Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN - TẬP 1 CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ - CHƯƠNG 6 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.81 KB, 29 trang )

Chương 6

THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
CÁC TRẠM TRUNG CHUYỂN


6.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI CHẾ VÀ TÁI SỬ DỤNG LẠI CHẤT
THẢI RẮN ĐÔ THỊ
Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế
biến thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất.
Tái chế vật liệu: bao gồm các hoạt động thu gom vật liệu có thể tái chế từ dòng
rác, xử lý trung gian và sử dụng vật liệu này để tái sản xuất các sản phẩm mới
hoặc sản phẩm khác.
Tái chế nhiệt: bao gồm các hoạt động khôi phục năng lượng từ rác thải.
Củng có thể coi hoạt động tái chế như hoạt động tái sinh lại chất thải thông qua:
Tái sinh sản phẩm chuyển hóa hóa học: chủ yếu dùng phương pháp đốt để thành
các sản phẩm khí đốt, hơi nóng và các hợp chất hữu cơ.
Tái sinh các sản phẩm chuyển hóa sinh học: chủ yếu thông qua quá trình lên
men, phân hủy chuyển hóa sinh học, để thu hồi các sản phẩm như: phân bón, khí
mêtan, protêin, các loại cồn và nhiều hợp chất hữu cơ khác.
Tái sinh năng lượng từ các sản phẩm chuyển hóa: từ các sản phẩm chuyển hóa
bằng quá trình sinh học, hóa học có thể tái sinh năng lượng bằng quá trình đốt tạo
thành hơi nước và phát điện.
Hoạt động tái chế mang lại những lợi ích sau:
- Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bởi việc sử dụng vật liệu được tái chế thay
cho vật liệu gốc;
- Giảm lượng rác thông qua việc giảm chi phí đổ thải, giảm tác động môi
trường do đổ thải gây ra, tiết kiệm diện tích chôn lấp;
- Một lợi ích quan trọng là có thể thu lợi nhuận từ hoạt động tái chế; hoạt động
tái chế lúc này sẽ mang tính kinh doanh và vì thế có thể giải thích tại sao các
vật liệu có thể tái chế hiện được thu gom ngay từ nguồn phát sinh cho tới


khâu xử lý và tiêu hủy cuối cùng.


6.2. CÁC HOẠT ĐỘNG TÁI CHẾ VÀ THU HỒI CHẤT THẢI
Hoạt động tái chế và thu hồi chất thải được thực hiện thông qua hệ thống thu
gom chất thải rắn theo mạng lưới 3 cấp gồm: người thu gom, đồng nát và buôn
bán phế liệu (hình 6.1). Công nghiệp thu hồi có 3 cấp được chia thành 6 nhóm
nghề:
1. Cấp thứ nhất (gồm người đồng nát và người nhặt rác): Hai nhóm người này
có cùng chức năng trong hệ thống thu gom, nhưng lại khác nhau về địa
điểm hoạt động, công cụ làm việc và nhu cầu vốn lưu động.
2. Cấp thứ hai (gồm những người thu mua đồng nát và người thu mua phế liệu
từ người thu nhặt tại bãi đổ rác, người nhặt rác và đồng nát trên vỉa hè trong
toàn thành phố): Những người thu mua phế liệu này củng tiến hành theo
cách tương tự tại những nơi cố định.
3. Cấp thứ ba: gồm những người buôn bán hoạt động kinh doanh với quy mô
lớn hơn ở nhiều địa điểm cố định và các đại lý thu mua thường là điểm nút
đặc biệt trong buôn bán như các bên trung gian giữa các ngành công nghiệp
và người bán lại.
Tùy thuộc vào vị trí, nguồn nguyên liệu, công nghệ sản xuất, thành phần chất
thải mà lựa chọn các phương pháp tái sinh khác nhau.
Các loại chất thải rắn và xỉ không thể sử dụng được nữa được đổ ở bãi chôn lấp
hoặc đổ xuống biển.
Tất cả các vật liệu trước và sau khi sử dụng có thể cần cho hoạt động kinh
doanh, có trong rác thải đô thị như các chất hữu cơ, kim loại, nhựa, giấy, kinh
v.v… được gọi là “vật liệu có thể tái chế”.
Hoạt động tái chế củng cần chi phí để thu gom, vận chuyển, chế biến và ngăn
chặn các tác động tiêu cực lên môi trường do quá trình tái chế gây ra, do đó, nếu
như chi phí tái chế cao hơn lợi ích tái chế thì lúc đó hoạt động tái chế không được
coi là hoạt động kinh doanh. Nếu chi phí tái chế thấp hơn lợi ích tái chế thì hoạt

động tái chế được coi là hoạt động kinh doanh. Sơ đồ hệ thống thu hồi các chất và
dòng lưu chuyển các nguồn vật liệu được thể hiện ở hình 6.2.












