Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đà Nẵng, thách thức và giải pháp hội nhập - 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.09 KB, 16 trang )

Mọi tác động đều mang tính hai mặt, khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa nền
kinh tế nước ta đứng trước thế và lực mới. Những thời cơ và thách thức đem lại từ việc
mở cửa sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước nhà.
1.1. Những thời cơ khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế
Hội nhập kinh tế toàn cầu là một trong những hiện tượng nổi bật nhất của cuối
thế kỷ 20 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới này. Đặc điểm nổi bật của hội nhập
kinh tế là sự gia tăng các luồng thương mại và đầu tư giữa các nước trên thế giới.
Trong một thế giới đang toàn cầu hoá, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng
cường của các thể chế kinh tế quốc tế, và quyền lực của các công ty xuyên quốc gia đã
đóng góp vào việc thúc đẩy cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi toàn cầu.
Ngày nay, hội nhập kinh tế là một xu hướng không thể tránh khỏi đối với tất cả các
quốc gia trên thế giới.
Việc hội nhập có hiệu quả vào hệ thống thương mại thế giới đòi hỏi mức độ tự
do hoá cao của mỗi nền kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu có thể mang lại những lợi
ích lớn cho các nước tham gia vào quá trình này. Mở cửa thương mại, tài chính và đầu
tư quốc tế đã đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu
phát triển. Hội nhập thương mại quốc tế cho phép các nước chuyên môn hoá sản xuất
để đạt được tính kinh tế của quy mô sản xuất. Đối với các nước có lợi thế so sánh như
nguồn lực tự nhiên dồi dào, lao động rẻ,… có thể thúc đẩy việc phân phối nguồn lực có
hiệu quả hơn và đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của họ để đạt được lợi ích kinh tế tối ưu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Mở cửa hội nhập sẽ giúp chúng ta tiếp cận được những cái mới trong lĩnh vực
công nghệ, cả công nghệ quản lý và cả công nghệ trong sản xuất. Bước chuyển biến
trong việc tiếp thu công nghệ sẽ góp phần làm thay đổi hiệu suất sản xuất, tăng năng
suất lao động. Những bước tiến công nghệ sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trong sản xuất
và kinh doanh. Hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm sẽ góp phần là tăng tính
cạnh tranh cũng như chất lượng của từng sản phẩm. Nhưng bước tiến quan trọng nhất
trong việc hội nhập mở cửa và tiếp thu công nghệ đó là công nghệ quản lý, chính sự
quản lý chuyên nghiệp sẽ làm thay đổi cách thức làm việc và tác phong công nghiệp
trong sản xuất, thay đổi được thói quen tập tục gắn liền với nông nghiệp của Việt Nam.
Mở cửa thương mại quốc tế cũng chính là một bước mở cửa thị trường, thị


trường rộng mở là điều mơ ước của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại.
Tận dụng được lợi thế trong mở cửa thị trường sẽ tận dụng được các thời cơ và cơ hội
kinh doanh lớn. Khi mở cửa thị trường sẽ thúc đẩy được sự cạnh tranh lành mạnh, các
doanh nghiệp phải tự thân vận động, cả nền kinh tế cũng vận động để thay đổi để phù
hợp với nhu cầu của tình hình mới, cũng là phù hợp với quy luật tất yếu của sự vận
động và biến đổi.
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa là thời cơ mà chúng ta nên chớp lấy để
phát triển nền kinh tế, trong đó các DNNVV cũng tự tạo được những thuận lợi được
đưa tới từ việc mở cửa và hội nhập này. Tuy nhiên, thời cơ lớn thì thách thức quả thực
là không nhỏ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều này ở phần tiếp theo.
1.2. Những thách thức khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Do mức độ phát triển thấp, nên những thách thức hội nhập mà Việt Nam phải
đương đầu là rất lớn. Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của chính sách mở cửa kinh
tế, với những điều kiện ít thuận lợi hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví
dụ như khi gia nhập vào WTO, Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống các nguyên tắc MFN và
đối xử quốc gia đối với tất cả các thành viên của WTO và hàng hoá và dịch vụ của họ.
