Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG BẮC LÀM THAY ĐỔI CƠ CẤU LÃNH THỔ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.19 KB, 26 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG ĐÔNG
BẮC LÀM THAY ĐỔI CƠ CẤU LÃNH THỔ


I. LỜI MỞ ĐẦU

Thực tế phát triển công ngiệp vùng Đông Bắc đã dẫn đến sự thay đổi cơ
cấu lãnh thổ cũng như hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đó chính
là một quy luật phát triển tất yếu.

Ở vùng Đông Bắc nước ta, các ngành công nghiệp đang trên đà phát
triển, sự phát triển .đó có sự tác động của nhiều yếu tố như vị trí địa lí,
tài nguyên lãnh thổ cùng với sự tổ chức quy hoạch cuả con người.

Trong đó các yếu tố của tự nhiên hay là yếu tố dân cư xã hội cũng cố
mối quan hệ qua lại mật thiết, sự thay đổi của yếu tố này sẽ ảnh hưởng
đến yếu tố khác và làm yếu tố khác thay đổi. Trong triết học, thường
được coi là sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và dường
như là minh chứng cho sự phát triển như một qui luật tất yếu.


Bài viết này dựa trên cơ sở thống kê số liệu mới từ nhiều nguồn tư liệu
khác nhau và lấy đánh giá chủ quan làm nền tảng nên sẽ khó tránh khỏi
những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý của cô giáo và bạn bè để
bổ sung cho vấn đề được thêm sáng tỏ và hoàn thiện.


- Tổ chức lãnh thổ công nghiệp đươc hiểu là: sự sắp xếp, phối hợp giữa
các quá trình và cơ sở sản xuất công nghiệp trên một lãnh thổ để sử dụng
hợp lí các nguồn lực sẵn có nhằm đạt hiệu quả cao về kinh tế xã hội và
môi trường.




- Cơ cấu lãnh thổ công nghiệp được hiểu là : sự sắp xếp, phối hợp giữa
các ngành bộ phận trong ngành công nghiệp trên một lãnh thổ để phát
triển hợp lí các các nghành nhằm đạt hiệu quả cao về kinh tế xã hội và
môi trường.

- Sự thay đổi cơ cấu, tổ chức lãnh thổ công nghiệp được hiểu là: sự thay
đổi các bộ phận trên sao cho hợp lí hiệu quả nhất.
II. NỘI DUNG


1. Khái quát chung về vùng Đông Bắc

- Vùng Đông Bắc gồm 11 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc
Cạn, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ
Và Bắc Giang.

Tổng diện tích tự nhiên: 65.326 km2, chiếm khoảng 20% diện tích của
cả nước.
Tổng dân số của vùng 9.036,7 nghìn người năm 2001, chiếm 11,5% dân
số cả nước.

Phía bắc của vùng giáp với đông nam Trung Quốc, phía tây giáp với
vùng Tây Bắc, phía nam giáp với Đồng bằng Bắc Bộ, phía đông giáp
biển đông.

=> Ta thấy rằng, vị trí địa lí của vùng có nhiều thuận lợi để phát triển
kinh tế. Nếu xét về quá trình hình thành và phát triển lãnh thổ đây là
vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản có thế mạnh để phát triển đa ngành

công nghiệp.

Đông Bắc có một vùng biển ấn tượng cho phát triển du lịch, hải cảng và
giao thông quốc tế. Hơn nữa, Đông Bắc là vùng biên giới có nhiều của
khẩu lớn làm hạt nhân cho tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng, Vùng Đông Bắc
có những nhân tố thuận lợi để phất triển nền công nghiệp hiện đại và sự
phát triển công nghiệp dẫn đến sự thay đổi cơ cấu lãnh thổ cũng như
hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp thay đổi như một điều tất yếu.