Nguồn phế thải
phế liệu
Bãi chôn lấp
Bãi tập kết tạm thời
trạm trung chuyển
Xe đẩy rác tay
Đường phố
Thùng rác,
bể chứa rác
Các hộ gia đình
Khác sạn
Cơ quan
Trường học
Nhà hàng ăn
uống, nhà trọ
Hình 6.1. Sơ đồ mạng lưới thu gom chất thải rắn của tư nhân

Nhóm thu gom
phế liệu
Nhóm thu mua
phế liệu
Nhóm buôn bán
và sử dụng lại
phế liệu
Đội quân bới
rác tại bãi rác
Thu mua tại
bãi đổ rác
Đội quân
nhặt rác lưu
động
Thu mua
đồng nát tại
kho chứa
Các cơ sở sản
xuất ngành
công nghiệp
Đại lý và
những người
buôn bán
Những người
mua đồng nát
lưu động
Hoạt động
thu mua dọc
đường phố
Xu

ất
khẩu

Tác động
môi trường
Tiêu hủy cuối cùng
(chôn lấp)
Môi trường
toàn cầu
(hệ sinh thái)
Tài nguyên
thiên nhiên
Tài nguyên
kinh tế
Sản xuất

Phân phối

Tiêu dùng
Ch
ất thải

Tái ch
ế

Xử lý trung
gian
“Xử lý tốt hơn”
(tái chế)
Hoạt động kinh tế

“kinh tế thị trường”
Các ngu
ồn
tài nguyên
tái ch
ế

Tái sản xuất
Các tác động
môi trường
Tài nguyên có
thể tái chế
Hình 6.2a. Dòng lưu chuyển các nguồn vật liệu

Để tính lợi ích tái chế, người ta sử dụng công thức:
NBr.T = NBr.Q
PET
(6.1)
NBr : lợi ích tái chế
Q
PET
: lượng chai PET
Hoặc:
NBr = [P
V 1
– P
V 2
] + [C
VE 1
+ C

VU 1
- C
RE 1
] + [C
CW 1
– C
CR 1
] + C
DW 1

(6.2)
Trong đó:
P
V 1
– P
V 2
: chênh lệch về chi phí giữa vật liệu thô
C
VE 1
+ C
VU 1
- C
RE 1
: chênh lệch chi phí bên ngoài
C
CW 1
– C
CR 1
: chênh lệch chi phí thu gom
C

DW 1
: chi phí tiết kiệm đổ thải rác
Nếu kết quả tính theo phương trình (6.2) dương thì có nghĩa hoạt động tái chế
mang lại hiệu quả, còn nếu kết quả ngược lại thì có nghĩa là hoạt động tái chế
không mang lại hiệu quả.
Ở một số nước như Nhật Bản, các hoạt động tái chế được dựa trên cơ sở tính
toán lượng rác sản sinh ra, chi phí đổ thải và tỉ lệ tái chế. Các hoạt động tái sử
dụng , quay vòng và thu hồi chất thải là một trong những giải pháp có hiệu quả về
mặt chi phí xử lý và tiêu hủy chất thải, củng như bảo vệ được nguồn lực cho các
Sản xuất nhựa
Sản xuất đóng chai
Tiêu dùng
Đổ thải rác
Chai PET

Hình 6.2c. Mô hình dòng quay vòng giữa hai sản phẩm
Sản xuất nhựa
Sản xuất
Tiêu dùng
Đổ thải rác
Tái chế
hoạt động này. Sự thay đổi về tổng lượng rác đô thị (rác thường) phát sinh ở Nhật
Bản được minh họa ở hình 6.3. Tỷ lệ phát sinh chất thải trung bình tại Nhật Bản là
1kg/người.ngày. Thay đổi về tổng chi phí đổ thải rác ở Nhật Bản được minh họa
trong hình 6.4.
Các hoạt động tái chế rác thải ở Nhật Bản được hỗ trợ bởi hệ thống luật và quy
định của nhà nước bao gồm:
- Luật quản lý rác thải và giữ vệ sinh công cộng (1970);
- Luật quản lý rác thải (1992);
- Luật thúc đẩy sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái chế (1991);

- Luật tái chế vỏ hộp và bao bì (1996);
- Luật tái chế thiết bị điện (1998).
Theo con số thống kê tại Nhật Bản năm 1995 có khoảng 50% giấy loại được thu
hồi và tái chế; 100% các chai thủy tinh và 75% số lượng đồ hộp vỏ kim loại và
nhôm được thu hồi và tái chế. Hình 6.5 thể hiện lượng các thành phần thu hồi và
tái chế từ rác thải thông thường trong vòng 10 năm từ 1985 – 1995 tại Nhật Bản.
Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Đức (Duales System Deutschland), được
minh họa ở hình 6.6. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Pháp được minh họa ở
hình 6.7. Chỉ số quản lý rác thải ở một số nước được thể hiện ở bảng 6.1.