Vì vậy, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để bảo đảm khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung. Hiện nay,
nền kinh tế Việt Nam được cho là có khả năng cạnh tranh thấp so với các nước khác
trong khu vực. Bằng việc tự do hoá nhanh chóng thị trường của mình, kể cả các ngành
công nghiệp còn non trẻ, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh khắc nghiệt từ các đối thủ kinh doanh nước ngoài. Việc mở cửa thị trường cho
hàng hoá, đầu tư và dịch vụ nước ngoài, và những cam kết của Việt Nam để tạo ra một
môi trường thuận lợi cho kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nhân nước ngoài
có được sự tiếp cận rộng hơn đối với thị trường Việt Nam. Một số ngành có khả năng
cạnh tranh thấp như dịch vụ, sẽ bị đặt vào những tình thế bất lợi, dẫn đến những tác
động xấu đối với nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, do còn nhiều yếu kém, các doanh
nghiệp nội địa khó có thể đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế về đối xử ưu đãi mà
Việt Nam sẽ nhận được thông qua việc hội nhập nền kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu

hóa. Hậu quả là Việt Nam có thể trở thành một nhà máy khổng lồ của các công ty nước
ngoài.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đối với ngành nông nghiệp, vòng đàm phán thương mại Doha đã đặt ra những
yêu cầu khó khăn hơn đối với ngành nông nghiệp của các thành viên mới, như, xoá bỏ
trợ cấp xuất khẩu, thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế an toàn thực phẩm, xoá bỏ hàng rào
bảo hộ và giảm thuế nhập khẩu lương thực. Do vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ
phải đối mặt với những thách thức lớn khi đất nước gia nhập WTO. Kết quả là sẽ có
sự sụt giảm trong thu nhập bình quân đầu người của khu vực nông nghiệp, dẫn đến sự
bất bình đẳng ngày càng tăng giữa khu vực nông thôn và thành thị khi chúng ta mở cửa
thị trương quốc tế và gia nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế lớn này.
Về phía người lao động, việc mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa sẽ gây ra một số bất lợi cho họ. Những thách thức trong việc mở
cửa thị trường và xoá bỏ trợ cấp nhà nước và sự bảo hộ trong một số ngành sẽ dẫn tới
việc thu hẹp hoặc đóng cửa nhiều doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Trong những trường hợp như vậy, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam không có khả
năng hỗ trợ những người cần sự giúp đỡ, do Việt Nam vẫn chưa có mạng lưới bảo
hiểm thất nghiệp. Cho đến nay, mới chỉ có 12% lực lượng lao động được hệ thống bảo
hiểm xã hội bảo vệ. Người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức hoặc khu
vực nông nghiệp vẫn không được bảo vệ. Những khó khăn này đặt người lao động Việt
Nam vào những tình thế rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra, hội nhập kinh tế thông qua
WTO cũng sẽ làm cho khoảng cách về thu nhập giữa lao động có kỹ năng và không có
kỹ năng, giữa nông thôn và thành thị ngày càng rộng. Đặc biệt, cơ hội cho người nghèo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ở nông thôn tham gia vào các hoạt động được toàn cầu hoá là rất ít do phần lớn trong
số họ là những người lao động không qua đào tạo.
Với Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung, việc tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế không phải là một bảo đảm rằng nền kinh tế sẽ phát triển
nhanh chóng, thuận lợi. Lý thuyết và thực tế cho thấy tư cách thành viên mới chỉ là
chiếc vé để tham gia vào một trò chơi. Thành công đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ

lực vượt bậc trong nhiều lĩnh vực để nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu những tác
động tiêu cực trong quá trình hội nhập này. Tư cách thành viên mà Việt Nam sẽ đạt
được là một cơ hội để Việt Nam phát triển nhanh nền kinh tế, đồng thời, nó cũng mang
lại những thách thức lớn khi tham gia vào tổ chức WTO. Nhưng đó là thách thức trong
cơ hội, và thách thức cũng mang lại những cơ hội. Bằng việc tái cấu trúc nền kinh tế và
khung khổ thể chế, tăng khả năng cạnh tranh quốc gia,… Việt Nam có thể vượt qua
được những khó khăn và gặt hái những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế ngày
càng tăng này.