2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp
vùng Đông Bắc

2.1. Nhân tố lịch sử - xã hội

Sản xuất công nghiệp đòi hỏi một cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, nên lượng
vốn đầu tư ban đầu rất cao. Trong phát triển và phân bố công nghiệp,
người ta thường dựa vào các cơ sở công nghiệp cũ (được hình thành và
phát triển trong quá khứ), dựa vào đó mà mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ sản xuất.

Do đó, sự phát triển và phân bố công nghiệp trong quá khứ có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố công nghiệp trong hiện tại và
tương lai. Vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp ngày nay, cần
phải đặc biệt chú ý nghiên cứu, lựa chọn được vị trí phân bố hợp lý
(không những trong hiện tại mà cả trong tương lai) để nâng cao hiệu quả
sản xuất cho từng cơ sở sản xuất công nghiệp.

- Lịch Sử:


- Văn hóa có quá trình hình thành lịch sử lâu đời. Khoảng thế kỷ thứ III
trước CN hình thành nhà nước Âu Lạc (gồm Người Việt, Mường, Tày).

- Chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.

-Dân cư:

- Các dân tộc có trình độ kinh tế xã hội cao hơn có ảnh hưởng nhiều đến
sự phát triển công nghiệp trong vùng.

- Người Tày là cư dân bản địa lâu đời, từ cuối thiên niên thứ I trước CN,
dân số 1.190.342.
- Trình độ kinh tế xã hội cao hơn các dân tộc khác trong vùng, có ảnh
hưởng nhiều đến các dân tộc khác trong vùng.

- Người Nùng khoảng 700.000 người, di dân từ Quảng Tây (Trung
Quốc) Thế kỷ thứ XVII bị Hán Hóa.
- Các tộc người khác: Lô Lô, Sán Chay, H'mông, Dao v.v sống ở sườn
núi, đỉnh núi, người Tày, Nùng sống ở thung lũng.

- Người Cơ Dao: dân số 1.865 người. Cứ trú: Hà Giang
- Dân tộc Dao
- Người H'mông
- Người La Chí: dân số 10.765 người. Cư trú: Hà Giang, Lào Cai.
- Người Lô Lô

- Người Nùng: dân số 856.412 người. Cư trú: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Bắc Giang, Bắc
Ninh, TP.HCM, Lâm Đồng, Đà Lạt.


- Người Pà Thẻn: Cư trú: Tuyên Quang, Hà Giang (lễ cưới có một con
gà trống thiếng).
- Người Pu Péo: dân số: 705 người. Cư trú: cực Hà Giang.

- Người Sán Chay: dân số 147.315 người
- Người Sán Dìu: dân số 126.237 người. Cư trú: Quãng Ngãi, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang.

2.2. Sự phân bố của các nguồn tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với các ngành công
nghiệp luyện kim và chế biến kim loại, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản
xuất vật liệu xây dựng Vì vậy sự phân bố các nguồn tài nguyên thiên
nhiên trên các vùng lãnh thổ của đất nước có ảnh hưởng đến phát triển
và phân bố công nghiệp.

Các loại khoáng sản có quy mô lớn chủ yếu tập trung ở vùng :
- Than: trữ lượng khoảng 3,5 tỉ tấn ở độ sâu 300 m (1991), chủ yếu là ở
Quảng Ninh, Thái Nguyên . Năm 1996 lượng than khai thác là 10,9 triệu
tấn than lộ thiên .

- Thiếc: ở Tĩnh Túc - Cao Bằng có hàng chục ngàn tấn, khai thác còn ít,
trữ lượng 129.000 tấn .
- Sắt: phân bố ở phía bắc Thái Nguyên, Cao Bằng, Hà Giang. Trữ lượng
khoảng gần 1 tỉ tấn .
- Apatit:( Lào Cai)

- Ðồng: trữ lượng khoảng 300 ngàn tấn, khai thác còn ít .
- Crom: trữ lượng khoảng 10 triệu tấn, chất lượng không cao .


