Song quý IV đây là khoảng thời gian chuẩn bị cho nhiều dịp tiêu dùng lớn trong
năm như Noel, Tết Tây, Tết Nguyên đán. Nhu cầu tiêu dùng của người dân trong các dịp
này sẽ tăng lên rất cao. Vì vậy, các đơn vị phải đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh
trong thời gian này. Đối với các đơn vị có yếu tố đầu vào phải nhập khẩu từ nước ngoài
thì nhu cầu mua ngoại tệ của họ trong thời gian này cũng tăng lên rất cao. Mặt khác quý
IV là quý cuối cùng trong năm và cũng là thời gian kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Do đó các đơn vị sản xuất cần phải thanh toán các khoản nợ tiền mua nguyên liệu,
phát sinh trong năm, nhất là các khoản nợ bằng ngoại tệ. Vì vậy mà nhu cầu mua ngoại tệ
của các đơn vị này tăng cao. Do đó mà lượng ngoại tệ bán ra cao nhất trong năm.
Tóm lại, lượng ngoại tệ bán ra của NHN
o
ĐN trong quý I và IV thường cao hẳn
hơn so với quý II và III. Hoạt động bán ngoại tệ của Chi nhánh cũng có những biến động
mang tính chất thời vụ. Lượng ngoại tệ bán ra của Chi nhánh bị phụ thuộc rất nhiều vào
chu kỳ sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng trên địa bàn. Chỉ số thời vụ cho ta thấy
rõ hơn tính thời vụ của hoạt động bán ngoại tệ của Chi nhánh.
Chỉ số thời vụ của quý I và IV là lớn hơn một như vậy quý I và IV là hai quý
chính trong hoạt động bán ngoại tệ của Chi nhánh. Ngược lại, chỉ số thời vụ của quý II và
III lại nhỏ hơn một như vậy quý II và III không phải là thời gian chính trong hoạt động
bán ngoại tệ. Như vậy, lượng ngoại tệ bán ra của Chi nhánh vào những tháng đầu năm và
cuối năm thì cao hơn hẳn so với những tháng giữa năm.
Việc phân tích hoạt động bán ngoại tệ theo thời gian như trên sẽ giúp cho Chi
nhánh thuận lợi trong việc lập kế hoạch bán ngoại tệ, chuẩn bị số lượng ngoại tệ bán ra và
tìm trước nguồn ngoại tệ mua vào để bán cho khách hàng. Từ đó, Chi nhánh có thể hạn
chế được rủi ro về tỷ giá.
4. Cân Đối Giữa Hoạt Động Mua Và Bán Ngoại Tệ Tai NHN
o
ĐN:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Qua các số liệu đã phân tích cho hoạt động mua và hoạt động bán ngọi tệ cua
NHN
o
ĐN, chúng ta có thể lập bảng số liệu để cân đối cho hoạt động mua bán ngoại tệ tai
Chi nhánh NHN
o
ĐN như sau:
* Tình hình mua bán ngoại tệ:
Năm 2002 Năm 2003
Mua Bán Chênh lệch Mua Bán Chênh lệch
40975 37775 3200 53275 50675 2600
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh
trong 2 năm qua không cân đối với nhau. Trong 2 năm qua 2002 – 2003, lượng ngoại tệ
mà NHN
o
ĐN luôn lớn hơn lượng ngoại tệ bán ra. Vì vậy, Chi nhánh luôn có một chênh
lệch dương. Cả doanh số ngoại tệ mua vào và doanh số ngoại tệ bán ra của năm sau đềy
tăng lên so với năm trước. Mức tăng lên của doanh số mua vào và doanh số bán ra cũng
gần tương đương nhau nên mức chênh lệch ngoại tệ của Chi nhánh qua các năm tương
đối ổn định. Vì vậy, nguồn vốn ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi
nhánh đã tăng lên đều đặn qua từng năm.
Để thấy rõ tình hình mua bán ngoại tệ tại NHN
o
ĐN, chúng ta cần xem xét tình
hình mua bán ngoại tệ theo đối tượng.