Mở cửa nền kinh tế của mình, có nghĩa là nước đó sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt từ những đối thủ nước ngoài. Hậu quả là, các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là các DNNVV thiếu khả năng cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc
đi đến phá sản. Nếu không có các chiến lược phát triển thích hợp của Chính phủ và bản
thân các doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ phải chịu nhiều tổn thất từ hội nhập kinh tế. Các
DNNVV đang như con thuyền bé lênh đênh giữa đại dương rộng lớn, thị trường thế
giới sẽ trở thành một chiến trường khốc liệt hơn bao giờ hết, cuộc đấu sẽ luôn tiếp diễn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đòi hỏi các DNNVV phải không ngừng hoàn thiện mình và phát triển. Mở cửa tức là
chấp nhận bước vào cuộc chơi mà thôi, ai yếu thế và không sẵn sàng bước vào cuộc
chơi sẽ bị loại bỏ. Mô hình liên doanh liên kết giữa các DNNVV sẽ trở thành một khối
đoàn kết, giúp cho các DNNVV có thể vượt qua được những trở ngại trước mắt
Để thành công trong quá trình hội nhập kinh tế, các nước không nên chỉ dựa vào
những lợi thế so sánh mà họ có. Thực tế đã cho thấy rằng những lợi thế to lớn mà nhiều
quốc gia đang phát triển có được với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn
lao động rẻ và dồi dào… đã không phải là chiếc chìa khoá vàng dẫn các nước này đến
sự thịnh vượng. Điều quan trọng là, các nước phải nắm bắt được lợi thế cạnh tranh
thông qua tri thức, sự đổi mới và nguồn vốn con người để đạt được mục tiêu tăng
trưởng bền vững.
2. Những khó khăn và thách thức đặt ra với DNNVV
Tuy có được những điều kiện rất thuận lợi song các doanh nghiêp nhỏ và vừa
đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập đòi hỏi

sự nỗ lực vượt bậc về tất cả mọi mặt, thách thức đặt ra cho các DNNVV và phải vượt
qua được các thử thách là điều tất yếu trong quy luật phát triển của DNNVV
2.1. Những khó khăn đối với DNNVV
2.1.1. Bất cập về trình độ quản lý và công nghệ
Đây quả thật là vấn đề không nhỏ mhi mà sự phát triển ngày càng gia tăng nhu
cầu về cách thức quản lý khoa học và người quản lý có trình độ là thật sự cần thiết và
quyết định đến sự tồn vong của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tuy nhiên theo số liệu thống kê thì hiện nay có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp
có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình
độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%;
thạc sĩ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn.
Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ
học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh
tế và quản trị doanh nghiệp.
Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ
công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh
về công nghệ của các doanh nghiệp phía bắc là rất thấp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số
doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh
nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ
2,16%.
Ta có thể dễ dàng nhận ra một nghịch lý, trong khi trình độ về kỹ thuật công
nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ
lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ.
Vậy chứng tỏ là các DNNVV thực sự chưa chú trọng đến việc phát triển và áp dụng
KHCN để tăng hàm lược chất xám, nâng cao hiệu quả cũng như chất lược của sản
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

phẩm. Trong khi việc phát triển KHCN và áp dụng công nghệ trong sản xuất đang là
một vấn đề nóng hổi và rất đang quan tâm thì có phần lớn các chủ doanh nghiệp lại đi
ngược lại yêu cầu này.
Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp
Việt Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên
thế giới quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường
cung cấp và tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin
về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến
các thông tin về kỹ thuật và công nghệ.