- Vàng: phân bố nhiều ở Bồng Miêu - Bắc Lạng ; vàng sa khoáng quy
mô nhỏ ở Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Tuyên , trữ lượng khoảng 100
tấn .
- Ðá quý: có nhiều ở sông Chảy (Yên Bái

2.3. Cơ sở kinh tế-xã hội:

Nền công nghiệp của vùng Đông Bắc hiện nay đã có được một cơ sở vật
chất, kỹ thuật nhất định, kể cả hệ thống cơ sở hạ tầng (than, dầu, thuỷ
điện, mạng lưới vận tải ) và hàng loạt ngành công nghiệp cơ bản

đã có đội ngũ lao động kỹ thuật cao có tay nghề và trình độ chuyên môn
khá vững vàng. mạnh mẽ của các ngành kinh tế, kích thích nhu cầu tiêu
dùng của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn đối với sản
xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, con đường liên doanh, hợp tác với nước
ngoài mở ra thị trường rộng lớn không ngừng.

3. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp của vùng Đông Bắc.

Kinh tế vùng từ năm 1990 đến nay đã đạt được những kết quả nhất định.
Đến năm 2002 tổng sản phẩm quốc nội của toàn vùng là 21.579 tỉ đồng,
chiếm 4,05% GDP toàn quốc.

Cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch theo hướng phát triển và đẩy
mạnh công nghiệp và dịch vụ. Tỉ trọng công nghiệp, xây dựng trong
GDP từ 20,6% năm 1990 tăng 26,3% năm 2002, tỉ trọng nông – lâm –
ngư nghiệp giảm tương đối từ 46,3% xuống 33,6% và dịch vu tăng từ
32,9% lên 33,8%.

Giá trị tăng của ngành công nghiệp chiếm 5,8% so với cả nước.Trong 19

ngành công nghiệp có 8 ngành chiếm tỉ trọng từ 5% trờ lên. Đó là công
nghiệp nhiên liệu 26,7%, luyện kim đen 8,2%, luyện kim màu 6,3%,
công nghiệp sản

xuất máy móc thiết bị 6%, công nghiệp hoá chất 8,5%, công nghiệp vật
liệu xây dựng 13,8% công nghiệp giấy 5,5% và công nghiệp thực phẩm
10,3%.

Do đâu mà vùng Đông Bắc lại có sự đa dạng về cơ cấu ngành công
nghiệp đến vậy:
Vùng phong phú về tài nguyên thiên nhiên. Trong đó nổ bật là các loại
khoáng sản. Ở đây có các loại khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với
vùng và có tầm quan trọng với quốc gia như: Than, apatit, sắt, chì, kẽm,
thiếc…


Ngoài ra Đông Bắc có các loại khoáng sản như: Titan (Thái Nguyên),
Đồng (Lao Cai), vàng (Bắc Kạn, Thái Nguyên), đá quý (Yên Bái), đá
xây dựng, đá vôi, nước khoáng, đất sét.


Nhiều loại có trữ lượng lớn như than khoảng 3,5 tỉ tấn tập trung chủ yếu
ở Quảng Ninh, Thái Nguyên và Lạng Sơn. Sắt 136 triệu tấn tập trung
chủ yếu ơ Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Giang. Apatit 2,1 tỉ tấn, Thiếc 10
triêu tấn và các loại khoáng sản khác.


Khoáng sản là điều kiện quan trọng để vùng phát triển các ngành công
nghiệp, trong đó có các ngành công nghiệp hiện đại.


Cơ cấu ngành công nghiệp trong vùng dã có nhiều biến đổi. Số xí nghiệp
công nghiệp nặng tăng với quy mô lớn chiếm tỷ trngj lớn nhất trong cả
nước như khai thác năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa chất…Ngành
công nghiệp khai thác năng lượng như than đá cung cấp tới 98% than đá
cho nhu cầu trong nước và chiếm tỷ trọng 26,7% trong giá trị gia tăng
công nghiệp của cả nước; công nghiệp hóa chất chiếm 78,5% ; công
nghiệp vật liệu xây dựng chiếm 13,8%

.
=> Với định hướng chung phát triển các chuyên ngành công nghiệp khai
thác và chế biến khoáng sản; nông lâm sản, thực phẩm, tiểu thủ công
nghiệp và làng nghề , ngành cơ khí, quy hoạch đã xác định thế mạnh
cần phát huy ở mỗi địa phương cụ thể ta dã thấy được nhưng sự thay
đổi.