Bảng 6.1. Chỉ số quản lý rác thải ở một số nước trên thế giới năm 1992
Tên nước
Dân số
(triệu)
Thu nhập
quốc nội
Chất thải
(kg/người.năm)

Chôn
lấp
Đốt
(%)

sinh học
Thu hồi
tái chế
Chính quyền
địa phương

Đốt rác,
chôn lấp
Hệ thống tái
chế chất thải
Tái chế
Các công ty
sản xuất và bán
* Đầu tư
* Đưa ra giá thu gom và tái chế
Người tiêu
dùng
Hình 6.6. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Đức
Chính quyền
địa phương
(phân loại và
thu gom)
Người tiêu dùng
Đốt, chôn lấp
Tái chế
Rác thải bao bì
Chất thải khác
Tái chế
- Hỗ trợ về giá cả
- bao gồm tái chế nhiệt
Công ty sản xuất
và bán hàng
- Đầu tư
- Áp dụng chi phí thu gom và tái chế
Hìn 6.7. Sơ đồ hệ thống tái chế chất thải tại Pháp
GDP

(USD)
(%) (%) (%)
Nhật 125,4 41.080 400 22,5 72,8 - 3,1
Mỹ 269,4 27.590 701 67 16 2 15
Đức 81,9 28.860 417 68,9 15,5 3,1 12,5
Pháp 58,3 26.280 348 50 40 10
Anh 58,1 19.800 347 83 13 - -
Hà Lan 15,6 25.850 484 52 27 8 13
Thụy Điển 8,8 25.770 314 38 55 7 -
Tây Ban Nha 39,7 14.200 323 75 5 20 -
Thụy Sỹ 7,2 43.420 406 11 76 13 -
Đan Mạch 5,2 32.250 351 16 71 13
Canada 29,7 19.200 646 82 8 - 10
Việt Nam 77,0 - - - - - -

Nhiều phế thải nguy hiểm nhưng trong đó vẫn có những thành phần có thể thu
hồi hay tái sử dụng được. Những chất này có thể là:
- Axit hay kiềm
- Dung môi, dầu;
- Kim loại nặng;
- Kim loại quý;
- Dung dịch ăn mòn;
Một số loại phế thải hạ cấp từ quá trình này song lại có thể sử dụng cho một quá
trình khác. Thí dụ: phế thải axit từ một số cơ sở công nghiệp có thể sử dụng như
một nguồn nguyên liệu ban đầu cho một đối tượng khác; dầu hay dung môi thải có
thể tái chế sử dụng làm nhiên liệu đốt; dung môi có thể thu hồi bằng cách chưng
cất – các nhà máy sơn có thể giảm nhẹ những vấn đề quản lý phế thải và giảm chi
phí mua vật tư hoặc củng có thể thu hồi đồng dạng oxyt hay hydroxyt từ dung dịch
ăn mòn đồng; thu hồi các kim loại quý như bạc từ phế thải ngành ảnh, hay vàng từ
công nghệ mạ…

6.3. THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT DẺO
Ở Việt Nam các sản phẩm chất dẻo bắt đầu thâm nhập vào cuộc sống từ những
năm 1960. Một số vật dụng gia đình trước đây chế tạo từ tre, nứa, sợi tự nhiên…
lần lượt được thay thế bằng nhựa. Bao gói thực phẩm bằng lá cây, giấy đã được
thay thế bằng plastic.
Trong công nghiệp và xây dựng, vật liệu plastic cũng chiếm lĩnh thị trường trong
nhiều lĩnh vực như cấp thoát nước , trang trí…
Vật liệu plastic đã góp phần nâng cao mức độ văn minh của cuộc sống nhưng
cũng đặt ra không ít những vấn đề rắc rối liên quan đến công tác bảo vệ môi
trường.
Tuy nhiên, dù bị chỉ trích nhiều nhưng vật liệu plastic vẫn được sử dụng rộng rãi
do tính ưu việt của nó cả về mặt kinh tế lẫn kỹ thuật. Với những tính năng ưu việt
đó, plastic dẫn đầu so với những vật liệu cạnh tranh với nó trong lĩnh vực bao gói
như thủy tinh, năng lượng cần thiết cho việc tạo ra nó củng nhỏ hơn 2 lần, khối
lượng vật liệu ban đầu cần thiết để tạo ra nó củng thấp hơn 20 lần, nhu cầu nước
cần cho chế tạo giảm đi 1,5 lần và chất thải rắn giảm đi một nữa. Mặt khác, so với
túi xách catton thì quá trình chế tạo túi xách plastic thải ít ô nhiễm hơn đối với môi
trường như trình bày ở bảng 6.2.
Bảng 6.2. So sánh mức độ ô nhiễm trong quá trình chế tạo chất dẻo và giấy
Chất ô nhiễm Chất dẻo Giấy
Ô nhiễm không khí
SO
2
100 284
NO
x
100 159
CO
x
100 159