2.1.2. Nhu cầu lớn về vốn, thị trường và đào tạo
Từ số liệu của các cuộc điều tra thì các doanh nghiệp tiếp tục đề cập tới nhiều
khó khăn đã được nhắc đến nhiều lần. Cụ thể 66.95% doanh nghiệp cho biết thường
gặp khó khăn về tài chính; 50.62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị
trường; 41.74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25.22%
doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất; 24.23% khó khăn về thiếu các ưu
đãi về thuế; 19.47% khó khăn về thiếu thông tin; 17.56% doanh nghiệp khó khăn về
đào tạo nguồn nhân lực
Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh
nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh
nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận
và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận,
30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước
cũng rất khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia; 23,12% số doanh
nghiệp khó được tham gia và 71,67% số doanh nghiệp không được tham gia.
Qua cuộc điều tra, doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong rất nhiều
lĩnh vực, trong đó có 33,64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán;
31,62% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu

cầu đào tạo về phát triển thị trường; 20,17% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về lập
kế hoạch, chiến lược kinh doanh; 12,89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm
mới; 12,89% có nhu cầu đào tạo về kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế;
11,62% có nhu cầu đào tạo về quản lý nguồn nhân lực; 10,85% số doanh nghiệp có nhu
cầu đào tạo về ứng dung công nghệ thông tin trong doanh nghiệp
Rõ ràng là các doanh nghiệp đã nhận thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng
chưa được đáp ứng. Đây là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ;
đồng thời cũng là một thị trường đang cần rất nhiều dịch vụ đào đạo chất lượng cao, là
cơ hội cho các đại học, các viện nghiên cứu
2.1.3. Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, cơ sỡ vật chất kĩ thuật lạc hậu chậm đổi
mới
Có thể nói các DNNVV có cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh kém, thêm
vào đó là sự bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu để sản xuất, máy móc thiết bị. Do
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
quy mô không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên chỉ giới hạn số lượng mua hàng, chỉ
mua với số lượng nhỏ, các doanh nghiệp không được hưởng hưởng chiết khấu hay
giảm giá, điều mà các doanh nghiệp lớn thường được hưởng do lợi thế trong việc mua
sản phẩm với khối lượng lớn và đã là khách hàng làm ăn quen thuộc. Mặt khác khi
mua máy móc trang thiết bị để phát triển sản xuất từ nước ngoài thì các DNNVV
thường thiếu ngoại tệ nên không thể mua trực tiếp mà phải vay mượn hoặc là phải
thông qua đại lý nên thường là giá lên rất cao so với mức giá thực tế.
Một điều nữa cũng bắt nguồn từ nguyên nhân trên, đó là cơ sỡ vật chất kỉ thuật
lạc hậu, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ
sở giao dịch, quản lý đa phần là rất chật hẹp và không đủ diện tích, chứ chưa nói đến
việc có được các gian hàng trưng bày, các Showroom với quy mô lớn, dẫn đến bộ mặt
của DN không đủ lực để đảm bảo sự tin cậy cho đối tác và không thể tự mình tôn lên
khả năng, năng lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện các công việc, xã giao với
các đối tác làm ăn. Các DNNVV không đủ số lượng tiền đủ lớn để quay vòng và thay
đổi các thiết bị cho nên các khấu hao cơ bản sẽ được tính dài ra, vòng đời công nghệ vì
thế cũng được giãn ra dài hơn so với yêu cầu phải thay đổi công nghệ nên ngay từ việc

mua may móc trang thiết bị ban đầu đã lạc hậu thì nay sự lạc hậu đó còn được kéo dài
ra thêm nữa.
