với sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước và do tình
hình thực tế là khu vực trọng điểm lớn của Nhà nước và thành phố đang xây dựng,
hình thành và phát triển.
Trước tình hình kinh tế chung của đất nước khi đó hoạt động tài chính tiền tệ gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt từ năm 1985 - 1988 do những ảnh hưởng xấu của việc bội
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chi ngân sách, với số lượng tiền mặt lưu thông lớn, lạm phát tăng nhanh. Để thích
ứng với tình hình trên, ngày 06/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ban
hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức NHNN Việt Nam và hệ thống NH Việt
Nam chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp.
NH ĐT&PT ĐN dưới sự điều tiết của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(NH ĐT&PT VN), mọi kế hoạch cân đối tín dụng của Ngân hàng đều được NH
ĐT&PT VN phê duyệt, thông báo cụ thể, NH ĐT&PT ĐN có nhiệm vụ điện báo
hàng ngày và định kỳ hoạt động kinh doanh về NH ĐT&PT VN.
Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động thường xuyên, chủ yếu là nhận tiền gửi
của khách hàng và có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng nguồn vốn đó để cho vay với
mục đích kinh doanh có lãi và giúp đỡ về vốn với các tổ chức kinh tế trên địa bàn

quận góp phần mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận nói
riêng vàThành phố Đà Nẵng nói chung. Với tổng số trên 100 cán bộ công nhân
viên, ngân hàng tổ chức các phòng ban như:phòng kế toán, phồng nguồn vốn,phòng
tín dụng, phồng thanh toán quốc tế, phòng giao dịch các bộ phận này được chuyên
môn hoá theo nghiệp vụ ngân hàng nhưng nó luôn có quan hệ với nhau tạo điếu
kiện nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung với sự cố gắng của mình, Ngân hàng luôn khơi tăng nguồn vốn tín
dụng, phát triển cơ câu nguồn tiền gửi lãi suất thấp tạo điều kiện phát triển kinh tế
và kinh doanh ngân hàng. Tăng cường nguồn thu tiền mặt đáp ứng kịp thời và thoả
mãn nhu cầu cho tiền của doanh nghiệp, tư nhân cá thể. Tổ chức thanh toán không
dùng tiền mặt kịp thời, chính xác góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn cho nền
kinh tế. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, tạo môi trường phát triển kinh tế và đời
sống xã hội.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×