Tình hình mua bán ngoại tệ theo đối tượng:
Năm 2002 Năm 2003
Mua Bán Chênh lệch Mua Bán Chênh lệch
24500 34260 - 9760 32550 47130 - 14580
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
10700 2380 + 8320 14120 2480 + 11640
5775 1135 + 4640 + 5540
40975 37775 + 3200
6605 1065
+ 2600
Đối với các tổ chức kinh tế hoạt động mua và bán ngoại tệ của Chi nhánh với các
tổ chức kinh tế thường mất cân đối. Lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ các tổ chức
kinh tế luôn nhỏ hơn nhiều so với lượng ngoại tệ mà Chi nhánh bán ra cho các tổ chức
này. Vì vậy, hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh với các tổ chức kinh tế luôn có
mức chênh lệch âm trong 2 năm qua. Lượng ngoại tệ mua vào từ các tổ chức kinh tế và
lượng ngoại tệ bán ra cho các tổ chức này đều tăng lên trong thời gian qua. Nhưng mức
tăng sản lượng ngoại tệ bán ra luôn cao hơn mức tăng của lượng ngoại tệ mua vào cả về
số tuyệt đối và số tương đối. Vì vậy, mức chênh lệch âm của doanh số mua bán ngoại tệ
với các tổ chức kinh tế ngày càng tăng. Hoạt động mua bán ngoại tệ cua Chi nhánh với
các tổ chức kinh tế nagỳ càng mất cân đối.
Việc mua bán ngoại tệ của các tổ chức kinh tế chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu
xuất nhập khẩu. Trong 2 năm qua, thành phố Đà Nẵng luôn ở trong tình trạng nhập siêu,
kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn kim ngạch xuất khẩu rất nhiều. Sản phẩm xuất khẩu
chu yếu của thành phố là thuỷ hải sản, đồ thủ công mỹ nghệ, hàng gia công chế biến cho
nước ngoài. Giá trị xuất khẩu của sản phẩm này không lớn. Trong khi đó sản phẩm nhập
khẩu chủ yếu của Đà Nẵng là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
Đây là những mặt hàng có giá trị so với hàng xuất khẩu của Đà Nẵng. Vì vậy kim ngạch
nhập khẩu của ta thường lớn hơn hẳn so với kim ngạch xuất khẩu. Do đó, lượng ngoại tệ
của các đơn vị xuất khẩu thu về thường nhỏ hơn nhiều so với lượng ngoại tệ mà các đơn
vị nhập khẩu cần mua để trả cho nước ngoài. Như vậy, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
NHN
o
ĐN mua được từ các đơn vị xuất khẩu cũng nhỏ hơn lượng ngoại tệ mà Chi nhánh
cần bán cho các đơn vị nhập khẩu. Mặt khác, theo quy định kết hối hiện nay thì các tổ
chức kinh tế khi có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu thì chỉ bán lại cho Ngân
hàng 40% lượng ngoại tệ đó. Vì vậy, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua được từ các đơn
vị xuất khẩu, lại càng nhỏ hơn hẳn lượng ngoại tệ mà Chi nhánh cần bán cho các đợn vị
nhập khẩu. Chính điều này đã làm cho Chi nhánh có mức chênh lệch âm trong doanh số
mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế.
Trong 2 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của thành phố, kim ngạch xuất khẩu năm
2003 lại giảm so với năm 2002. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu của thành phố trong
2 năm qua tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Vì vậy, lượng ngoại tệ mà các đợn vị
nhập khẩu cần mua có mức tăng lớn hơn nhiều so với mức tăng cuae lượng ngoại tệ mà
các đơn vị xuất khẩu thu về. Do vậy, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh bán cho các tổ chức
kinh tế cũng có mức tăng lớn hơn lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ các tổ chức
kinh tế. Chính vì vậy mà mức chênh lệch âm của doanh số mua bán ngoại tệ với các tổ
chức kinh té ngày càng tăng.
Đối với NHN
o
VN hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh với tổ chức này
thường bị mất cân đối. Khác với các tổ chức kinh tế, trong 2 năm qua, tình hình mua bán
ngoại tệ cua Chi nhánh với NHN
o
VN luôn có mức chênh lệch tưỡng đương. Lượng ngoại
tệ mà Chi nhánh mua vào từ NHN
o
VN luôn cao hơn hẳn lượng ngoại tệ mà Chi nhánh
bán ra cho tổ chức này, lượng ngoại tệ mua vào thường gấp 5 lần lượng ngoại tệ bán ra.