2.1.4. Hoạt động sản xuất thiếu vững chắc, yếu về sức cạnh tranh và việc tiếp cận thị
trường
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Mặc dù các DNNVV có ưu thê là rất linh hoạt trước sự thay đổi bất thường của
thị trường, nhưng do khả năng tài chính hạn hẹp nên khi biến động lớn xảy ra thì rất dễ
dẫn đến tình trạng đó là các doanh nghiệp nhỏ và không đử sức để xoay chuyển tình
thế sẽ phải chấp nhận phá sản. Trên thực tế hiện tượng nay rất nhiều và diễn ra liên tục,
vòng đời của các DNNVV là rất ngắn. Tuy nhiên, trong khi có một số doanh nghiệp bị
phá sản thì số đông các DN khác sẽ được thành lập và thường thì số dong nghiệp được
thành lập luôn lớn hơn rất nhiều số lượng các doanh nghiệp bị phá sản cho nên một
điều dễ dàng xảy ra đó là sự xáo trộng trong hoạy động kinh tế, sựa mất ổn dịnh và khó
quản lý đối với các doanh nghiệp, và lĩnh vực kinh doanh. Một vấn đề nữa từ các
DNNVV đó là việc thường xuyên thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng làm
cho nền kinh tế càng khó quản lý, thêm vào đó là các DN này phải thường xuyên thay
đổi mặt bằng sản xuất kinh doanh, trụ sở giao dịch nên hoạt động sản xuất kinh doanh
luôn để trong tình trạng bị động, thiếu vững chắc và thiếu sự ổn định cần thiết cho hoạt
động kinh doanh thương nhật của doanh nghiệp.
Cùng với những khó khăn trên thì còn một vấn đề lớn trong quá trình sản xuất
kinh doanh của các DNNVV cũng nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt đến
đời sống kinh tế - xã hội như trốn, lậu thuế, mua bán hàng giả, hàng nhái, mau bán hóa
đơn và gây ô nhiễm môi trường. Các DNNVV luôn bị yếu thế trong cạnh tranh trên
thương trường khi đối đầu với các doanh nghiệp lớn hơn về quy mô cũng như tiềm lực,
năng suất lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất thấp. Việc tiếp cân thông tin
càng khó khăn hơn khi các doanh nghiệp với quy mô nhỏ không đủ liềm lực về công
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nghệ cũng như con người để nắm bắt thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác.
Trình độ quản lý của DN còn hạn chế, chưa cập nhật được các kiến thức về kinh tế và
thị trường, về quản trị kinh doanh chỉ dự vào kinh nghiệm thiếu các thông tin thực tiễn.

2.2. Những thách thức đối với DNNVV
2.2.1. Năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn yếu
Trong tình hình như hiện nay, khi mà việc áp dụng KHCN trong hoạt động
SXKD ngày càng được quan tâm và ưu tiên hang đầu bởi vì nó đem lại cho doanh
nghiệp năng lực cao hơn trong cạnh tranh do có lợi thế về công nghệ, hiệu quả kinh
doanh tốt hơn. Có thể nói trong thởi đại ngày nay thì công nghệ không chỉ đóng góp
phần quan trọng trong doanh nghiệp mà phải nói rằng nó là yếu tố sống còn của doanh
nghiệp. Nhưng các DNNVV ở nước ta thì sao? Tuy đã có được công nghệ từ nước ngà
lại có lợi thế là một nước đi sau nhưng lại rất yếu về năng lực ứng dụng KHCN trong
sản xuất, kinh doanh và cả trong quản lý. Điều này cũng dễ thấy khi mà công tác đào
tạo của Việt Nam còn mang nặng tính sách vở và ít hiện thực, thứ hai nền kinh tế của
nước ta còn rất yếu kém chưa đủ tiềm lực về vốn, con người để thay đổi theo các công
nghệ tiên tiến hơn và ngày càng tiến triển một cách chóng mặt, thứ ba ta có thể nhận
thấy một quy luật rất tự nhiên đó là ai sáng tạo ra cái gì thì người đó sẽ thành thục nhất
trong việc áp dụng nó, nước ta hay tất cả các DN nước ta rất yếu về khâu nghiên cứu
và đổi mới công nghệ, tìm ra cho mình một hướng đi riêng, tự sáng tạo cho mình mô
thức làm việc hiện đại mà chỉ đơn giản là bắt chước, nhiều khi sự bắt chước chỉ là hình
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thức không nắm bắt được cái cốt lõi bên trong của công nghệ, sự sáng tạo của nhà
nghiên cứu chỉ có hạn. Không chỉ yếu vê nghiên cứu và phát triển mà các DNNVV
hiện nay cũng rất khó khăn trong việc thay đổi công nghệ để nó phù hợp hơn với điều
kiện của DN mình.
2.2.2. Sự cạnh tranh trong môi trường ngành diễn ra ngày càng lớn về mức độ cũng
như quy mô
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế có một quy luật mà tất các các doanh
ngiệp cần phải nắm bắt đó là chu kỳ kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tuy khác
nhau về mức độ nhưnh có điểm giống nhau đó là khi có một công việc kinh doanh và
nhiều doanh nghiệp tham gia vào nó, hay đây có thể hiểu nôm na đó là thị trường
ngành. Trong một môi trường ngành thì các doanh nghiệp sẽ ngày càng tập trung đông

hơn, sau một quá trình chon lọc thì những doanh nghiệp sống sót trong thị trường
ngành sẽ làm cho thị trường ngành ngày càng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt hơn, các
doanh nghiệp vì lợi nhuận và chạy theo lợi nhuận sẽ phải tìm cách để hơn được tất cả
các DN còn lại trong thị trường của mình. Các DN gia nhập sau thường có được lợi thế
hơn nhờ học hỏi được kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã bị buộc phải rời khỏi
ngành, thứ hai các DN mới gia nhập vào ngành sau quá trình thanh lộc thường là các
doanh nghiệp rất lớn, có thợi thế hơn so với các DN còn lại trong ngành hoặc là có
được bí quyết công nghệ hoặc là đã phát hiện ra lổ hỗng của thị trường.
2.2.3. Sự khó khăn về vốn và các hoạt dộng tín dụng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tròng các DN thì tài chính đóng vai trò tiên quết trong mọi hoạt động, nhưng
các doanh nghiệp lại yếu nhất ở khâu này, khi mà thị trường ngày càng thay đổi mạnh
maẽ chi phí đầu vào luôn tăng qua các kỳ kinh doanh thì việc đòi hỏi phải có được
lượng vốn lớn để xoay vòng sản xuất là điều không thể tránh khỏi, nhưng các DNNVV
mỗi năm chứ đừng nói là mỗi quý hay mỗi tháng đều có thu nhập thấp, lợi nhuận thu
về không đủ trích ra để phát triển kinh doanh. Hoạt động ký gửi trong kinh doanh diễn
ra ngày càng lớn, việc bị chiếm dụng vốn là điều rất đương nhiên và các DN trong đó
có DNNVV phải chấp nhận việc này để đảm bảo cho công việc làm ăn trở nên dễ dàng
thuận tiện hơn, “trường vốn” sẽ giúp cho DN có chổ đững vừng vàng hơn trên thị
trường.
Có một phương hướng giải quyết cho vấn đề vốn đó là hoạt động cho vay hay
hoạt động tín dụng. Các doanh nghiệp yếu thế về vốn sẽ tìm được hướng giải quyết cho
việc phát triển và kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc có được nguồn vốn
này từ các tổ chức cho vay tín dụng là không phải dễ, bởi vì các thủ tục váy mượn rất
rườm rà và phúc tạp mặc dù đã có sự đổi mới. Mặt khác nữa là các tổ chức hoạt động
về cho vay tín dụng và tài chính không phải là tổ chức từ thiện, đây cũng là các cơ sở
kinh doanh cho nên khi vay tiền các DNNVV phải chứng thực được khả năng về tài
chính, cam kết trả vay đúng hạn cũng như phải thế chấp tài sản, nếu một doanh nghiệp
đang kinh doanh không tốt do thiếu vốn và cần hỗ trợ về vốn thì việc vay được điều
không tưởng, hơn nữa các DNNVV rất nhiều cho nên việc cạnh tranh để vay mượn

được khoản tiền này càng trở nên khóa khăn hơn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thị trường tài chính của nước ta đang chao đảo, các chính sách vĩ mô, các chính
sách tiền tệ thay đổi liên tục cũng khiến cho hoạt động tín dụng gặp phải khó khăn. Sự
bình ổn về thị trường tài chính sẽ giúp cho hoạt động tín dụng dễ dàng hơn, các
DNNVV cũng dễ thở hơn.
2.2.4. Sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ chóng mặt
Sau khi gia nhập vào kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường thì sự thay đổi diễn ra
càng mạnh mẽ hơn, tốc độ thay đổi cũng nhanh hơn rất nhiều. Khủng hoảng tài chính
thế giới năm 97, nước láng diềng Thái Lan lâm vào khủng hoảng nhưng nước ta thì
khôgn ảnh hưởng gì lớn, nhưng ai dám chắc rằng khi mở cửa rộng rãi hơn, tham gia
vào kinh tế quốc tế thì một sự biến chuyển của thị trường sẽ gây tác động cho nước ta
đến đâu thì đó là điều không ai dám chắc được.
Các sự thay đổi thường thấy hiện nay ta có thể nhận thấy được đó là sự biến
động mãnh liệt của giá như giá xăng, giá dầu, giá bất động sản…vv luôn thay đổi và có
chiều hướng không rõ rệt, rất khó dự báo. Tiếp theo là thị trường vốn và tài chính mà
một ví dụ minh họa điển hình và rõ ràng nhất đó là thị trường chứng khoán, thị trường
chứng khoán Việt Nam tăng nhanh, mạnh nhưng chỉ như bong bóng xà phòng, không
ổn định. Tiếp nữa, là thị trường xuất khẩu luôn nằm trong tư thế bất ổn, sự ràng buộc từ
các yếu tố xuất khẩu, các thị trường lớn thay đổi khiến hoạt động XNK không yên
ổn… và hàng loạt các yếu tố khác từ thị trường gây khó khăn không chỉ cho các DN
lớn mà các DNNVV nước ta cúng không là trường hợp ngợi lệ. Sự thay đổi linh hoạt
để đáp ứng cho nhu cầu mới là điều cần thiết nhưng các DNNVV vừa yếu về vốn, vừa
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
yếu về công nghệ, năng lực có hạn thì việc sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ
chóng mặt là một thách thức không nhỏ đối với các DNNVV.
3. Sự cần thiết phải hỗ trợ DNNVV trong quá trình phát triển
Từ sau Đại Hội Đảng toàn quốc lần VI (năm 1986), cả nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, dần dần xóa bỏ cơ chế kinh tế cũ. Chính
sách mở cửa, thu hút đầu tư tạo môi trường thuận lợi cho các ngành sản xuất trong

nước phát triển, phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, trong đó có thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là các DNNVV.
Tuy nhiên trong sự phát triển mạnh mẽ của mình thì có một hiện tượng hay nói
đúng hơn là một vấn đề xảy ra đó là phần lớn nhân lực của các DNNVV đều rơi vào
tình trạng hụt hẫng, không đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, kỹ luật và tác
phong lao động nhất là các doanh nghiệp có các sản phẩm xuất khẩu. Thời gian qua,
các DNNVV đã có bước đầu huy động tiềm năng và nguồn lực để tập trung cho công
tác đào tạo và bồi dương nguồn nhân lực, tuy nhiên tỷ lệ lao động chưa tưng xứng với
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình phát triển, công tác đào tạo chưa được chú
trọng đúng mức. Các DNNVV đa số sử dụng máy móc công nghệ đã lạc hậu, việc
nghiên cứu KH&CN tuy đã cso nhưng chưa chuyển biến rõ rệt. Như các số liệu báo
cáo cho thấy hiệu quả hoạt động SXKD chưa cao, dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu
kém là hậu quả tất yếu đối với nhiều DNNVV. Tất cả những điều trên vừa xuất thân từ
chính bản thân của các doanh nghiệp, mà doanh nghiệp không thể tự khắc phục và một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×