- Tại tỉnh Lào Cai, đối với thành phố Lào Cai và 4 huyện Bát Xát, Bắc
Hà, Bảo Thắng, Sa Pa phát triển công nghiệp khai thác và chế biến
khoáng sản (apatit, đồng, sắt), chế biến nông lâm sản xuất khẩu, gia
công các sản phẩm xuất khẩu sang Vân Nam (Trung Quốc), thủy điện
vừa và nhỏ để cung cấp điện cho nhu cầu tại chỗ, công nghiệp phân bón,
hóa chất.


-Tại tỉnh Hà Giang, đối với các huyện Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, Xín
Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc tập trung phát triển
công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản quy mô vừa và nhỏ; thủy
điện nhỏ, chế biến nông lâm sản quy mô nhỏ và hộ gia đình; phát triển
tiểu thủ công nghiệp để tạo việc làm cho đồng bào dân tộc.



- Tại Cao Bằng, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các huyện giáp biên,
đặc biệt tại khu vực cửa khẩu biên giới để phát triển công nghiệp với tốc
độ cao tập trung phát triển công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu như gia
công, lắp ráp, bao gói; đối với các khu vực khác, tập trung phát triển
công
nghiệp chế biến nông lâm sản.


- Tại Quảng Ninh, đối với thị xã Móng Cái, tập trung phát triển công
nghiệp chế biến nông, hải sản xuất khẩu sang Trung Quốc; gia công, bao
gói các sản phẩm phục vụ xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Móng Cái.

4. Sự thay đổi về cơ cấu lãnh thổ vùng đông bắc

- Sự thay đổi về cơ cấu lãnh thổ vùng đông bắc bao gồm các chuyên
mục nhỏ:
1> Cơ cấu thành phần kinh tế: là tỷ trọng ( tỷ lệ đóng góp cho GDP) của
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân bao gồm các thành
phần như: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư
bản Nhà nước . . .v.v.v

2> Cơ cấu ngành kinh tế: là tỷ trọng ( tỷ lệ đóng góp cho GDP) của các
ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Như: ngành công nghiệp xây
dựng, ngành nông-lâm-ngư nghiệp, ngành dịch vụ

3> Cơ cấu vùng kinh tế: là tỷ trọng ( tỷ lệ đóng góp cho GDP) của các
vùng kinh tế, địa phương trong nền kinh tế quốc dân. Như là: vùng kinh
tế đồng bằng Bắc Bộ, vùng ĐBSCL, vùng Bắc trung bộ và Duyên hải
miền trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông nam bộ v .v.


Như vậy, ta có thể hiểu một cách tổng quát là: khi nói đến cơ cấu kinh tế
là nói đến tỷ lệ đóng góp ( tỷ trọng ) của các thành phần, các vùng,
ngành kinh tế.

- Sự phát triển ngành công nghiệp dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lãnh thổ
công nghiệp của vùng.

Để có được sự phát triển của ngành công nghiệp của vùng. Vùng đã có
rất nhiều điều kiện để phát triển và trước hết là nguồn khoáng sản phong
phú bậc nhất nước ta. Có nhiều loại có trữ lượng lớn như thanh, sắt…

Bên cạnh đó phải kể đến các nhân tố khác như:

* Dân cư và nguồn lao động:

- Đến năm 2007, đã có 9.543,9 nghìn người sống trong vùng, mật độ dân
số của vùng là 149 người/km2.

- Đông Bắc có tỷ lệ dân số đô thị thấp hơn mức trung bình của cả nước
và rất không đồng đều giữa các tỉnh, cao nhất là ở Quảng Ninh (47 %),
thấp nhất chỉ khoảng vài phần trăm.