Đồng thời qua bảng số liệu trên ta thấy rằng, trong 2 năm qua, lượng ngoại tệ mua vào từ
NHN
o
VN đã tăng lên rất mạnh, nhất là về số tuyệt đối, lượng ngoại tệ mua vào của năm
2003 luôn cao hơn hẳn so với năm 2002. trong khi đó, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh bán
cho NHN
o
VN có tăng lên nhưng rất nhỏ về mặt tuyệt đối. Vì vậy, mức chênh lệch của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh số mua bán ngoại tệ với NHN
o
VN ngày càng tăng cao. Việc mua bán ngoại tệ của
Chi nhánh với NHN
o
VN nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện cân bằng trạng thái ngoại
tệ. Do lượng ngoại tệ mà Chi nhánh phải bán cho các tổ chức kinh tế lớn hơn rất nhiều so
với lượng ngoại tệ mua vào từ các tổ chức này, vì vậy Chi nhánh phải mua một lượng lớn
ngoại tệ từ NHN
o
VN để có đủ ngoại tệ bán ra cho các tổ chức kinh tế và cũng qua đó Chi
nhánh thực hiện cân bằng trạng thái ngoại tệ. Mặt khác, Chi nhánh chỉ bán ngoại tệ cho
NHN
o
VN khi Chi nhánh ở trạng thái dư thừa ngoại tệ. Do sự mất cân đối rất lớn trong
hoạt động mua bánnt của Chi nhánh với các tổ chức kinh tế, nên Chi nhánh thường ở
trạng thái thiếu hụt ngoại tệ là chủ yếu, rất ít khi có trang thái dư thừa ngoại tệ. Nếu Chi
nhánh có xuất hiện trạng thái dư thừa thì NHN
o
VN nhỏ hơn rất nhiều so với lượng ngoại
tệ mà Chi nhánh cần mua ở tổ chức này.
Như chúng ta đã thấy, trang những năm qua, hoạt đọng mua bán ngoại tệ của Chi
nhánh với các tổ chức kinh tế có mức chênh lệch âm của năm sau luôn cao hơn năm
trước, tức là lượng ngoại tệ mua vào từ các tổ chức kinh tế ngày càng thiếu so với lượng
ngoại tệ bán ra cho các tổ chức này. Vì vậy, để cân bằng trạng thái ngoại tệ thi lượng
ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ NHN
o
VN ngày càng tăng lên. Trong khi đó lượng
ngoại tệ mà Chi nhánh bán cho NHN
o
VN có tăng lên nhưng mức tăng không đáng kể,
nhất là về số tuyệt đối. Vì vậy nên doanh số bán ngoại tệ của Chi nhánh với NHN
o
VN có
mức chênh lệch dương ngày càng lớn.
Đối với các cá nhân doanh số mua bán ngoại tệ của Chi nhánh với các cá nhân chỉ
chiếm một lượng nhỏ trong tổng doanh số mua bán ngoại tệ. Tình hình mua bán ngoại tệ
của Chi nhánh với các cá nhân cũng bị mất cân đối theo hướng dư thừa ngoại tệ. Lượng
ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ các cá nhân thường lớn hơn rất nhiều (gấp 5 lần) so
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
với lượng ngoại tệ mà Chi nhánh bán cho các đối tượng này. Do đó, hoạt động mua bán
ngoại tệ của Chi nhánh với các cá nhân cũng có mức chênh lệch dương. Trong 2 năm qua
mức chênh lệch dương này cũng có sự tăng lên rất nhiều.
Đối với các ngân hàng hoạt động mua ngoại tệ diễn ra rất rộng, không phải chịu
nhiều kiểm soát, quản lý của pháp luật. Ngân hàng có thể mua ngoại tệ từ mọi cá nhân
trong khi đó, hoạt động bán ngoại tệ của Ngân hàng lại bị kiểm soát và quản lý rất chặt
bởi các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng chỉ được phép bán ngoại tệ cho
một số ít đối tượng thực sự có nhu cầu về ngoại tệ và rất hạn chế về mặt số lượng. Vì
vậy, lượng ngoại tệ Chi nhánh mua vào từ các cá nhân luôn nhiều hơn hẳn so với lượng
ngoại tệ mà Chi nhánh bán ra cho các đối tượng này.