C 100 640
Ô nhiễm nước
DCO 100 21,560
DCO
5
100 215,500

Tính bền vững của chất dẻo dẫn đến sự tồn tại dai dẳng của chúng trong thiên
nhiên sau khi sử dụng. Để phân rã sinh hoạt hoàn toàn plastic có nguồn gốc từ hóa
dầu ngày nay cần có một thời gian từ 2 – 4 thế kỷ.
Những vấn đề đặt ra khi thu gom và tái chế vật liệu chất dẻo:
Mặc dù chất dẻo hiện đang là vật liệu được ưa chuộng và có nhiều hứa hẹn trong
tương lai nhưng chúng cũng đồng thời đang bị các nhà môi trường phản đối do
mức độ gây ô nhiễm trong quá trình chế tạo, sử dụng và tiêu hủy. Các nhà môi
trường phản đối vật liệu plastic vì những lý do sau đây:
- Chất độc thải ra trong quá trình chế tạo plastic;
- Chất độ do phân hủy nhiệt plastic gây ra khi đốt rác;
- Làm giảm lượng chất thải rắn, đặc biệt là chất lượng phân compost chế tạo từ
rác.
Tuy nhiên việc thu gom plastic để tái sử dụng hay tiêu hủy chúng cùng với các
thành phần chất thải rắn khác củng cần phải được cân nhắc trên khía cạnh kinh tế
hơn là khía cạnh kỹ thuật. Khả năng tái sinh chất dẻo được xác định trên cơ sở
phân tích tổ hợp các thông số sau đây:
- Cân bằng năng lượng tổng thể, yêu cầu năng lượng để thu gom và tiêu hủy
chất thải;
- So sánh chất lượng, giá thành vật liệu chất dẻo thu gom;
- Ô nhiễm môi trường không khí trong quá trình chuyên chở và tiêu hủy chất
thải rắn;
- Ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là nước để rửa sản phẩm và lọc khói.
Theo kết quả của bảng này thì việc thu gom để tái chế chất plastic từ túi xách đã

qua sử dụng và chai lọ nhựa có hiệu suất năng lượng xấp xỉ nhau. Trong khi đó,
nếu xử lý bằng phương pháp đốt thì hiệu suất năng lượng của chai nhựa PVC chỉ
bằng khoảng 50% hiệu suất năng lượng của túi xách.
Tuy nhiên việc thu gom chất dẻo hiện nay chưa cho phép tạo ra sản phẩm nhựa
tái sinh có tỉ lệ chất lượng, giá thành tương đương với kỹ thuât chế tạo sản phẩm
từ hạt nhựa nguyên thủy. Việc thu gom chất dẻo chủ yếu để tái chế làm giảm năng
lượng thu hồi bằng bằng phương pháp đốt rác. Việc thu gom này chỉ có hiệu quả ở
các bãi rác công nghiệp hay bãi rác thương mại. Ngoài ra, ở các bãi rác khác người
ta phải tiêu tốn một năng lượng đáng kể để thu được một khối lượng chất dẻo có
giá trị.
Vấn đề tập trung thu hồi và xử lý các chất thải polyme – chất dẻo đòi hỏi phải
giải quyết ngay trong điều kiện sản xuất nơi có nhu cầu chất dẻo. Thực tế có hai
hướng:
1. Xử lý chế biến lại từng loại chất dẻo polyme ngay trong điều kiện sản xuất, ở
đây chủ yếu đối với các loại chất dẻo dùng phản ứng nhiệt.
2. Thu hồi tập trung các chất thải và vận chuyển tới nhà máy đặc biệt để chế
biến sản phẩm xác định. Vấn đề sử dụng chất thải là vật liệu polyme với công
nghệ và tính kinh tế càng trở nên phức tạp khi phải kể đến việc cải thiện tính
chất của vật liệu chất dẻo như: bền vững đối với quá trình oxy hóa, bền vững
sinh học, cơ học… Những vật liệu này không bị phân hủy tự nhiên(thối rữa,
phong hóa, tan trong nước) mà dùng biện pháp phân hủy cưỡng bức (đốt, sấy
nóng, tàng trử một nơi) thì lại gây nhiễm bẫn môi trường và do đó giá thành
phá hủy lại cao hơn nhiều từ 6 – 8 lần so với chi phí xử lý và phá hủy các
chất thải của đa số các xí nghiệp công nghiệp khác.
Tốt nhất nên sử dụng chất thải polyme ở dạng làm nguồn nguyên liệu bổ sung.
Việc ứng dụng công nghệ khả thi để chế biến nguyên liệu polyme thứ cấp sẽ cho
phép thỏa mãn các nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về loại vật liệu này.
Những nguồn chủ yếu của nguyên liệu polyme để sử dụng làm nguyên liệu thứ
cấp là các chất thải công nghệ khi chế biến chất dẻo và tạo sản phẩm bằng phương
pháp cơ học, hoặc các sản phẩm đã hao mòn bỏ đi rồi hoặc bán thành phẩm bỏ đi