- Mật độ dân số trung bình 149 người/km2, trong đó tập trung đông nhất
ở tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Quảng Ninh và ít nhất ở các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.

- Trình độ học vấn và chuyên môn của dân cư và nguồn nhân lực ở vùng
Đông Bắc khá cao, tương đương với trình độ trung bình của cả nước,
cao hơn vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng

thấp hơn đồng bằng sông Hồng Có đến 53,7 % tổng số nguồn nhân lực
đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở trở lên, cao hơn mức trung bình cả nước
(45 %).

Tuy nhiên vẫn còn tỉ lệ không nhỏ không biết chữ (7,43 %), chủ yếu là
đồng bào các dân tộc ít người.

- Trong đó có trên 8 vạn người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên
(50 % làm việc trong ngành giáo dục, y tế, quản lý nhà nước).

- Các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ có
tỉ lệ chưa biết chữ rất thấp (3 – 6 %), tỷ lệ người lao động có chuyên
môn kỹ thuật đạt 15 – 25 %. Các tỉnh còn lại có tỷ lệ chưa biết chữ cao
(15 – 20 %).

* Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường giao thông.

-Hệ thống đô thị

Gồm 7 thành phố, 10 thị xã và 112 thị trấn.
- Các tuyến trục giao thông và cảng biển

- Hệ thống đường ô tô:

+ Hệ thống đường bộ với tổng chiều dài chạy qua vùng Đông Bắc là
44.250 km, mật độ 66 km/km2.

- Hệ thống đường sắt:

. Tuyến Hà Nội – Đồng Đăng dài 163 km nối với ga Bằng Tường Tuyến

Hà Nội –Lào Cai,
. Tuyến Hà Nội - Quán Triều dài 76 km,
. Tuyến kép –Uông Bí 74 km và kéo dài tới Bãi Cháy.

- Vùng Đông Bắc còn có một số cảng biển thuộc nhóm cảng phía Bắc:

+ Cảng Cửa Ông là cảng chuyên dùng ở vịnh Bắc Bộ, với chức năng
xuất than đá.
+ Cảng Cái Lân với chức năng tổng hợp. Cảng có mực nước sâu (3 - 13
m), nằm cạnh cảng than Hồng Gai, với một lòng lạch dài 6 km, rộng 100
m, sâu 7,5 m và tàu trọng tải lớn có thể cập cảng.

Còn nhiều điệu kiện khác nữa. Tất cả là động lực cho vùng phát triển đa
dạng các loại hình công nghiệp khác nhau, bao gồm cả các ngành hiện
đại.

=> Sự phát triển của công nghiệp đầu tiên chỉ dựa vào nguồn tài nguyên
sẵn có ở từng địa phương. Cùng với sự khai thác quy mô ngày càng lớn
hơn, sử dụng tốt hơn các lợi thế sẵn có của vùng. Sự phát triển của các
ngành công nghiệp đã kéo theo sự phát triển kinh tế của từng địa
phương, của cả vùng.

Công nghiệp Đông Bắc có sự chuyển biến mạnh mẽ. Số xí nghiệp công
nghiệp nặng với quy mô lớn đang ngày một gia tăng, có 19 ngành công
nghiệp thì có 18 ngành chiếm tỉ trọng trên 5 % .Trong đó công nghiệp
nhiên liệu chiếm 26,7 %; luyện kim đen 8,2 %; luyện kim màu 6,3 %;
công nghiệp vật liệu xây dựng 13,8 %.

Trong vùng đã hình thành một số khu công nghiệp chuyên môn hóa như:
Khu công nghiệp luyện kim đen Thái Nguyên, than Quảng Ninh, hóa

chất Lâm Thao -Việt Trì, phân bón Bắc Giang.

Như vậy sự phát triển công nghiệp có sự khác nhau giưa các địa phương
của vùng, tỉnh có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất của vùng là
Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ.