Trong 2 năm qua, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ các cá nhân có sự tăng
lên rất mạnh mẽ và đều đặn, nhất là về số tuyệt đối. Trong khi đó, lượng ngoại tệ mà Chi
nhánh bán cho các đối tượng này lại không tăng lên nhiều. Vì vậy, mức chênh lệch của
doanh số mua bán ngoại tệ với các cá nhân cũng tăng lên rõ rệt và đều đặn.
Tóm lại, qua bảng số liệu trên ta thấy rằng, đối với Chi nhánh NHN
o
ĐN thì mức
chênh lệch của mua bán ngoại tệ với NHN
o
VN và các cá nhân sẽ lớn hớn mức chênh lệch
của mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế (về mặt giá trị tuyệt đối). Như vậy, lượng
ngoại tệ dư thừa từ hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh với NHN
o
VN và với các
cá nhân không chỉ đủ để bù đắp cho lượng ngoại tệ thiếu hụt từ mua bán ngoại tệ với các
tổ chức kinh tế, mà còn làm cho tổng doanh số mua bán ngoại tệ của Chi nhánh luôn có
mức chênh lệch dương trong 2 năm qua. Tức là hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi
nhánh luôn đạt trạng thái dư thừa trong 2 năm qua.
Qua quá trình phân tích trên chúng ta đã thấy rõ được tình hình mua bán ngoại tệ
theo đối tượng của Chi nhánh. Để thấy rõ hơn diễn biến trong năm hoạt động mua bán
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngoại tệ tại Chi nhánh NHN
o
ĐN, chúng ta cần phân tích tình hình mua bán ngoại tệ theo
thời gian của Chi nhánh, trong 2 năm 2002 – 2003.
* Tình hình mua bán ngoại tệ theo thời gian
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Quý
Mua Bán C/1 Mua Bán C/1 Mua Bán C/1
I
4700 10150 -5450 7425 11670 -4245 8780 16270 -7490
II
9750 5790 +3960 12750 7740 +5010 15130 9530 +5600
III
10700 3480 +7220 11500 4570 +6930 17365 5625 +11740
IV
7550 10880 -330 9300 13795 -4495 12000 19250 -7250
Tổng 32700 30300 +2400 40975 37775 +3200 53275 50675 +2600
* C/1: Chênh lệch mua – bán
Từ bảng số liệu trên, ta thấy rằng: Trong quý II và III lượng ngoại tệ Chi nhánh
bán ra luôn nhỏ hơn lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào. Nhưng ở quý I và IV thì hoàn
toàn ngược lại, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào không đáp ứng đủ nhu cầu bán
ngoại tệ của Chi nhánh.
Trong quý I, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh bán ra luôn lớn hơn hẳn lượng ngoại tệ
mua vào. Lượng ngoại tệ bán ra thường gấp 2 lần lượng ngoại tệ mua vào. Do đó, hoạt
động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh trong quý I luôn có mức chênh lệch âm, Chi nhánh
bị mất cân đối trong hoạt động mua bán ngoại tệ.
Quý I, là thời gian một số ngành hoạt động trở lại sau kỳ nghỉ Tết nguồn hàng
chưa được khai thác tối đa. Lượng ngoại tệ thu về của thành phố không nhiều. Nhưng
quý I cũng là thời gian để các đơn vị sản xuất kinh doanh nhập hàng để chuẩn bị cho một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chu kỳ sản xuất kinh doanh mới. Do đo nhu cầu ngoại tệ của các đơn vị này rất lớn. Vì
vậy mà lượng ngoại tệ Chi nhánh bán ra luôn nhiều hơn hẳn so với lượng ngoại tệ mà Chi
nhánh mua vào.