(phim, thùng, hộp…).
Việc chế biến thứ cấp có đặc điểm riêng và là một quá trình công nghệ phức tạp
nhiều cấp. tất nhiên việc chế biến lại lần hai cũng liên quan với việc tổng hợp
polyme và tạo sản phẩm lần đầu, liên quan tới phương hướng sử dụng tiếp theo.
Do vậy giải quyết nhiệm vụ này phải gắn liền giữa tập trung – chế biến lại lần hai
với việc sử dụng tiếp và sao cho nhuần nhuyễn.
Khi giải quyết vấn đề sử dụng lại vật liệu polyme phải chia ra nhiều bước sau
đây:
1. Tổ chức thu hồi tập trung các phế thải polyme trong công nghiệp.
2. Nhận dạng chính xác và nhanh chóng các loại phế thải phế thải nhằm mục
đích thu thập phế thải phù hợp với chủng loại vật liệu ban đầu.
3. Tạo lập sơ đồ mới và hoàn thiện các sơ đồ công nghệ có sẵn, thiết bị có sẵn
để chế biến lại lần hai.
4. Phân tích kinh tế một cách cẩn thận về các phương pháp gia công chế biến
khác nhau.
6.4. THU HỒI VÀ CHẾ BIẾN CÁC SẢN PHẨM CAO SU
Trong công nghiệp chế tạo máy, việc sử dụng các sản phẩm cao su kỹ thuật rất
đa dạng. Trong đó phức tạp chủ yếu nhất là giải quyết vấn đề sử dụng các sản
phẩm bỏ đi và cũ không dùng nữa. Mặc dù cao su được sử dụng ở các thiết bị
công nghệ các loại, nhưng tỷ lệ về lượng thì lại rất thấp so với khối lượng của sản
phẩm.
Để lấy miếng cao su từ trong kết cấu ra, đôi khi phải tháo dỡ các nút và các chi
tiết ra. Thông thường các công tác tháo dỡ khá lớn nên giá trị thu hồi không đáng
kể. Vì vậy khi thiết bị đã hỏng đi thì người ta đưa ra đống sắt vụn mà không phân
chia các bộ phận riêng rẽ được. Chính do sự tản mạn của các sản phẩm từ cao su
trong toàn bộ khối lượng thiết bị nên nó gây khó khăn cho việc tổ chức thu nhặt
nguyên liệu thứ cấp.
Vấn đề tổ chức thu nhặt có ý nghĩa rất quan trọng. Việc tàng trử các chất thải cao
su kỹ thuật của các sản phẩm lớn như: săm lốp otô, băng chuyền, ống cao su mềm
mang tính chất lẻ tẻ, vụn vặt mà số lượng không nhiều, xảy ra tình trạng cấm

không được giao đồ cao su mới cho xí nghiệp công nghiệp nếu họ không giao nộp
lại đồ cũ. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng thực hiện được vì khó khăn trong
việc giao nộp tập trung và không có mạng lưới giao nộp tập trung và không có
mạng lưới tổ chức thu hồi thiết bị cao su. Việc vận chuyển một lượng nhỏ chất
thải trên một khoảng cách dài thì lại không lợi cho xí nghiệp. Vì vậy việc tập trung
hóa công tác gia công sơ bộ các chất thải sản xuất phải xét đến hệ thống thu nhặt
cao su cũ.
Trong trương hợp đang xét thì không thể dùng lực lượng của người tiêu thụ, sử
dụng để hoàn nguyên các chất thải cao su kỹ thuật được, bởi vì công nghệ phục
hồi tính chất ban đầu của cao su là một quá trình phức tạp nhiều giai đoạn đòi hỏi
ở các trạm với thiết bị chuyên dùng cũng như cán bộ được đào tạo chuyên môn.
Công việc đó chỉ có thể thực hiện trong điều kiện của xí nghiệp chế tạo săm lốp
hoặc công nghiệp cao su kỹ thuật. Hoàn nguyên cao su là một hướng cơ bản và có
lợi nhất trong việc gia công lại các sản phẩm bỏ đi bởi vì cho cao su hoàn nguyên
vào lẫn với hỗn hợp cao su thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều cao su mới và các thành
phần phụ gia khác, ta biết trong các loại cao su có tới 5 – 6 đến 20 thành phần chất
liệu khác nhau.
Quá trình hoàn nguyên bao gồm: công đoạn chuyển hóa cao su thành vật liệu
đàn hồi dẻo rồi tiếp theo là xử lý kỹ thuật và quá trình lưu hóa. Trước khi đưa cao
su vào hoàn nguyên người ta phải phân loại theo sản phẩm, theo dạng và lượng.
Sau khi loại kim loại và các tạp chất khác khỏi cao su, người ta nghiền nó thành
bột tới mức nhất định nào đó và giải phóng ra các mẫu kim loại đen.
Thực tiễn cho thấy tốt nhất nên thực hiện nghiền sơ bộ trong môi trường nitơ
lỏng với nhiệt độ -30 và -60. Cao su trở nên giòn và dễ tách khỏi kim loại. Kim
loại vẫn giữ tính đàn hồi, tính dẻo và không bị phá hủy, do đó cho phép thu hồi dễ
dàng và hoàn toàn. Hỗn hợp thu được sẽ qua khử lưu huỳnh, chuyển thành bán sản
phẩm dẻo. Cao su hóa dẻo có cấu trúc không gian 3 chiều do các phân tử cao su
tạo thành dưới ảnh hưởng của nhiên liệu, nồng độ oxy và các tác động cơ học. Sự
phá hủy các liên kết hấp phụ của muội – cao su – muội củng tạo khả năng hình
thành sản phẩm phân hủy phân tử thấp. Người ta thực hiện khử lưu hóa cao su trên

cơ sở cao su tổng hợp với sự có mặt của các chất làm mềm, làm giảm tác động
tương hỗ giữa các phân tử trong cao su hoặc cho thêm một ít chất hoạt hóa (0,25 –
3,0%) là chất cho phép rút ngắn thời gian quá trình và chi phí chất làm mềm và
tăng tính dẻo, đàn hồi của chất đã hoàn nguyên.
Khử lưu hóa cao su có thể được tiến hành tùy thuộc tính chất của cao su khi sử
dụng các phương pháp khác nhau. Khi dùng các phương pháp khác: hơi, trung hòa
nước, kiềm… thì người ta thực hiện khử lưu hóa cao su ở nhiệt độ 150 – 200
o
C
với sự có mặt của oxy không khí trong một số giờ.
Khi hoàn nguyên bằng các phương pháp cơ nhiệt để khử lưu hóa diễn ra dưới
ảnh hưởng của nhiệt độ 170
o
C và nhiều tác động cơ học khác trong vòng 1 – 15
phút. Ở Liên Xô người ta nghiên cứu đề ra quá trình hoàn nguyên cao su bằng
cách phân tán trong môi trường nước chứa nhũ tương. Khối lượng phân tán sẽ
hình thành sẽ được keo tụ và sấy khô. Sản phẩm thu được có tính dẻo tốt. Tính
chất bền chắc của cao su chế tạo bằng phương pháp này gần với các thông số
tương tự của cao su ban đầu.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình hoàn nguyên cao su là làm sạch khối lượng đã
thu được khỏi các tạp chất lẫn vào và sử dụng cao su khi sản xuất các hỗn hợp
công tác để lưu hóa. Sơ đồ công nghệ tái chế lốp cao su được thể hiện ở hình 6.8.


6.5. THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CÁC SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP KHÁC

Sơ đồ thu hồi và tái chế các sản phẩm khác như bóng đèn hỏng từ các nhà máy chế
tạo bóng đèn, dầu thải từ các xí nghiệp công nghiệp cơ khí, chế tạo hoặc trung tâm
dịch vụ sửa chữa xe, máy… được thể hiện ở hình 6.9 và hình 6.10.
Lốp cao su

Thu gom
Nhiệt phân Làm vụn
Chế biến thành hạt
và bột cao su
Tái sử dụng
Dầu Khí Muội than
Sử dụng Công nghệ nặng Sử dụng
Hình 6.8. Công nghệ tái chế lốp cao su


Bóng đèn ống hỏng
Thu gom
Đập vỡ
Phân loại
Thủy tinh Đui đèn
Phân loại
Vật liệu nhôm vụn
Tái sử dụng
Tẩy rửa sạch
Làm men cho
SX gốm
Thủy ngân
lọc lại
Chế tạo
bóng mới
Sản xuất
bóng đèn
Ắc quy NaCl
Hình 6.9. Tái chế bóng đèn ống tại Brazin


6.6. THU HỒI NĂNG LƯỢNG TỪ CHẤT THẢI
Hoạt động thu hồi năng lượng từ quá trình xử lý trung gian mà chủ yếu là từ quá
trình đốt và quá trình ủ sinh học (bảng 6.3).
Mục đích Công nghệ
- Giảm khối lượng
- Thu hồi năng lượng (nhiệt và điện)
- Giữ ổn định các chất độc hại trong
rác thải
- Giữ vệ sinh, an toàn cho sức khỏe
cộng đồng
- Tái chế

- Đốt rác
- Đốt rác có tái chế nhiệt
- Đốt rác có hệ thống nung chảy để
giảm thể tích (công nghệ mới)
- Đốt khí có hệ thống nung chảy
(mới được sử dụng ở Nhật)
- Tạo nguồn năng lượng mới từ rác
thải (RDF)
Dầu thải
Khử nước bằng
phương pháp ly tâm
Chưng cất ở
100 – 160
o
C
Chưng cất ở
330 - 350
o

C
Cô đặc dầu
Các chất cặn đáy
Đóng thùng Asphalt Sử dụng
Sử dụng
Tách chất bẩn
bằng graphite
Tách dầu nhẹ Nhiên liệu
Xử lý nước

Loại bỏ
Hình 6.10. Công nghệ thu hồi dầu thải ở Hồng Kông
- Giảm kích thước bằng các phương
pháp nén, ép…
- Chế biến phân compost; cắt nhỏ và
phân loại (phương pháp xử lý
trung gian)
Refuse Derived Fuel (RDF) là loại nhiên liệu thu từ rác thải có thể đốt được
giống như than (hình 6.10).
Xử lý rác thải sinh hoạt để sử dụng làm nhiên liệu cho các nồi chưng để tạo hơi
nước điện.
Ưu điểm của công nghệ thu hồi nhiên liệu mới từ rác là:
- Dễ lưu trữ;
- Dễ vận chuyển;
- Giá trị nhiệt lượng cao (3000 – 5000 kcal/kg)
- Chất lượng đồng nhất;
- Không sử dụng lò đốt tại nguồn phát sinh;
Tuy nhiên, công nghệ thu hồi nhiên liệu mới từ rác củng còn những bất lợi sau:
Bản thân nhiên liệu vẫn ở dạng rác thải, vì vậy khi đốt chúng cũng tương tự như
đốt rác và cần phải có phương pháp thu gom, xử lý lượng khí thoát ra. Việc đầu tư

nhà máy loại này rẻ hơn lò đốt nhưng đòi hỏi chi phí cho các trang thiết bị sử dụng
loại nhiên liệu này. Quá trình thu hồi nhiên liệu (RDF) từ rác thải đô thị được thể
hiện ở hình 6.10b.
Công nghệ thu hồi khí và nung chảy dựa trên nguyên tắc sử dụng khí đốt thu hồi
từ quá trình nung chảy và đồng thời tái thu kim loại không chứa oxyt – đây là loại
kim loại có giá trị cao. Tuy nhiên hệ thống này rất đắt vì phải trang bị lò đốt thông
thường kèm theo hệ thống nung chảy. Sơ đồ hệ thống tạo khí và nung chảy được
thể hiện ở hình 6.11.

6.7. HOẠT ĐỘNG THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI TẠI VIỆT NAM
ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa
ngày càng gia tăng mạnh mẽ tại vùng kinh tế trọng điểm đã làm nảy sinh nhiều
vấn để nan giải trong công tác bảo bệ môi trường. Bên cạnh những khó khăn nhất
định trong việc triển khai các biện pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý nước thải, khí
thải thì chất thải rắn đang thật sự là một mối đe dọa lớn đối với môi trường và sức
khỏe cộng đồng vì lượng thải ngày càng tăng đặc biệt là các chất thải nguy hại
ngày càng phong phú về cả số lượng lẫn chủng loại.
Tình trạng thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị và công chưa đáp ứng yêu cầu
hiện nay cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm môi trường nước, môi
trường đất, vệ sinh đô thị và ảnh hưởng xấu đến cảnh quan đô thị và sức khỏe
cộng đồng.
Theo con số thống kê từ các tỉnh, thành phố, từ năm 1996 – 1999, lượng chất
thải rắn bình quân khoảng từ 0,6kg/người.ngày – 0,8 kg/người.ngày. Ở một số đô
thị nhỏ, lượng chất thải rắn phát sinh dao động từ 0,3 – 0,5 kg/người.ngày.
Tách loại
lần 1
Tách loại
lần 2
Nghiền
lần 1

Sấy khô
Tách loại
lần 3
Nghiền
lần 2
Trộn Làm nguội Sàng
Vôi Thành phẩm (RDF)
Rác thải đô thị
Hình 6.10b. Quá trình thu hồi nhiên liệu (RDF) từ rác thải đô thị
Lượng rác thải đô thị củng như công nghiệp ngày càng tăng, tính chất độc hại
của rác thải củng tăng. Ở Hà Nội năm 1995: thành phần nilon, chất dẻo trong rác
thải sinh hoạt là 1,7%, thành phần kim loại vỏ hộp là 1,2%, năm 1997 đã tăng lên
4,1% và 5,5%. Năm 1998, tỷ lệ về thành phần chất rác thải củng có những biến đổi
hơn so với những năm trước đó.
Các hoạt động thu hồi tái chế tại Việt Nam chủ yếu sẽ được tập trung vào các
vấn đề sau:
- Tăng cường thu hồi sản phẩm đã sử dụng để dùng lại cho cùng một mục đích,
hoặc tìm ra một mục đích sử dụng khác. Tái sử dụng tập trung chủ yếu vào
các loại chai đựng đồ uống, các loại bao bì vận chuyển thông qua khâu lưu
thông dưới dạng đặt cọc để khép kín một chu trình: sản xuất – lưu thông –
tiêu dùng – lưu thông – sản xuất.
- Khuyến khích các cơ sở tái chế chất thải rắn bằng cách thu hồi các sản phẩm
đã qua sử dụng, xử lý hoặc chế biến lại để đưa vào nền kinh tế dưới dạng các
sản phẩm ban đầu hoặc tạo ra các sản phẩm mới.
- Tái sử dụng và tái chế chất thải rắn có thể thực hiện tốt ở các khu công
nghiệp tập trung trên cơ sở hình thành một hệ thống thông tin để trao đổi chất
thải vì trong một số trường hợp chất thải cần phải loại bỏ ở nơi này để trở
thành nguyên liệu đầu vào ở nơi khác.
Tại thành phố Hà Nội, các hoạt động tái chế được thực hiện thông qua sơ đồ lưu
chuyển ở hình 6.13.



Các vật liệu có thể tái chế được thu gom từ hộ gia đình, chợ , đường phố và khu
chôn lấp do những người thu gom hay người mua thuộc thành phần tư nhân. Trung
bình mỗi ngày có hơn 200 tấn vật liệu tái chế được thu gom. Các hoạt động tái chế
tư nhân hiện đang diễn ra ở Hà Nội dựa trên cơ sở thị trường giống các nước đang
phát triển khác, tuy nhiên, các hoạt động tái chế này hiện đang gặp rất nhiều khó
khăn:
- Ô nhiễm môi trường do các hoạt động tái chế sinh ra;
- Chi phí lao động gia tăng;
- Chi phí đổ thải rác thải;
- Giảm giá trị các sản phẩm được tuần hoàn;
- Sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm giá thành rẻ hơn.

6.8. HOẠT ĐỘNG THU HỒI VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI Ở CÁC NƯỚC
Nguồn sản sinh rác
(hộ gia đình, chợ, nhà
hàng, khách sạn…)
Người mua phế
liệu
Thu gom
bằng xe đẩy tay
Vận chuyển
Bãi chôn lấp
Hình 6.13. Sơ đồ lưu chuyển các dòng tái chế rác ở Hà Nội
Ngành công
nghiệp tái chế
Người mua
phế liệu
Người thu gom

mua phế liệu
Người nhặt rác
Người thu gom
mua phế liệu
33,5 kg/người
Thu gom - ngày
12,9 – 26,2 kg/người.ngày
Các nước phát triển trước đây cũng sử dụng hệ thống tái chế tương tự ở Việt
Nam. Tuy nhiên hệ thống tái chế cũng đã từng thất bại do mất giá trị tái chế và do
vật liệu có thể tái chế được lẫn với rác thải.
Các nước đã phát triển hiện nay đang thay đổi lối sống là tiêu dùng các sản phẩm
tái chế và sẽ phát triển ngành kinh doanh tái chế mới trên cơ sở thị trường. Ví dụ ở
Mỹ các đây 250 năm, tỷ lệ tái chế là hơn 90%. Năm 1970, tỷ lệ này giảm xuống
chỉ còn 70% và hiện nay giảm xuống còn khoảng 30%.
Đặc điểm của hoạt động thu hồi và tái chế chất thải ở các nước khác Việt Nam ở
chỗ họ đã tổ chức các dịch vụ công cộng có trách nhiệm đẩy mạnh tái chế rác bằng
ngân sách.
Để giảm thiểu lượng rác thải sản sinh, nước Mỹ đã có những chính sách hỗ trợ
các hoạt động tái chế và hiện đang cố gắng thiết lập xã hội kinh tế tuần hoàn (nhà
sản xuất phải xem xét xem sản phẩm của mình có sinh ra ít chất thải hơn không?
Và các chất thải liệu có khả năng tái chế không? Hình 6.14).

6.9. CÁC TRẠM TRUNG CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN
Các trạm chuyển tiếp được sử dụng để tối ưu hóa năng lao động của đội thu gom
và đội xe.
Chúng có thể được dùng để củng cố thêm lượng rác thu gom được từ các xe khác
nhau, và chúng thường được bố trí sao cho thời gian đi và khoảng cách mà các xe
thu gom phải chạy bên ngoài vòng thu gom bình thường của chúng là nhỏ nhất.
Các trạm chuyển tiếp còn có thể được dùng để thực hiện một chức năng quan
trọng là giảm lượng rác thải đưa đến bãi chôn lấp chung của thành phố và sử dụng

lại các vật liệu có khả năng thu hồi, tạo điều kiện cho những người bới rác không
chính thức lẫn những đội quân bới rác có tổ chức thực hiện công việc phân loại rác
để tái sử dụng ngay tại các trạm này.
Gom rác thải Tái sử dụng
Tái chế
X
ử lý trung gian
đúng quy cách
Đầu thải
cuối cùng
T
ối
ưu hóa

-

Không có khí th
ải

- APR (trách nhiệm nhiều
hơn về sản phẩm)
- DIE (thiết kế cho môi
trường)
- Sản xuất tại
-

ELCA

- Tài khoản môi trường
- Kế toán toàn bộ chi phí

Hình 6.14. Khái niệm về một xã hội kinh tế tuần hoàn
Trạm chuyển tiếp, do vậy là một cơ sở đặt tại gần khu vực thu gom, nơi mà các
xe thu gom có thể đổ rác của chúng xuống để sau đó rác lại được chất lại lên
những xe tải lớn hơn để chuyển một cách kinh tế đến bãi rác ở xa hơn.
Có hai loại trạm chuyển tiếp rác thải:
- Loại phục vụ cho những xe thu gom ban đầu như những xe thủ công, những
xe có động cơ nhỏ, bao gồm xe xích lô máy và những xe tải đổ rác nhỏ
(những loại này đôi khi được gọi là những điểm chuyển tiếp để phân biệt
chúng với loại thứ hai);
- Loại phục vụ cho những loại xe lớn hơn, thường là những xe cơ giới như
những xe thu gom rác thông thường, có thể mang rác thải đến những trạm
chuyển tiếp sau vòng thu gom thứ cấp (những loại này đôi khi được gọi là
những trạm trung chuyển).
Bất kể dùng loại chuyển tiếp nào, các cơ sở này đều có những mục tiêu chung.
Các mục tiêu của cơ sở chuyển tiếp bao gồm:
- Đón tiếp những xe thu gom rác thải một cách có trật tự;
- Xác định tải trọng của các xe;
- Hướng dẫn các xe đến điểm đổ rác;
- Đưa các xe ra một cách có trật tự;
- Xử lý các rác thải thành từng khối đã được chọn trước;
- Chuyển từng khối sang hệ thống vận chuyển hoạt động như một bộ phận
trung gian giữa hệ thống vận chuyển và các xe thu gom rác thải;
- Giảm đến tối thiểu sự lộn xộn và tác động đến môi trường.
Việc thiết kế trạm trung chuyển tốt nhằm:
- Cung cấp một hệ thống quản lý giao thông một cách có hiệu quả và trật tự
cho những xe thu gom đến (xếp hàng ít nhất, không phải xếp hàng trên
đường quốc lộ, quay đầu nhanh);
- Giảm đến tối thiểu lượng chất thải phải xử lý;
- Đảm bảo toàn bộ rác thải đều được chuyển đi hàng ngày và tạo điều kiện
thuận lợi cho làm sạch dễ dàng vào cuối ngày;

×