Chính vì vậy mà sự phát triển công nghiêp đã dẫn đến sự thay đổi về cơ
cấu lãnh thổ công nghiệp. Quảng Ninh đóng vai trò như một đàu tàu kéo
sự phát triển kinh tế của vùng Đông Bắc.

Theo đó, giá trị sản xuất Công nghiệp của tỉnh trong tháng 4 ước đạt
2.346,2 tỷ đồng; trong đó công nghiệp trung ương đạt 1.648,8 tỷ đồng,
tăng 19,3% so CK; công nghiệp địa phương đạt 365 tỷ đồng; công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 332,4 tỷ đồng, tăng 11,3 % so với
tháng trước.

Tính chung 4 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tòan tỉnh ước
đạt 8.890,9 tỷ đồng, tăng 18,3% so CK 2009, trong đó dẫn đầu là khối
công nghiệp trung ương, tăng 29,7%.

Điện là sản phẩm có mức tăng cao nhất, với sản lượng 4 tháng đạt 419,4
triệu KWh, bằng 46,9% kế hoạch năm, gấp 6,78 lần so cùng kỳ 2009.
Các sản phẩm khác như xi măng, than sạch, đóng tàu, dầu thực vật, bia,
thủy sản chế biến, bột mỳ…. đều tăng trưởng so CK 2009.

- Đặc điểm tổ chức lãnh thổ của một số ngành công nghiệp chủ yếu của
vùng Đông Bắc.

+ Công nghiệp điện lực:


Ngành công nghiệp điện lực sản xuất ra một loại năng lượng không thể
tích trữ tồn kho được, nhưng có khả năng chuyển tải đi xa bằng đường
dây cao thế, vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp điện lực cần
chú ý tới phát triển và phân bố hợp lý mạng lưới điện quốc gia thống
nhất để nối liền các cơ sở sản xuất với các cơ sở tiêu dùng điện, nhằm
điều hoà cung- cầu về điện, tận dụng công suất các nhà máy điện, đảm
bảo an toàn trong sử dụng điện đến tất cả các vùng lãnh thổ, thúc đẩy
kinh tế-xã hội của đất nước phát triển.

- So với nhà máy thuỷ điện có cùng công suất, nhà máy nhiệt điện có
thời gian xây dựng ngắn hơn, vốn đầu tư ban đầu lớn hơn, nhưng khi đi
vào sử dụng lại có giá thành một đơn vị điện lực cao hơn so với nhà máy
thuỷ điện. Từ đặc điểm này trong phát triển và phân bố công nghiệp điện
lực cần nghiên cứu kết hợp tốt giữa các loại hình nhà máy điện cho phù
hợp với khả năng, vốn đầu tư và nhu cầu tiêu dùng điện trong từng giai
đoạn phát triển kinh tế-xã hội.

- Công suất nhà máy điện càng lớn, công nghệ càng hiện đại, mạng lưới
phân phối điện càng rộng thì giá thành một đơn vị điện lực sản xuất ra
càng rẻ. Do đó trong phát triển điện lực cần nghiên cứu, phân tích toàn
diện điều kiện tự nhiên khả năng kinh tế-kỹ thuất. Nên xây dựng nhà
máy có quy mô công suất lớn sẽ có lợi hơn xây dựng nhà máy điện công
suất nhỏ.
+ Công nghiệp luyện kim:
- Ngành công nghiệp luyện kim sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu,
năng lượng nên thường được phân bố gần các vùng mỏ kim loại. Tuy
nhiên, cũng có thể phân bố gần các trung tâm cơ khí nặng để đáp ứng
yêu cầu nguyên liêu, hoặc gần vùng nhiên liệu lớn.

- Ngành luyện kim đen bao gồm nhiều giai đoạn sản xuất phức tạp, đòi

hỏi phải được phân bố thành một loại hình xí nghiệp liên hợp quy mô
lớn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.

- Ngành công nghiệp luyện kim mầu, do hàm lượng kim loại trong
quặng thường thấp và rất thấp, nên khi phân bố thường có thêm công
đoạn làm giàu quặng trước khi tinh luyện, công đoạn này cần phân bố
ngay trong vùng khai thác quặng: các xí nghiệp tinh luyện nên phân bố
gần nơi khai thác, làm giàu quặng hoặc nơi giàu nhiên liệu năng lượng.
Địa điểm phân bố còn tuỳ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ tinh luyện
thích hợp với mỗi loại quặng.

+ Công nghiệp cơ khí:

Ngành cơ khí vừa có yêu cầu phân bố tập trung, vừa có yêu cầu phân bố
phân tán. Phần lớn các ngành cơ khí được phân bố gần thị trường tiêu
thụ, gần trung tâm khoa học, gần nơi tập trung lao động. Có thể phân
chia ngành cơ khí thành các nhóm để phân bố:
- Cơ khí nặng cần phân bố gần nguồn nguyên liệu.

- Cơ khí trung bình, máy móc, thiết bị nên phân bố gần những nơi tiêu
thụ lớn.
- Cơ khí chính xác phân bố gần trung tâm khoa học- kỹ thuật, gần nguồn
lao động có kỹ thuật, vùng tập trung dân cư có trình độ dân trí cao.

- Cơ khí sửa chữa, lắp ráp nên phân bố rộng khắp thành một hệ thống,
mạng lưới trong cả nước.
+ Công nghiệp hoá chất:

- Những cơ sở sản xuất công nghiệp hoá chất sử dụng những hoá chất
độc hại, hoặc sản xuất ra các hoá phẩm độc hại, gây ô nhiễm môi trường

và ảnh hưởng đến sức khoẻ của dân cư, cần được phân bố xa các khu
dân cư, xa nguồn nước sinh hoạt và không được phân bố trước hướng
gió chủ yếu của vùng.

- Những cơ sở sản xuất hoá chất, sản xuất ra những sản phẩm chuyên
chở đi xa không có lợi và nguy hiểm (chất gây cháy nổ, hoá chất cơ
bản ), nên phân bố gần nơi tiêu thụ.

- Đối với những cơ sở sản xuất hoá chất có quan hệ với nhau trong quy
trình
công nghệ sản xuất, trong phát triển và phân bố nên tổ chức thành loại
hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất.

+Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng:

Sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thường có
khối
lượng lớn, giá trị thấp, vận chuyển đi xa không kinh tế, nên thường được
phân bố ở những vùng có sẵn nguyên liệu hoặc vùng tiêu thụ. Tuy nhiên
trong phát triển và phân bố, ngành này cũng được
chia thành ba nhóm với những yêu cầu phân bố khác nhau, đó là:

- Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng nguồn nguyên
liệu rẻ tiền, khó chuyên chở đi xa so với thành phẩm (xi măng ) thường
được phân bố ở vùng có sẵn nguyên liệu.

- Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sản xuất ra những sản
phẩm có kính thước lớn, cồng kềnh, nặng nề, khó chuyên chở đi xa so
với nguyên liệu (bê tông đúc sẵn) nên phân bố gần nơi tiêu thụ.


- Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng quy mô nhỏ, công nghệ
sản xuất đơn giản, sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền có ở khắp mọi nơi
(sản xuất vật liệu xây dựng thông thường) nên phân bố rộng khắp để
phục vụ yêu cầu tiêu dùng của dân cư.

5.Sự thay đổi về hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp của vùng
Đông Bắc

sự phát triển của ngành công nghiệp dẫn đến sự thay đổi về hình thức tổ
chức lãnh thổ công nghiệp của vùng.

Điều đó là tất yếu của sự phát triển công nghiệp nói riêng và sự phát
triển kinh tế nói chung. Khi mà vùng có sự phát triển công nghiệp rồi thì
đồng nghĩa với sự tích luỹ về vốn đê đầu tư vào sản xuất. Trước kia hầu
hết các khu công nghiệp đều được xây dựng gần nơi nguyên liệu. Nhưng
giờ đây các khu và ngành công nghiệp không ngừng được mở rộng và
chú trọng vào chiều sâu, chú trọng đến thị trường, đường giao thông,
nguồn lao động và đặc biệt là sự phát triển đồng đều kinh tế và trên lợi
thế sẵn có của vùng.

Khai thác hiệu quả và hợp lý nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật
chất, lao động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế, xã hội và
môi trường.

Trên cơ sở đó đã cho ra đời hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp của
vùng như: Các điểm công nghiêp thường là ở hầu hết các địa phương
trong vùng. Các khu công nghiệp tập trung, và trung tâm công nghiêp
điển hình là trung tâm gang thép Thái Nguyên, trung tâm công nghiệp
Cẩm Phả, Hạ Long - Quảng Ninh…


Trên cơ sở đó các tỉnh lại có chính sách nhằm phát triển thích hợp nhất
các hình thức tổ chức công nghịêp này theo đinh hướng của nhà nước.
Nhằm khai thác có hiệu quả và đem lai hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã
hội và môi trường.


6. Mặt tích cực, hạn chế và các giải pháp sự phát triển công nghiệp dẫn
đến sự thay đổi cơ cấu lãnh thổ và hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp của vùng Đông Bắc.

- Tích cực

+ Ngành công nghiệp được tổ chức, sắp xếp và hoạt động hiệu quả.
+ Góp phần GDP, làm tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế của vùng
+ Tạo ra nhiều việc làm, đem lại nhiều thu nhập cho người dân
+ Hiện đại hóa công nghệ -kỹ thuật, trình độ quản lý
-Hạn chế
+ Phân hóa giàu nghèo
+ Ô nhiễm môi trường
- Các giải pháp
+ Cần có quy hoạch, dự báo những tác động tiêu cực và thực hiện khắc
phục
+ Phát triển công nghiệp gắn liền khai thác hợp lí nguồn tài nguyên
+ Phân bố các khu công nghiệp hợp lý có tính chiến lược
+ Chú ý hạn chế sự phân hóa giàu nghèo do chênh lệch về thu nhập
+ Bảo vệ môi trường, có kế sách phát triển bền vững.
III. KẾT LUẬN


Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, đặc trưng cho

trình độ phát triển và vững mạnh của nền kinh tế quốc dân. Vai trò của
công nghiệp đối với phát triển và phân bố sản xuất được thể hiện:

- Phát triển công nghiệp là con đường tất yếu và duy nhất để cải tạo và
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân; làm cho các ngành kinh tế quốc dân
được sản xuất, tổ chức và quản lý theo phương pháp công nghiệp với
hiệu quả cao.

- Phát triển và phân bố công nghiệp tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới sự
phân bố của các ngành sản suất khác, tới toàn bộ tổ chức lãnh thổ của
một xã hội, tới sinh thái môi trường. Các điểm

công nghiệp, các trung tâm công nghiệp được phân bố ở đâu thường làm
biến đổi theo nó sự phân bố của nông nghiệp, giao thông vận tải, các
ngành dịch vụ hình thành ở đó những điểm dân cư lớn, tập trung, đẩy
mạnh quá trình đô thị hoá, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt xã hội và môi
trường thiên nhiên.


- Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để
đẩy mạnh cách mạng khoa học, công nghệ và ứng dụng những thành tựu
của nó vào phát triển nền kinh tế quốc dân.


- Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để thu
hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng các quan hệ kinh tế-
thương mại với nước ngoài.


- Phát triển và phân bố công nghiệp hợp lý còn góp phần nâng cao tiềm

lực quốc phòng và khả năng phòng thủ đất nước. Phát triển và phân bố
công nghiệp đúng đắn đem lại những hiệu quả to lớn cho toàn bộ xã hội,
ảnh hưởng tới sự hình thành các tổng thể sản xuất lãnh thổ của các vùng,

×