Đến quý II và III thì tình hình ngược lại hoàn toàn so với quý I. hoạt động mua
bán ngoại tệ của Chi nhánh trong hai quý này cũng bị mất cân đối nhưng theo hướng dư
ngoại tệ lượng ngoại tệ Chi nhánh mua vào trong thời gian này lớn hơn nhiều so với
lượng ngoại tệ bán ra. Do đó hoạt động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh trong hai quý
này luôn có mức chênh lệch dương. Quý II và III là thời gian mà hoạt động xuất khẩu
diễn ra sôi nổi, kim ngạch xuất khẩu tăng lên vì các Công ty có nguồn hàng dồi dào để
xuất khẩu. Lượng ngoại tệ mà các đơn vị xuất khẩu thu về tăng lên nhiều. Vì vậy doanh
số mua ngoại tệ của Chi nhánh trong thời gian này tăng lên mạnh mẽ. Nhưng trong quý II
và III, nhu cầu tiêu dùng của dân cư giảm so với quý I và đi vào ổn định. Đối với các đơn
vị có đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải nhập khẩu thì đã được chuẩn bị từ
quý I. Do đó nhu cầu mua ngoại tệ của các đơn vị trong hai quý này giảm mạnh. Doanh
số bán ngoại tệ của Chi nhánh mua vào trong hai quý II và III luôn nhiều hơn hẳn so với
lượng ngoại tệ Chi nhánh bán ra. Chính vì vậy mà doanh số mua bán ngoại tệ của Chi
nhánh trong quý II và III luôn có mức chênh lệch dương. Chi nhánh luôn dư ngoại tệ
trong thời gian này.
Đến quý IV thì tình hình mua bán ngoại tệ lại giống với quý I. hoạt động mua bán
ngoại tệ cảu Chi nhánh trong quý này thường bị mất cân đối theo hướng thiếu hụt ngoại
tệ. Lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào thường nhỏ hơn rất nhiều so với lượng ngoại
tệ Chi nhánh bán ra. Vì vậy mức chênh lệch cua doanh số mua bán ngoại tệ trong quý IV
luôn âm.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong quý IV, nhu cầu nhập hàng hoá và nguyên liệu phục vụ cho sản xuẩt và tiêu
dùng trong các dịp Tết tăng lên, nên có hiện tượng cất trữ ngoại tệ để phục vụ cho việc
nhập khẩu. Do đó, lượng ngoại tệ mà các đơn vị muốn bán giảm xuống, trong khi đó
lượng ngoại tệ mà các đơn vị có nhu cầu mua tăng lên. Vì vậy, trong quý IV lượng ngoại
tệ mà Chi nhánh mua vào luôn nhỏ hơn hẳn so với lượng ngoại tệ bán ra. Kết quả là hoạt
động mua bán ngoại tệ của Chi nhánh trong quý IV luôn có mức chênh lệch âm.
Qua quá trình phân tích trên ta thấy giữa lượng ngoại tệ mua vào và bán ra luôn có
sự chênh lệch, cung cầu ngoại tệ ít khi gặp nhau. Ở thời điểm đầu và cuối năm lương
ngoại tệ Chi nhánh bán ra nhiều hơn là mua vào. Nhưng vào các tháng giữa năm thì
lượng ngoại tệ mua vào nhiều hơn lượng bán ra. Nhìn chun, lượng ngoại tệ dư ra trong
quý II và III còn lớn hơn cả lượng ngoại tệ thiếu hụt trong quý I và IV. Vì vậy mà trong
những năm qua, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh luôn ở tình trạng thái dư
thừa ngoại tệ. Nhờ đó nguồn vốn ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi
nhánh đã tăng lên trong 3 năm qua.
5. Đánh Giá Hiệu Quả Của Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Tại NHN
o
ĐN:
Mọi hoạt động kinh doanh đều nhằm đến mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Trong
cơ chế thị trường hiện nay thì các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng đều nhằm
đến mục đích lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHN
o
ĐN cũng có mục đích
cuối cùng đó. Vì vậy, lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt
động kinh doanh ngoại tệ. Đối với Chi nhánh NHN
o
ĐN thì thật khó để xác định phần lợi
nhuận do hoạt động kinh doanh ngoại tệ mang lại. Bởi vì bộ phận kinh doanh ngoại tệ
của Chi nhánh không được hoạch toán chi phí riêng, nên chúng ta rất khó xác định chi
phí của hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Do đó cũng khó xác định được lợi nhuận của hoạt
động này. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại tệ chúng ta chỉ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -